Thứ Hai, ngày 15 tháng 12 năm 2025

Đồng chí Nguyễn Văn Linh, người suốt đời phấn đấu vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh thăm, chúc Tết cán bộ, xã viên xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng. (Ảnh: TTXVN)

Trải qua nhưng năm tháng đầy đau thương và mất mát, đất nước ta đã được độc lập, tự do, nhân dân từng bước được ấm no, hạnh phúc. Đó là thành quả của 30 năm trường kỳ kháng chiến chống xâm lược và của 40 năm bảo vệ và xây dựng Tổ quốc thiêng liêng. Nó còn là sự kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết nghìn đời được hun đúc, kết tinh trong quá trình dựng nước, giữ nước kiên cường, hào hùng của dân tộc; là thành quả của hơn một thế kỷ đấu tranh anh dũng, hy sinh quên mình của cả một dân tộc anh hùng, bất khuất.

Nước Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có các thế hệ lãnh đạo tài, đức vẹn toàn lãnh đạo nhân dân anh hùng trong sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm và xây dựng đất nước, một trong những người con kiên trung ấy có đồng chí Nguyễn Văn Linh. Từ cậu học trò nghèo tham gia rải truyền đơn đến khi trở thành người lãnh đạo Đảng tài ba, cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Nguyễn Văn Linh là một trang sử vẻ vang được viết lên từ những đóng góp trí tuệ và tất cả sức lực cho dân tộc.

1. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh gắn liền với quá trình giành độc lập và chuyển mình vươn lên của quê hương thành phố Hồ Chí Minh Thành đồng Tổ quốc.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh, tên thật là Nguyễn Văn Cúc, sinh ngày 1 tháng 7 năm 1915, tại Hà Nội, nhưng quê hương bản quán tại xã Giai Phạm, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên. Từ năm 1926 - 1930, Nguyễn Văn Cúc theo học tại trường Bounal, nay là trường PTTH Chuyên ban Ngô Quyền, Hải Phòng. Tại đây, học sinh Nguyễn Văn Cúc đã xây dựng Học sinh Đoàn, thuộc tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng Chí hội, tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 1 tháng 5 năm 1930, trong khi đi rải truyền đơn, kỷ niệm ngày Quốc tế Lao Động, học sinh Nguyễn Văn Cúc bị giặc Pháp bắt.

Từ Hải Phòng, thực dân Pháp đưa Nguyễn Văn Cúc và các bạn học về giam ở Hỏa Lò, Hà Nội. Nhưng sau đó, như thấy trước sự nguy hiểm của người tù đang tuổi học trò này, bất chấp luật pháp, chúng xử án chung thân, đưa trở lại Hải Phòng để phát lưu ra Côn Đảo. Những năm 1930 - 1936, Đồng chí Nguyễn Văn Cúc là người tù chính trị trẻ nhất đến Côn Sơn, hòn đảo chơi vơi ngoài biển Đông. Nơi đây chàng thanh niên 16 tuổi mới thực sự nhận ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Hết ngày tới đêm, đồng chí được tiếp xúc với những người cộng sản Việt Nam thuộc thế hệ đầu tiên như Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Ngô Gia Tự.

Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp chiếm đa số trong quốc hội, lúc này chính sách của Thực dân Pháp cởi mở hơn với các nước thuộc địa. Nhiều tù chính trị ở Đông Dương được ra khỏi nhà tù, chàng trai Nguyễn Văn Cúc lúc này đã 22 tuổi, trở lại hoạt động cách mạng.

