Trưng bày 3D tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Ảnh: Trưng bày 3D tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. (Thanhuytphcm.vn) - Chuyển đổi số trong bảo tàng không chỉ đem đến cho du khách nhiều trải nghiệm mới mẻ, ấn tượng bởi sự tương tác âm thanh, hình ảnh mà còn thu hẹp khoảng cách về địa lý, góp phần gìn giữ, phát huy mạnh mẽ giá trị của các tư liệu, hiện vật quý của dân tộc. Bằng việc sử dụng công nghệ một cách thông minh, bảo tàng có thể thu hút, tạo dấu ấn với công chúng về các bộ sưu tập của mình. Song để có thể làm chủ công nghệ nhằm tận dụng sức mạnh của công nghệ số trong công tác bảo tàng vẫn còn nhiều thách thức.
Đưa bảo tàng đến gần hơn với khách tham quan
Ông Nguyễn Văn Hà, Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (BTLSQG) Việt Nam cho biết, từ năm 1997, bảo tàng đã nghiên cứu và xây dựng phần mềm quản lý. Trong những năm gần đây, bảo tàng đã tích cực, chủ động đổi mới phương thức quảng bá, giới thiệu những giá trị tài liệu, hiện vật; ứng dụng công nghệ trong giới thiệu trưng bày, đồng thời đa dạng hóa các hoạt động để tạo ra những sản phẩm hấp dẫn, mang lại những trải nghiệm khác biệt, thu hút khách tham quan. Năm 2021 sau khi trưng bày ảo 3D chuyên đề Bảo vật quốc gia giới thiệu 20 bảo vật quốc gia đã được hoàn thiện và đưa vào phục vụ công chúng, trên cơ sở các trưng bày chuyên đề trực tiếp tại BTLSQG đã số hóa dữ liệu, xây dựng thành các trưng bày chuyên đề trực tuyến như: “Bãi Cọi - Nơi gặp gỡ của các nền văn hóa”; “Hổ trong mỹ thuật cổ Việt Nam”; “Đảng Cộng sản Việt Nam - Từ Đại hội đến Đại hội”… Đây là hình thức giúp đông đảo công chúng (công chúng trực tiếp và cả công chúng không/chưa có điều kiện đến Bảo tàng) dễ dàng tham quan, tìm hiểu trưng bày và khám phá các tài liệu, hiện vật độc đáo, giá trị. Một số trưng bày đã có phụ đề tiếng Anh kết hợp với những hình ảnh 3D hiện vật đặc sắc và không gian trưng bày sinh động, chân thực. Sự thay đổi này không chỉ thích ứng trong thời điểm khó khăn do dịch bệnh gây ra mà còn là một bước nhấn quan trọng để đem đến nhiều trải nghiệm mới mẻ với khách tham quan.
Chỉ với thao tác nhấn chuột đơn giản trên máy tính hoặc nhấn chạm trên màn hình điện thoại thông minh, khách tham quan vừa như đang dạo bước, tìm hiểu những góc trưng bày, có thể ngắm nghía đa chiều các “báu vật” lịch sử, xem từng chi tiết, hoa văn trên hiện vật, vừa nghe thuyết minh kèm âm thanh phụ trợ khiến chuyến tham quan trở nên sống động và thú vị. Đặc biệt, công chúng còn được tương tác, nghe các chuyên gia, các nhà sử học giới thiệu về điểm đặc sắc trong mỗi không gian trưng bày, hay những câu chuyện thú vị về hiện vật trưng bày tại BTLS QG qua mục “Tương tác với nhà sử học”- lãnh đạo bảo tàng chia sẻ.
Trong cuộc đua chuyển đổi số, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cũng có nhiều chuyển động tích cực. Ông Nguyễn Anh Minh, Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, cho biết các hướng dẫn viên du lịch thường phản ánh họ thấy khó khăn khi tiếp cận các tác phẩm nghệ thuật tại BTMTVN. Điều này một phần do hệ thống thông tin quá ít, phần khác là do sự khuyết kiến thức nền về nghệ thuật, dẫn đến tâm lý e ngại, không muốn đưa các đoàn khách du lịch đến bảo tàng. Khách tham quan BTMTVN đa phần là khách lẻ, cũng là khách nước ngoài. Chính vì thế, ứng dụng thuyết minh đa phương tiện iMuseum VFA ra mắt giúp khách tiếp cận bảo tàng chủ động. Với điện thoại hoặc máy tính bảng có kết nối internet và trả phí tải ứng dụng, khách tham quan có thể tự do khám phá 165 tác phẩm tiêu biểu trên hệ thống trưng bày thường xuyên của bảo tàng trực tiếp và trực tuyến bất cứ khi nào, ở bất cứ nơi đâu trên toàn thế giới. Thời lượng cho mỗi lần sử dụng iMuseum VFA lên đến 8 giờ, với 8 ngôn ngữ: Việt, Anh, Pháp, Trung, Nhật, Hàn, Tây Ban Nha và Ý. “Với ứng dụng thuyết minh đa phương tiện iMuseum VFA, BTMTVN đã nhận được giải thưởng Cơ quan nhà nước chuyển đổi số xuất sắc do Bộ TT-TT trao tặng.
