Trong toàn bộ di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ là một nét nổi bật, xuyên suốt, trở thành cơ sở lý luận cho Đảng và Nhà nước vận dụng và hoạch định chủ trương, chính sách phát triển phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng. Mặc dù không dành riêng bài viết nào về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, song qua một số bài nói, bài viết của Người đã làm nổi bật sự cần thiết của việc đào tạo, bồi dưỡng và những biện pháp cơ bản để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Về sự cần thiết của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ
Thứ nhất, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để phát huy vai trò và những ưu điểm nổi bật của phụ nữ.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận và khẳng định phụ nữ có vai trò quan trọng trong sự nghiệp dựng nước, giữ nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi giai đoạn, phụ nữ đã ra sức phấn đấu góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi, đưa non sông gấm vóc Việt Nam thêm tốt đẹp, rực rỡ. Chính vì vậy, Người cho rằng đào tạo, bồi dưỡng phụ nữ nói chung, cán bộ nữ nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là công việc gốc của Đảng để phát huy vai trò, năng lực của họ đối với sự phát triển của xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, phụ nữ còn có nhiều ưu điểm như ít mắc tệ tham ô, lãng phí, không hay chè chén, ít hống hách, mệnh lệnh. Những ưu điểm đó được đúc kết từ đặc điểm tâm lý, đức tính tốt đẹp của phụ nữ trong toàn bộ sự phát triển. Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để bố trí họ vào đúng những vị trí, chức vụ phù hợp với khả năng sẽ phát huy năng lực, sở trường và những ưu điểm của họ.
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ góp phần khắc phục những nhược điểm, hạn chế của phụ nữ, tạo điều kiện thúc đẩy phụ nữ vươn lên.
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền toàn miền Bắc ngày 1-8-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một số nhược điểm, hạn chế của phụ nữ như “bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái”(1). Đó chính là hậu quả của tư tưởng trọng nam khinh nữ, định kiến giới tồn tại dai dẳng, rộng rãi trong xã hội. Vì vậy, Đảng và Chính phủ cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để xóa bỏ định kiến xã hội đối với phụ nữ, xóa bỏ tâm lý tự ti, giúp họ đủ tự tin đảm nhận những công việc được giao. Người chỉ rõ nếu không quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ sẽ là một thiếu sót đối với Đảng. Bản thân mỗi cán bộ nữ phải chủ động khắc phục, phải đấu tranh mạnh, “không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết, giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền”(2).
Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để bố trí, cất nhắc họ vào những vị trí lãnh đạo, quản lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phụ nữ có tiềm năng to lớn, đặc biệt là khả năng lãnh đạo, “có nhiều phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo ở cơ sở. Nhiều người công tác rất giỏi”(3). Vì vậy, Đảng và Chính phủ phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, phải thực hiện tốt bình đẳng giới trong đào tạo, bồi dưỡng góp phần nâng cao trình độ, năng lực để họ có đủ khả năng tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, trở thành những cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Các cấp, các ngành đặc biệt phải chú ý cất nhắc cán bộ phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo, nhất là các ngành hoạt động thích hợp với phụ nữ.
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ góp phần giải phóng phụ nữ, giải phóng xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của cách mạng là bình quyền, bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ là một bộ phận trong cuộc cách mạng ấy. Chất lượng, hiệu quả của đào tạo, bồi dưỡng là thước đo đánh giá sự tiến bộ, văn minh của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến quan điểm của Mác: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái, thì biết xã hội đó tấn bộ ra thế nào?”(4). Người chỉ rõ, muốn giải phóng phụ nữ một cách triệt để thì phải bằng các hình thức thích hợp, đào tạo và bồi dưỡng họ trở thành những cán bộ giỏi đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người chỉ rõ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ cùng với sự cố gắng vươn lên để cán bộ nữ được bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ, từng bước góp phần giải phóng phụ nữ, giải phóng xã hội.