Từ năm 1936 - 1939, Đảng bộ Hải Phòng gần như tan rã. Trước tình thế cấp bách ấy, Trung ương đã phái đồng chí Nguyễn Văn Linh về lại Hải Phòng. Trong xóm nhỏ ở xã Dưa Hàng Kênh, đầu não của Đảng bộ Hải Phòng được nhân dân che chở, từng bước lớn mạnh. Ba năm ấy, trong đội ngũ Đảng hãy còn non trẻ, đã xuất hiện một Đảng viên mới ba tuổi Đảng, nhưng có tài tổ chức cơ sở Đảng, tập họp và vận động quần chúng, đó là Nguyễn Văn Cúc. Năm 1939, đồng chí được Trung ương phái vào thành phố Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) và tham gia vào Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố. Cuối năm ấy, do chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp, nhiều cơ sở cách mạng trong cả nước bị tan rã. Đồng chí được phân công ra Trung Kỳ để thành lập lại Xứ ủy. Chưa đầy một năm sau, đồng chí bị giặc Pháp bắt lần thứ hai và lại bị đày ra Côn Đảo.

Tháng 10 năm 1945, cùng các tù chính trị khác, đồng chí được đón về đất liền, sau đó về Sài Gòn - Gia Định với nhiệm vụ Bí thư Thành ủy, rồi Bí thư Đặc Khu ủy. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng nửa nước còn lệ thuộc Mỹ, những đồng chí trung kiên với cách mạng ở Nam Bộ luôn bình tĩnh, đánh giá tình hình, nhận định đúng âm mưu chia cắt đất nước lâu dài của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm và đề đạt với Trung ương những nhiệm vụ của cách mạng Miền Nam.

Năm 1958, thay đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Nguyễn Văn Cúc làm Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Xứ ủy Nam Bộ cùng với Khu ủy các miền lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị, buộc địch phải thi hành Hiệp định Gèneve, chống khủng bố. Mặt khác, tích cực đề xuất với Trung ương tiến hành đấu tranh toàn diện theo đường lối cách mạng miền Nam mà Trung ương đang thảo luận. Giữa năm 1959, Trung ương có Nghị quyết 15, nhân dân miền Nam Đồng khởi, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bắt đầu. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Đồng chí được bầu vào Ban chấp hành Trung ương với tên Nguyễn Văn Linh.

Tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước với trọng trách là Phó Bí thư Trung ương Cục, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có công lớn trong công tác xây dựng các tổ chức quần chúng, cả nông thôn lẫn thành thị. Theo năm bước công tác của Đảng, đồng chí đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, góp phần đào tạo nhiều lớp đảng viên làm nòng cốt cho mọi mặt phong trào cách mạng ở miền Nam. Với Trung ương Cục miền Nam, cũng như khi được trực tiếp làm việc với Bộ Chính trị, đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn có những đề xuất có giá trị trước những bước ngoặt quan trọng của lịch sử đất nước.

Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi hoàn toàn, nước nhà thống nhất, đồng chí trở về làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Tại Đại hội Đảng lần thứ IV, đồng chí tiếp tục được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được cử vào Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, lần lượt đảm nhận các chức vụ Trưởng ban Cải tạo Xã hội chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam.

Giữa những năm 1980, tư tưởng đổi mới bắt đầu khơi dậy trong cả nước. Đặc biệt, tại thành phố Hồ Chí Minh, trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển mình, đồng chí được phân công về làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Cùng tập thể Thành ủy, đồng chí đã tích cực chỉ đạo công cuộc đổi mới quản lý kinh tế ở một thành phố luôn năng động này. Một số xí nghiệp công nghiệp trong thành phố chủ động trong sản xuất, làm ăn thực sự có hiệu quả.

Tháng 6 năm 1985, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8, khóa 5, đồng chí lại được bầu vào Bộ Chính trị. Một năm sau đó, đồng chí được cử làm Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng. Từ quyết tâm của Bộ Chính trị, từ thực tế sinh động trong quản lý kinh tế của cả nước, đường lối đổi mới đã được nhất trí cao.

Năm 1986, Đồng chí Nguyễn Văn Linh trở thành Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI. Đó là sự nối tiếp của năm mươi năm trước, từ lúc đồng chí đảm trách vai trò xây dựng lại Đảng bộ Hải Phòng để rồi sau này xây dựng lại Đảng bộ Sài Gòn, Đảng bộ Miền Nam và góp phần đưa Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng lớn mạnh.

