Chủ Nhật, ngày 14 tháng 12 năm 2025

Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

Một nghĩa quân nam kỳ khởi nghĩaMột cán bộ quân đội ưu tú

Ngày 1-9-1939, Thế chiến II bùng nổ.

Bên chính quốc, ngày 26-9-1939, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh giải tán Đảng Cộng sản Pháp. Ở thuộc địa Đông Dương, chỉ hai ngày sau, 28-9-1939, Toàn quyền Georgeo Castroux ra nghị định cấm chỉ mọi hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp của Đảng Cộng sản, giải tán tất cả các hội ái hữu, các tổ chức liên quan với cộng sản. Sau đó, y ra tiếp một nghị định tịch thu và phát mãi tài sản của Đảng Cộng sản.

Khoảng 2.000 cán bộ, đảng viên trong cả nước bị lùng bắt và cầm tù, riêng tại Nam Kỳ là 800. Cùng lúc, đông đảo trai tráng bị bắt lính đưa sang Pháp, sưu thuế tăng thêm nhằm “cung cấp cho mẫu quốc tiềm lực tối đa của Đông Dương về nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu”.

Rồi ngày 17-6-1940, Pháp thua trận phải đầu hàng phát xít Đức. Ngày 20-9-1940, quân Nhật tiến vào Đông Dương, Pháp lại tỏ ra bạc nhược cam chịu.

Trong bối cảnh không mấy sáng sủa đó, một thanh niên 21 tuổi thuộc tầng lớp dân nghèo nông thôn làng Thạnh Lợi, huyện Thủ Thừa, tỉnh Tân An đã tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương. Đó là Lê Văn Tưởng, sinh tháng 10-1919. Anh vừa mới cưới vợ, một cô gái cùng quê nền nã, hương lửa đang nồng. Cha anh là một cựu tù chính trị, bị nhà cầm quyền lùng bắt giam lại chưa bao lâu. Nhưng những điều đó không thể làm anh quá bận tâm, khi anh đã được giác ngộ về lợi quyền giai cấp và lợi quyền dân tộc, nguyện dấn thân trên con đường cách mạng. Anh tâm niệm nhiệm vụ thiêng liêng trước mắt do Đảng đề ra: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác ngoài con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng…”.

Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền. Hai Tưởng, như mọi người thường gọi anh, được trên chỉ định làm Trưởng ban Khởi nghĩa của hai làng Thạnh Lợi và Bình Hòa, nằm trong tuyến nổi dậy vùng Bắc lộ Đông Dương.

Việc chuẩn bị tiến hành gấp rút vì thời gian không có nhiều, lại phải hết sức bí mật. Nhưng Hai Tưởng đã lựa chọn được một số thanh niên hăng hái và khỏe mạnh để thành lập đội nghĩa quân. Từng người lo rèn giáo mác, dao găm tự trang bị. Đêm đêm tìm những bãi đất trống tập mấy đường quyền. Cờ đỏ búa liềm cũng được một cơ sở tin cậy may cho hơn hai mươi lá.

Giờ hành động bắt đầu từ 5 giờ sáng ngày 23-11-1940 theo kế hoạch chung. Cho đến khuya hôm đó, Hai Tưởng đã chỉ huy nghĩa quân khống chế toàn bộ bọn tề làng, tước 4 khẩu súng, nổi lửa đốt nhà việc, uy hiếp đồn Thạnh Lợi, kêu gọi lính đầu hàng. Như vậy, ra quân lần đầu tiên, người đảng viên trẻ Lê Văn Tưởng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, sẵn sàng cùng các đội nghĩa quân làng khác chờ lệnh đánh chiếm quận lỵ Thủ Thừa và phối hợp với thành phố Sài Gòn. Khi việc lớn diễn ra êm xuôi, Hai Tưởng sẽ bắn một phát chỉ thiên bố cáo cho bà con dân làng biết!

Rất tiếc, do những điều kiện khách quan, cuộc khởi nghĩa đã không nổ ra trong nội thành Sài Gòn. Và kế hoạch đánh chiếm quận lỵ Thủ Thừa cũng không được thực hiện.

Bọn cầm quyền cho lính lê dương và lính mã tà rùng rùng kéo đến bắn giết, đốt phá. Bằng sự phân tích đúng đắn, Hai tưởng nhận thấy cần phải tạo được một chỗ đứng chân vững chắc cho nghĩa quân để bảo toàn đơn vị trong lúc địch đang tung lực lượng mạnh càn quét. Mà cũng chẳng phải tìm đâu xa. Mặt hậu của Thạnh Lợi và Hòa Bình có Bàu Mớp - Sậy Đại địa thế hiểm trở, lại sẵn bàu nước ngọt quanh năm không cạn. Gặp các đồng chí chỉ huy nghĩa quân của Đức Hòa và Trung Quận, Hai Tưởng cùng bàn với họ nên tạm lui về đó. Rồi lực lượng của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn và Mỹ Tho cũng lần lượt kéo đến, cộng khoảng 150 người, xây dựng thành căn cứ Mớp Xanh - còn gọi là căn cứ Bo Bo. Chính tại đây, vùng căn cứ nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, Xứ ủy Nam Kỳ đã củng cố lại bộ máy lãnh đạo, đề ra chủ trương chuẩn bị lực lượng tiến hành khởi nghĩa lần thứ hai.