Trưng bày 3D tại các bảo tàng đã đem đến nhiều trải nghiệm mới mẻ với du khách. Chuẩn hóa hệ dữ liệu hiện vật bảo tàng
Giám đốc Sở VH-TT của Thừa Thiên Huế Phan Thanh Hải cho biết dựa trên nền tảng kiểm kê, chuẩn hóa thông tin, lý lịch khoa học kèm bản chụp các hình ảnh về di tích, hiện vật, tư liệu, lễ hội. Trên nền tảng đó, một số đơn vị đã bước đầu triển khai thực hiện các giải pháp chuyển đổi số, áp dụng công nghệ số hóa 3D trong việc quản lý, khai thác, quảng bá và phát huy giá trị di sản, tiêu biểu như Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai app hướng dẫn tham quan “Di tích Huế”, ứng dụng công nghệ trải nghiệm thực tế ảo VR3D, quét mã QR Code để xem thông tin hiện vật, xem hiện vật bằng tương tác - Model 3D và xoay 360 độ; phục dựng Hoàng Thành bằng công nghệ số, Scan số hóa 3D lăng vua Tự Đức công bố trên nền tảng Google Arts & Cultural/Open Heritage...
Tuy nhiên, theo đồng chí Phan Thanh Hải việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa di sản ở Thừa Thiên Huế cũng gặp phải nhiều khó khăn, thách thức bao gồm xây dựng, xác định các nội dung văn hóa, di sản ưu tiên thực hiện chuyển đổi số; việc khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ số hóa; việc cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để đáp ứng yêu cầu lưu trữ, quản lý, tích hợp các nội dung số hóa, chuyển đổi số; các doanh nghiệp công nghệ có nền tảng số phục vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản trên địa bàn tỉnh chưa phát triển, đội ngũ nguồn nhân lực thành thạo công nghệ thông tin để đáp ứng công việc... và thách thức lớn nhất là vấn đề kinh phí thực hiện các nội dung số hóa, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản.
Ông Nguyễn Anh Minh, Giám đốc BTMTVN lại cho rằng, khó khăn còn ở chỗ “lựa chọn đối tác xã hội hoá”. Để thực hiện dự án xã hội hoá, việc lựa chọn đối tác phù hợp là vô cùng quan trọng. Các bảo tàng tại Việt Nam hiện nay phần lớn là các cơ quan phi lợi nhuận, nguồn kinh phí để xây dựng và duy trì các nền tảng công nghệ số phục vụ các hoạt động ở bảo tàng rất hạn chế, thậm chí gần như không có.
Lãnh đạo BTLSQG cũng chỉ ra hiện chưa có cơ chế, chính sách và các quy định về tiêu chuẩn, kỹ thuật cụ thể để các bảo tàng có thể chủ động từng bước thực hiện các nhiệm vụ trong chương trình chuyển đổi số. Kinh phí thực hiện chủ yếu được trích từ nguồn ngân sách hàng năm của đơn vị nên việc thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi số hiện chưa đồng bộ. Cụ thể đối với một bảo tàng, muốn chuyển đổi số các hoạt động bảo tàng thì trước hết phải xây dựng một cơ sở dữ liệu về tài liệu hiện vật bảo tàng… Chính vì thế, cần sớm có cơ chế, chính sách và các quy định, định mức về tài chính để các đơn vị có thể từng bước chủ động thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi số. Xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về di sản văn hóa số và ứng dụng công nghệ trong việc số hóa thông tin. Ban hành chuẩn hóa hệ dữ liệu hiện vật bảo tàng để các bảo tàng có thể thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin một cách thuận lợi, hiệu quả… Để số hóa thực sự là động lực giúp bảo tàng làm tốt hơn nữa nhiệm vụ lưu giữ và chuyển tải sinh động các câu chuyện của quá khứ rõ ràng cần nhiều hơn nữa sự chung tay tháo gỡ vướng mắc từ nhiều phía.