Từ năm 1986 - 1990, trong cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã trực tiếp triển khai Nghị quyết đổi mới mang tính lịch sử của đất nước, ba chương trình kinh tế lớn của Đảng được thực thi. Nền kinh tế dần hướng vào thị trường; quan hệ quốc tế, đặc biệt trong khu vực, được cải thiện theo hướng hợp tác cùng có lợi. Quan điểm lấy dân làm gốc được chính thức khơi dậy như một động lực mới cho nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa.

Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, đồng chí Nguyễn Văn Linh tự nguyện không ứng cử vào Ban chấp hành Trung ương do tuổi cao. Với sự tín nhiệm và lòng kính trọng, Ban chấp hành Trung ương đã đề cử đồng chí làm Cố vấn Ban chấp hành Trung ương.

2. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, người gắn bó mật thiết, quan tâm sâu sắc tới đảng bộ và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, suốt đời phấn đấu vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng.

Trong cuộc đời hoạt động sôi nổi, đầy nhiệt huyết của mình, đồng chí đã có nhiều công lao đóng góp to lớn đối với Đảng và dân tộc đặc biệt là sự gắn bó nghĩa tình với nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Tinh thần yêu nước, thương dân, tấm lòng nhân hậu cùng trí tuệ hơn người kết tinh trong con người ấy đã cho ra đời những tư tưởng, quan điểm tiến bộ, phù hợp cùng với thực tiễn hoạt động thiết thực suốt những năm tháng chiến đấu giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Nam và cả nước nói chung. Có thể khẳng định đồng chí Nguyễn Văn Linh là tấm gương trong sáng về đức, tài, mẫu mực cả trong công cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, cũng như xây dựng kinh tế xã hội của đất nước trong thời bình.

Thứ nhất, đồng chí chủ trương thực hiện nghiêm túc, triệt để nhiệm vụ cải tạo kinh tế, đặc biệt chú trọng vào ngành công nghiệp và thương nghiệp.

Những năm đầu sau ngày đất nước thống nhất, bên cạnh những công việc quan trọng khác, đồng chí được Trung ương tin tưởng giao trọng trách nặng nề là thực hiện nhiệm vụ cải tạo công, thương nghiệp tư bản ở miền Nam. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đã giành không ít thời gian để nghiên cứu lý luận, bám sát thực tiễn, phân tích những kinh nghiệm hay, những điển hình tốt cả trong nước và nước ngoài. Nguyên tắc mà đồng chí luôn tuân thủ là: Nắm vững chủ trương của Trung ương, phân tích chính xác tình hình thực tiễn của miền Nam để vận dụng một cách sáng tạo, nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho công cuộc cải tạo.

Trong kháng chiến và kiến quốc, đồng chí Nguyễn Văn Linh là nhà tổ chức lãnh đạo phong trào, cùng chiến sĩ và đồng bào miền Nam làm nên cao trào Đồng khởi, mở màn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Đồng chí còn là một Bí thư Thành ủy cùng Đảng Bộ Thành phố phá thế bao cấp và cùng với cả nước hình thành công cuộc đổi mới đưa nước nhà thoát khỏi khủng hoảng về kinh tế, xã hội và gặt hái những thành tựu nổi bật.

Từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) tháng 9-1979, tình hình sản xuất công nghiệp đã phát triển tốt hơn. Tuy nhiên, do chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong lãnh đạo kinh tế cũng có lúc, có nơi xảy ra tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, gây ra nhiều thiệt hại. Khi được Trung ương phân công trở lại làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lần thứ hai, tháng 12-1981, đồng chí Nguyễn Văn Linh và tập thể lãnh đạo thành phố đã chú trọng đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá, kiên quyết sửa đổi và điều chỉnh kịp thời. Đồng chí nói: “Trả về cho sản xuất sự vận hành đúng quy luật của nó”; muốn sản xuất “bung ra” thì các doanh nghiệp phải được giao quyền tự chủ, phải phá bỏ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp. Đây là điều đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn nhắc tới. Qua mô hình thí điểm dệt Thành Công, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh áp dụng cơ chế kế hoạch 3 phần A B C, cơ chế lương khoán sản phẩm, tự tìm tòi tháo gỡ những khó khăn về vật tư, nguyên liệu cho sản xuất. Sản phẩm làm ra không chỉ Nhà nước bao tiêu mà còn được bán trên thị trường theo giá bảo đảm kinh doanh.