Tháng 1-1941, nghĩa quân từ các nơi tụ họp về bầu ra một ban chỉ huy chung do đồng chí Lưu Dự Châu đứng đầu. Các đồng chí Lê Văn Tưởng và Lê Minh Quang phụ trách tiểu ban quân sự - tác chiến. Tiếp tục là người chỉ huy nghĩa quân, Hai Tưởng vừa làm vừa học tập và trưởng thành. Ngày 6-1-1941, anh dẫn đầu một tổ vũ trang tuyên truyền hoạt động kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Bốn người với hai khẩu súng. Tại Rạch Bần, khi tên hương quản Chánh hùng hổ xông ra định bắt tổ, nó phải nhận ngay một viên đạn của Hai Tưởng bắn vào giữa ngực. Ngay ngày hôm sau, lính lê dương càn đến Thạnh Lợi, châm lửa đốt nhà Hai Tưởng và mấy người trong tổ. Đến tháng 3-1941, Tòa đại hình, còn gọi Tòa án đỏ Sài Gòn, kết án tử hình khiếm diện đảng viên cộng sản Lê Văn Tưởng…

Năm 1943, Tỉnh ủy Tân An phân công Lê Văn Tưởng trở về quê nhà gầy dựng lại phong trào. Đồng chí ở trong Ban Thường vụ Huyện ủy Thủ Thừa, được phân công ra hoạt động công khai thời kỳ tiền khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, đồng chí đứng đầu Ủy ban Khởi nghĩa, lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền thắng lợi ngày 22-8-1945.

Nhưng ngay sau đó là cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng chí bước hẳn vào cuộc đời binh nghiệp. Chín mùa thu qua nhiều chiến trường, nhiều đơn vị, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Chi đội phó chi đội 14; Trưởng ban Tác chiến trung đoàn 120; Tỉnh đội trưởng Tân An; Tỉnh đội trưởng Đồng Tháp. Năm 1953, trước tình hình chiến trường bị chia cắt, đồng chí về làm Huyện đội trưởng Mộc Hóa, địa bàn bản lề, để giữ vững tuyến liên lạc giữa Phân liên khu miền Đông và Phân liên khu miền Tây.

Tập kết ra Bắc, đồng chí được đào tạo cơ bản tại khóa 1 Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, lần lượt là Chính ủy trung đoàn 1; Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 330. Và là một trong những cán bộ được trở về miền Nam sớm nhất trong đoàn Phương Đông, xuất quân đúng ngày 19-5-1961. Đồng chí là Chủ nhiệm chính trị Bộ chỉ huy Quân sự Miền trong nhiều năm. Tháng 9-1965, khi Sư đoàn 9 chủ lực thành lập, đồng chí là vị Chính ủy đầu tiên.

Đầu năm 1975, trước thềm cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành toàn thắng, Đoàn 232 được thành lập, đồng chí lại nhận trọng trách Chính ủy. Đoàn 232 tương đương một quân đoàn, là cánh quân tây - nam tiến công giải phóng Sài Gòn.

Tiếp tục là Chính ủy Quân khu 9 rồi Phó ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Quân sự cho đến năm 1990 đã bước qua ngưỡng của tuổi thất thập mới được về nghỉ. Đồng chí được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và 2 Huân chương Quân công hạng Nhất.

Từ Nam kỳ khởi nghĩa đến ngày nghỉ hưu, đồng chí Lê Văn Tưởng đi vừa đúng chặng đường 50 năm đấu tranh cách mạng và xông pha trận mạc. Mối quan tâm đến việc nước, việc dân vẫn luôn canh cánh bên lòng, đồng chí dành nhiều thời gian đóng góp nhiều tư liệu quý cho công trình cấp quốc gia Lịch sử Nam kỳ khởi nghĩa và ghi lại hồi ức đời mình. Cả hai tác phẩm đều đã hoàn thành trong năm cuối thế kỷ XX.

Trung tướng Lê Văn Tưởng đi xa ngày 24-7-2007 ở tuổi 88 (1919 - 2007) trong niềm tiếc thương của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Cuộc đời của đồng chí là tấm gương sáng, mãi mãi tỏa sáng trong những người còn sống.

Trương Nguyên Tuệ

Thông báo