Về biện pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác cán bộ nữ nói riêng, công tác cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước. Để làm tốt công tác đào tào, bồi dưỡng cán bộ nữ, cần phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, cần thực hiện tốt các khâu, các bước trong công tác cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một số biện pháp để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Một là, Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành phải quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ nữ là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, trong đó Đảng và Chính phủ có vai trò hết sức quan trọng. Người chỉ rõ trách nhiệm của Đảng, Chính phủ trong việc phát triển đội ngũ cán bộ nữ, trực tiếp là công tác đào tạo, bồi dưỡng để họ đủ trình độ, năng lực đảm nhận những vị trí lãnh đạo, quản lý. Đảng và Chính phủ trực tiếp ban hành chủ trương, chính sách liên quan đến công tác cán bộ, trong đó có cán bộ nữ. Đội ngũ cán bộ nữ có điều kiện phát triển hay không, có cơ hội được học tập nâng cao trình độ hay không phụ thuộc vào những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, Người nhắc nhở Đảng và Chính phủ phải quan tâm và có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, phù hợp với điều kiện công việc của phụ nữ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ nữ có đủ tiêu chuẩn để đề bạt, sử dụng.
Hai là, phải xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng muốn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, người cán bộ phải có đủ cả đức và tài, cả phẩm chất và năng lực, thật sự là những người “trung thành và hăng hái”. Đức là gốc, là nền tảng quyết định sự phát triển vững chắc, sự thành công hay thất bại của cán bộ, không phân biệt nam hay nữ. Bên cạnh đó, cán bộ nữ phải có trình độ nhất định về văn hóa, về lý luận chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ, biết đề xuất, định hướng, xây dựng chỉ thị, nghị quyết để đem chính sách của Đảng giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, để giải quyết hiệu quả công việc được phân công, để giúp đỡ người khác. Đặc biệt, trước những giai đoạn mang tính bước ngoặt của cách mạng, những vấn đề mới nảy sinh, cán bộ nữ cần có năng lực, tính sáng tạo, quyết đoán, vừa phải thạo về chính trị, vừa phải giỏi về chuyên môn.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tài và đức của người cán bộ không tự có, mà phải được đào tạo, bồi dưỡng mọi mặt, phải qua quá trình phấn đấu, rèn luyện, qua thử thách trong thực tiễn. Vì vậy, Đảng xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với cán bộ nữ để họ trở thành những công dân mới xã hội chủ nghĩa, vừa biết lao động chân tay, vừa biết lao động trí óc, tạo mọi điều kiện cho phụ nữ học văn hóa, khoa học - kỹ thuật, nâng cao trí thức, tự vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ đất nước. Đối với cán bộ trẻ, nhiệt tình, tâm huyết nhưng còn thiếu kinh nghiệm phải bồi dưỡng họ, mạnh dạn giao việc cho họ, thử thách họ.
Ba là, bản thân cán bộ nữ phải có kế hoạch tự đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, Chính phủ mà còn là nhiệm vụ của chính bản thân cán bộ nữ. Sự nỗ lực, cố gắng của bản thân họ là yếu tố quyết định đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, đến sự giải phóng phụ nữ. Sự nghiệp cách mạng mới rất vẻ vang song cũng nhiều khó khăn, thử thách. Muốn thực hiện được sự nghiệp đó, bản thân phụ nữ phải tự cố gắng vươn lên, không nên ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, động viên cán bộ nữ phải “phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự lập; phải nâng cao lên mãi trình độ chính trị, văn hóa, kỹ thuật”(5). Người cũng chỉ rõ, phụ nữ muốn được Đảng, Chính phủ tin tưởng và cất nhắc vào những vị trí lãnh đạo, quản lý, bản thân mỗi cán bộ phải không ngừng học tập mọi lúc, mọi nơi, về mọi mặt: chính trị, văn hóa, kỹ thuật, nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa. Tại Hội nghị Cán bộ phụ nữ miền núi ngày 19-3-1964, Người nhắc nhở: “Chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được”(6). Phụ nữ phải vươn lên để bình đẳng với nam giới về trình độ, về năng lực quản lý kinh tế và quản lý xã hội, chủ động quyết tâm khắc phục khó khăn, phải tự tin, tự lực, tự cường, không nên tự ti, chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình(7).
Những nội dung cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tính nhân văn, nhân ái, thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, góp phần to lớn cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giải phóng xã hội ở nước ta hiện nay.
--------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.640.
(2) Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 12, tr.640.
(3) Bài nói tại lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, ngày 18-1-1967, Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 15, tr.275.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 2, tr.313.
(5) Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ III ngày 9-3-1961, Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 13, tr.59.
(6) Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 14, tr.263.
(7) Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình, ngày 10-10-1959, Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập 12, tr.301.
ThS. Nguyễn Thị ThảoGiảng viên Học viện Chính trị Khu vực II