Qua nghiên cứu khảo sát thực tế, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chỉ rõ: “Thực tế đã chứng minh rằng trong cuộc đấu tranh giằng co giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và lạc hậu, những cái phù hợp quy luật, có sức sống thường xuất hiện ở cơ sở, ở những nơi khó khăn, phức tạp nhất”. Đồng chí đã đề nghị Thành ủy cho phép nhân diện rộng điển hình, đồng thời mở rộng cơ chế tự chủ ra nhiều xí nghiệp, nhiều loại hình sở hữu khác nhau, cũng như phát triển ra ngoài phạm vi thành phố bằng việc hợp tác, liên kết với các xí nghiệp của tỉnh bạn và các xí nghiệp của Trung ương, bước đầu tính đến việc mở rộng quan hệ kinh tế, làm ăn với nước ngoài.

Thứ hai, đồng chí luôn gần gũi nhân dân, bám sát thực tiễn, động viên, giáo dục và luôn là tấm gương dẫn đầu mọi việc cho nhân dân noi theo; từng bước tháo gỡ khó khăn cho sản xuất phát triển.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã có những trăn trở, tìm tòi để làm sao vừa cải tạo và xây dựng thành phố theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa mà vẫn tôn trọng quy luật phát triển của một thành phố đã từng hoạt động theo kinh tế thị trường, đã đạt tới một nền sản xuất hàng hóa tương đối phát triển; làm sao vừa cải tạo, vừa đẩy mạnh được sản xuất, vừa phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế, góp phần vào việc ổn định cuộc sống của nhân dân, giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội.

Đồng chí đã thường xuyên xuống cơ sở, gặp gỡ cán bộ và nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng, thắc mắc của nhân dân, cùng cán bộ cơ sở bàn bạc tháo gỡ. Từ trăn trở của bản thân, với kinh nghiệm trong quản lý điều hành và qua khảo sát thực tế, đồng chí Nguyễn Văn Linh nhận thấy rằng một số chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời, chậm sửa chữa, làm giảm sút động lực của doanh nghiệp và nhiệt tình lao động của nhân dân, tạo khe hở để phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, làm cho tình hình sản xuất bị sa sút, đình trệ.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng đồng ý về việc thành lập Câu lạc bộ Giám đốc - một hình thức sinh hoạt diễn đàn nhằm trao đổi kinh nghiệm tổ chức, quản lý, sản xuất kinh doanh. Qua nghe báo cáo và trực tiếp đi thực tế cơ sở, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương đã thêm quyết tâm xóa bỏ cơ chế cũ, dứt khoát thực hiện đổi mới cơ chế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới trên lĩnh vực kinh tế. Một bước ngoặt mới đã mở ra cho cách mạng Việt Nam, trong đó có phần đóng góp tích cực, hiệu quả của đồng chí Bí thư Thành ủy.

Trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí một mặt ra sức tìm tòi để cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đại hội lần thứ VI bằng những cơ chế, chính sách, bước đi, cách làm phù hợp đem lại hiệu quả thiết thực, mặt khác đã kịp thời đặt ra những nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo sự nghiệp đổi mới nhằm giữ vững định hướng chính trị - xã hội cho toàn Đảng, toàn dân. Những trăn trở của đồng chí Nguyễn Văn Linh, cũng như quá trình gắn bó sâu sát với cơ sở đã trở thành động lực, thành sức mạnh để đồng chí phấn đấu và thành công trong quá trình tìm tòi, khảo nghiệm và chỉ đạo thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới kinh tế ở nước ta.

