Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của tình hình cách mạng lúc đó: thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới, cần thiết lập đội quân giải phóng, đẩy mạnh tác chiến nhằm gây được ảnh hưởng tốt về chính trị, từ đó mở rộng cơ sở đều khắp.
Quân đội nhân dân Việt Nam đã trải qua 71 năm (1944 – 2015) chiến đấu và xây dựng, là tổ chức vũ trang do lãnh tụ Hồ Chí Minh và đảng của giai cấp công nhân Việt Nam tổ chức, giáo dục và rèn luyện, là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân, phát xít, giành độc lập dân tộc, kháng chiến chống đế quốc xâm lược và bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân trong thời kỳ hiện nay. Đội quân đó được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng và thực tế chiến trường, trưởng thành một cách vững chắc và nhanh chóng, có thời kỳ trưởng thành vượt bậc. Quân đội nhân dân Việt Nam có những điểm đặc thù của một đội quân cách mạng kiểu mới: Ngay từ khi mới ra đời đã mang bản chất của giai cấp công nhân; đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản; chiến đấu nhằm thực hiện lý tưởng cao quý Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; một lòng vì nhân dân phục vụ. Đây chính là những thành tố tạo nên sức mạnh của quân đội ta, đội quân trăm trận trăm thắng, đội quân anh hùng của dân tộc anh hùng.
Ngày 22-12-1964, trong Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập Quân đội nhân dân tại thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “…Quân đội ta anh dũng trong kháng chiến mà cũng anh dũng trong hòa bình… Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, lãnh đạo và giáo dục. Cán bộ và chiến sĩ phải luôn luôn khiêm tốn, luôn luôn cố gắng hơn nữa. Phải phát huy bản chất và truyền thống cách mạng”. Đặc biệt lời khen ngợi sau đây của Bác: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(1), được mọi thế hệ cán bộ, chiến sĩ trân trọng như một vinh dự lớn, trở thành truyền thống tốt đẹp của quân đội.
Quân đội ta trung với Đảng thể hiện ở việc thực hiện nghiêm chỉnh mọi đường lối, chủ trương do Đảng đề ra, nhất là đường lối quân sự, đường lối tổ chức - cán bộ trong quân đội, đường lối quốc phòng toàn dân; kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; luôn luôn đề cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, không bị bất ngờ trong bất cứ tình huống nào.
Hiếu với dân là phẩm chất nổi trội của quân đội ta trên cơ sở tự xác định quân đội từ nhân dân mà ra, do nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân, được nhân dân hết lòng giúp đỡ, kề vai sát cánh trong chiến đấu và công tác. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người Anh Cả của quân đội ta, đã nói: “Tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là yếu tố quyết định thắng lợi. Và đó cũng là bài học kinh nghiệm vĩ đại nhất”(2). Nội hàm của khái niệm hiếu với dân còn thấy rõ ở tình cảm thương yêu, kính trọng dân, ở hành động tích cực làm công tác dân vận, giữ nghiêm kỷ luật trong quan hệ với dân.
Trung với Đảng, hiếu với dân là truyền thống cực kỳ quý báu của Quân đội nhân dân Việt Nam là dựa vào thực tế để đánh giá, hoàn toàn không phải suy luận chủ quan. Trên thế giới, cho đến nay hiếm có quân đội của nước nào có được truyền thống tốt đẹp đó. Nó là động lực mạnh mẽ để quân đội ta phấn đấu ngày càng vững mạnh về mọi mặt, có sức chiến đấu cao, là quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(3).
--------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 14, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.434-435.
(2) Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.5.
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2011, tr.81-82.