Thứ ba, đồng chí chú trọng xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn quan tâm đến phát triển các thành phần kinh tế. Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là những Bài học kinh nghiệm về Chính sách Kinh tế mới (NEP) của Lênin, cũng như từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh cùng một số tỉnh, thành phố, quan điểm về xây dựng một nền kinh tế hàng hóa với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, xóa bỏ phương thức quản lý hành chính quan liêu bao cấp của đồng chí Nguyễn Văn Linh đã hình thành rõ dần. Sự kiên định về quan điểm, nhuần nhuyễn trong bước đi và biện pháp thực hiện của đồng chí Nguyễn Văn Linh đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng đường lối đổi mới kinh tế tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.

Đồng chí luôn trăn trở làm thế nào để kinh tế quốc doanh vươn lên cạnh tranh được với các thành phần kinh tế khác, tiêu thụ được sản phẩm, làm ăn có lãi, giữ được vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo phải thể hiện ở chỗ nắm vững sản phẩm then chốt của nền kinh tế, phải lấy năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, thái độ phục vụ.., để cạnh tranh và làm gương cho các thành phần kinh tế khác. Đồng chí còn cho rằng: “Làm kinh tế thị trường mà không có thị trường là bế tắc”. Do đó, các cơ sở quốc doanh, trước hết là các giám đốc phải năng động, làm quen với thị trường, làm ra hàng hóa hợp thị hiếu người tiêu dùng, lấy năng suất cao, chất lượng tốt và giá thành hạ làm mục tiêu phấn đấu để tồn tại và phát triển. Đồng chí gợi ý việc mở rộng xí nghiệp cổ phần để huy động vốn và tạo điều kiện cho mọi công nhân có cơ hội tham gia quản lý, làm chủ nhà máy.

Thứ tư, đồng chí luôn là tấm gương sáng, sống mẫu mực, cần kiệm, liêm chính, tiên phong và kiên quyết loại trừ các tệ nạn xã hội.

Nhờ phương hướng đổi mới do đại hội VI đề ra, tình hình kinh tế xã hội đã mở ra một bước mới, kinh tế tăng trưởng khá, không khí xã hội cởi mở hơn, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn.

Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng với Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương quyết tâm đổi mới kinh tế theo đường lối Đại hội VI đề ra. Theo đồng chí, muốn từng bước thoát ra khỏi khó khăn lúc này phải làm đồng bộ nhiều việc, tập trung sức thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, lấy sản xuất làm gốc; chấn chỉnh bộ máy tổ chức cho gọn nhẹ, bỏ bớt tầng nấc trung gian; chấn chỉnh khâu lưu thông - phân phối, cung ứng, dịch vụ; tích cực đấu tranh chống tiêu cực.

Thấu suốt quan điểm lấy dân làm gốc trong quản lý kinh tế, phát huy quyền tự chủ của các cơ sở, xóa bỏ bao cấp, đi vào hạch toán kinh doanh. Đa dạng hóa các thành phần kinh tế, trong đó coi trọng củng cố các cơ sở quốc doanh và kinh tế tập thể. Chú trọng tổ chức lại sản xuất, tiết kiệm nguyên vật liệu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, bảo đảm đời sống cho công nhân để tái sản xuất sức lao động, bớt cán bộ gián tiếp và chống các chi tiêu không hợp lý, bảo đảm “ba lợi ích”, mà “đầu ra” không đội giá thị trường.

Bảo đảm giữ vững và phát triển sản xuất, không để những cơ sở làm ăn có hiệu quả thiếu vốn, tìm cách huy động vốn trong nhân dân. Chính sách thuế và lãi suất ngân hàng cần hợp lý hơn để các đơn vị, cá nhân mạnh dạn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.

Kiên quyết chống buôn lậu, bảo vệ sản xuất trong nước. Chủ trương thực hành tiết kiệm ngoại tệ để nhập vật tư, nguyên liệu cho sản xuất, không vì lợi ích địa phương, cục bộ mà làm hại đến nền kinh tế chung. Hạn chế nhập khẩu những sản phẩm cho tiêu dùng, ưu tiên nhập khẩu những thiết bị vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất; mở rộng sản xuất những mặt hàng làm từ nguyên liệu trong nước; có chính sách khuyến khích những cơ sở và người làm hàng xuất khẩu; tăng những mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến; tăng cường liên kết, liên doanh giữa các cơ sở sản xuất, các địa phương khác nhau, các bên đều có lợi; tăng cường việc mua bán trực tiếp trên thị trường thế giới không qua trung gian; đơn giản hóa thủ tục hành chính trong xuất nhập khẩu; hướng mở rộng thị trường ra ngoài nước…

Một điều hết sức quan trọng, để nền kinh tế phát triển bền vững nhất thiết phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong đó có những cán bộ trực tiếp làm kinh tế, như: Giám đốc công ty, xí nghiệp, phụ trách cơ sở sản xuất, cửa hàng… cả về phẩm chất chính trị và năng lực công tác. Chú trọng tổng kết kinh nghiệm, lắng nghe những vướng mắc của cơ sở để tháo gỡ; cổ vũ những sáng kiến hay, khuyến khích tranh luận để làm sáng tỏ những vấn đề mới mẻ, đồng thời ngăn ngừa những khuynh hướng lệch lạc xuất hiện. Coi trọng nhân rộng điển hình tiên tiến trong tổ chức, quản lý, lao động sản xuất kinh doanh. Thực hiện dân chủ hóa hoạt động của Đảng, công khai hóa đấu tranh chống tiêu cực tham ô, lãng phí, quan liêu…

Như chúng ta biết, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, đồng chí Nguyễn Văn Linh còn để lại một tấm gương trong sáng, tự nguyện không ứng cử vào Ban chấp hành Trung ương do tuổi cao. Với sự uy tín to lớn và lòng kính trọng, Ban chấp hành Trung ương đã đề cử đồng chí làm Cố vấn Ban chấp hành Trung ương.

Dù tuổi ngày càng cao, sức ngày càng yếu, nhưng đồng chí vẫn thường xuyên động viên các địa phương, đơn vị, xí nghiệp tiếp tục công cuộc đổi mới theo tinh thần các Nghị quyết Đại hội VI, VII và VIII của Đảng. Đồng chí còn dành thời gian để tiếp những cán bộ lão thành, người có công với cách mạng hoặc trẻ em nghèo hiếu học. Tuổi càng cao, tình cảm với đồng chí, đồng bào thêm sâu nặng. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta yêu mến, kính trọng. Riêng với đồng bào ta ở Nam Bộ và Sài Gòn - Thành Phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Linh còn được nhân dân kính yêu và gọi người bằng những từ ngữ thân thương trìu mến là anh Mười, bác Mười, chú Mười Cúc thân yêu.

Trọn cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đem hết trí tuệ, sức lực để cống hiến cho Đảng và nhân dân, luôn luôn trau dồi kiến thức và lắng nghe ý kiến đồng bào, đồng chí, quan tâm tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ và góp phần xây dựng các quan điểm, đường lối của Đảng. Cùng với nhiều cống hiến khác, đồng chí đã để lại nhiều đóng góp quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội nước nhà. Những quan điểm của đồng chí được Đảng và nhân dân ta ghi nhận và tiếp tục phấn đấu, biến những trăn trở dự định của đồng chí thành hiện thực trên con đường xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.

Có thể nói, trong cuộc đời cách mạng của đồng chí, đúng vào những thời điểm Đảng, đất nước, nhân dân yêu cầu, đồng chí xuất hiện trên những cương vị khác nhau, không ồn ào, chói sáng, mà luôn hết sức chân thành, khiêm tốn, điềm tĩnh đón nhận những trọng trách hết sức nặng nề. Bao nhiêu năm thăng trầm của cuộc đời làm cách mạng, đồng chí vẫn giữ nguyên đức tính liêm khiết, khiêm tốn, giản dị của người cách mạng, giữ gìn cuộc sống cá nhân mẫu mực, trong sáng theo gương Bác Hồ. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Linh như là một sự lựa chọn của lịch sử. Tại thời điểm đất nước đang trong cơn khủng hoảng kinh tế xã hội, đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, đồng chí đã bình tĩnh đảm nhiệm vai trò người cầm lái con thuyền của Đảng vững vàng vượt qua sóng gió, vượt qua muôn ngàn lực cản để mở cánh cửa đổi mới, đón ánh nắng và không khí trong lành, mang lại những nguồn sinh lực mới cho Đảng và đất nước.

Trong nhiều năm qua, kinh tế thành phố giữ mức tăng trưởng cao liên tục, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, quy mô được mở rộng, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Kinh tế thành phố chiếm tỷ trọng ngày càng cao, đến nay chiếm hơn 21% GDP của cả nước; đóng góp 30% ngân sách quốc gia. Thực hiện nhiều chính sách thu hút nguồn lực xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị; không gian đô thị mở rộng, hệ thống hạ tầng, bộ mặt đô thị ở nhiều khu vực thay đổi rõ rệt. Những kết quả tăng trưởng kinh tế, chương trình giảm nghèo càng có ý nghĩa hơn, số hộ nghèo có thu nhập dưới 16 triệu đồng/người/năm chỉ còn 1,35%; số hộ cận nghèo có thu nhập dưới 21 triệu đồng/người/năm chỉ còn 2,78%; GDP bình quân đầu người hiện đạt hơn 5.100 USD. Thành phố luôn giữ vững ổn định chính trị trong mọi tình huống, an ninh và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, quốc phòng được tăng cường. Trên cơ sở thấu hiểu bản chất cách mạng, lòng yêu nước, nhân ái của nhân dân, Đảng bộ thành phố chú trọng phát động các phong trào thi đua yêu nước, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy sức dân để chăm lo cho dân đạt kết quả thiết thực, đậm chất nhân văn, nghĩa tình của con người thành phố, thể hiện sinh động bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

Thành phố Hồ Chí Minh không ngừng phát triển, trong quá trình phát triển ấy, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Thành phố luôn luôn ghi nhận công lao to lớn, học tập và làm theo những tấm gương tốt đẹp của đồng chí Nguyễn Văn Linh. Trách nhiệm của Đảng bộ, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị thành phố là phải tiếp tục nỗ lực, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, nghĩa tình để mãi xứng danh là thành phố mang tên Bác Hồ muôn vàn kính yêu, Thành phố Anh hùng.

PGS. TS Trương Thị Hiền

* Đồng chí Nguyễn Văn Linh với sự nghiệp đấu tranh cách mạng ở Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định và trong thời kỳ đầu xây dựng, phát triển Thành phố Hồ Chí Minh

* Đồng chí Nguyễn Văn Linh với Sài Gòn - Gia Định, thành phố Hồ Chí Minh

* Bài học về mối quan hệ Đảng-Dân từ "Những việc cần làm ngay" của Đồng chí Nguyễn Văn Linh

* Mẩu chuyện nhỏ về đồng chí Nguyễn Văn Linh

* Tư tưởng “Dân là gốc” và bài học tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh

* Nhớ mãi người anh, người thầy: Nguyễn Văn Linh

* Đồng chí Nguyễn Văn Linh- Người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tận tụy, mẫu mực, thân thương của cách mạng miền Nam và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định - thành phố Hồ Chí Minh

* Triển lãm ảnh “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - Nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo”

* Đồng chí Nguyễn Văn Linh – Hành trình cùng nhân dân và đổi mới

* Đồng chí Nguyễn Văn Linh – học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt đời gắn bó máu thịt với Đảng bộ và Nhân dân thành phố mang tên Bác Hồ

* Khai mạc Hội thảo khoa học “Đồng chí Nguyễn Văn Linh với cách mạng miền Nam, với Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định và TPHCM”


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo