Mọi người cần chung tay để chiến thắng dịch Covid-19.(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Trong lịch sử nước ta có nhiều dịch bệnh nguy hiểm đã xảy ra. Tuy nhiên, dịch bệnh được ghi nhận trong lịch sử phong kiến Việt Nam rất sơ lược. Đại Việt sử ký toàn thư (từ khởi thủy đến năm 1789) chỉ đề cập 9 lần xảy ra dịch bệnh, lần đầu thấy chép vào năm 1100 (đời vua Lý Nhân Tông, năm Canh Thìn). Dưới thời nhà Nguyễn, nhiều lần dịch bệnh xuất hiện và cướp đi sinh mạng của rất nhiều người. Chỉ riêng trong Đại Nam thực lục thấy chép gần 70 trận dịch lớn nhỏ trong thời gian 75 năm (từ năm 1820 đến 1895, trung bình hơn 1 năm xảy ra 1 trận).
Đặc biệt là vào năm Minh Mệnh thứ nhất (1820), theo báo cáo của Bộ Hộ: “Bệnh dịch phát ra từ mùa thu sang mùa đông, bắt đầu từ Hà Tiên, sau rốt đến Bắc Thành, tổng cộng số người chết là 206.835 người”. Dân số cả nước lúc này khoảng 7 triệu. Trận dịch này không được các nguồn tư liệu ghi chép rõ là bệnh gì nhưng qua việc nhà vua cho xuất kho bạch đậu khấu cấp phát để trừ dịch thì có thể đoán đây là bệnh dịch tả. Nguyên nhân của trận đại dịch được cho là xuất phát từ phương Tây, có lẽ thông qua các thuyền buôn của Tây dương vào buôn bán tại các cảng ở các tỉnh Nam kỳ đã mang mầm bệnh du nhập.
Tiếp đó là vào năm Tự Đức năm thứ 2 (1849), đại dịch tả và sốt rét xuất hiện ở các tỉnh thuộc khu vực của Bắc kỳ, sau đó rất nhanh chóng lan rộng ra khắp các tỉnh thành. Tuy nhiên, dịch thực sự bùng phát mạnh từ cuối năm đó tại các tỉnh Bình Định, Vĩnh Long, Định Tường, Hà Tĩnh, Sơn Tây, Quảng Bình, Hải Dương, Quảng Yên. Theo tổng kết của Bộ Hộ vào đầu năm sau 1850, trận đại dịch này ở “các hạt Nam, Bắc, tổng số người chết là 589.460 người”.
Dưới chế độ thực dân - phong kiến, nhân dân ta thiếu sự chăm sóc về y tế và chưa hiểu rõ vấn đề vệ sinh phòng bệnh nên số người chết khi dịch bệnh xảy ra là rất lớn. Năm 1902 - 1903, Hà Nội bị dịch hạch nguy hiểm làm nhiều người chết (tuy nhiên, không có con số thống kê chính thức về thương vong), trong đó có nhiều xác chết vô thừa nhận, không ai chôn cất. Tiếp đó, tại Bắc kỳ vào năm 1937, bệnh dịch tả đã giết 75.000 người.
Khủng khiếp nhất trong lịch sử dịch bệnh Việt Nam là năm 1945. Trong công trình nghiên cứu về nạn đói năm 1945 của Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Moto (người Nhật) thì dân chúng miền Bắc không chỉ chết vì đói mà còn rất nhiều người chết do dịch bệnh. Trong số liệu của Tòa Khâm sứ Hà Nội, đến tháng 5/1945 có tới 400.000 người chết vì dịch bệnh trong tổng số 2 triệu người chết đói.
Hiện nay, ngành y tế Việt Nam đã có những thành tựu to lớn trong việc đẩy lùi các dịch bệnh. Nước ta là một trong các quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, hiện có khoảng 700 trung tâm y tế cấp huyện và hơn 11.100 trạm y tế ở cấp xã. Bên cạnh đó, nước ta đã chủ động sản xuất được nhiều loại vaccine phòng bệnh. Nước ta đã sản xuất thành công kháng sinh Pénicilline (năm 1950), vaccine phòng bệnh đậu mùa (năm 1961), vaccine Sabin phòng bại liệt (năm 1962), vaccine phòng cúm mùa 3 type... Vaccine tả uống của Việt Nam phát triển từ công nghệ được Thụy Điển chuyển giao và Việt Nam cũng là quốc gia nghiên cứu, sản xuất được vaccine này từ sớm. Năm 2000 - 2001, Việt Nam tiếp tục chuyển giao miễn phí công nghệ này cho Viện Vaccine Hàn Quốc và từ đó một công ty của Ấn Độ đã có bản quyền sản xuất vaccine tả uống xuất khẩu khắp thế giới.
Trong 36 năm qua (từ năm 1985), nước ta thực hiện tiêm chủng mở rộng; hiện Việt Nam đã sản xuất được 12/13 vaccine tham gia chương trình. Bộ Y tế đang đặt mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam sản xuất được 14 loại vaccine cung cấp cho tiêm chủng mở rộng. Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi từ năm 2000 đến nay luôn được duy trì ở mức trên 90% trên quy mô toàn quốc. Giai đoạn 2016 - 2020, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ các loại vaccine cho trẻ em dưới 1 tuổi đạt cao trên 95% trên toàn quốc. Hằng năm, chương trình tiêm chủng mở rộng thực hiện trung bình khoảng 27 triệu mũi tiêm bao gồm cả tiêm chủng thường xuyên và tiêm chủng bổ sung.
Nhờ đó, Việt Nam đã kiểm soát và ngăn ngừa các dịch bệnh nguy hiểm. Nước ta đã thanh toán thành công các dịch bệnh nguy hiểm: đậu mùa (năm 1978), bại liệt (năm 2000), dịch hạch (năm 2002), uốn ván sơ sinh (năm 2005). Nước ta là một trong những nước khống chế thành công dịch SARS (hội chứng hô hấp cấp tính nặng). Nước ta cũng ngăn chặn thành công những bệnh truyền nhiễm mới nổi: cúm A/H7N9 (bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do virus cúm A/H7N9 lây từ gia cầm sang người), Ebola (bệnh sốt xuất huyết do virus Ebola gây ra), MERS-CoV (hội chứng hô hấp Trung Đông - một bệnh hô hấp cấp tính nặng do coronavirus MERS gây ra).
Tiêm vaccine ngừa Covid-19 cho công nhân tại TPHCM. (Ảnh: Nld.com.vn)Bệnh HIV/AIDS tại Việt Nam cũng tiếp tục được kiểm soát. Năm 2020 là năm thứ 12 liên tiếp giảm cả 3 tiêu chí: số người nhiễm mới HIV, số người chuyển sang giai đoạn AIDS và tử vong liên quan đến AIDS. Việt Nam cùng với Anh, Đức, Thụy Sĩ là những quốc gia có chất lượng điều trị HIV/AIDS tốt nhất thế giới.
Để phòng chống dịch Covid-19, từ rất sớm, Bộ Y tế Việt Nam đã đưa ra thông điệp “5K: Khẩu trang - Khử khuẩn - Khoảng cách - Không tập trung - Khai báo y tế”. Bên cạnh đó, Chỉ thị 15, Chỉ thị 16 và Chỉ thị 19 đều là những chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 như việc hạn chế tập trung đông người, giữ khoảng cách an toàn tối thiểu, thực hiện các hoạt động của cơ sở kinh doanh, vận tải… trong những thời điểm khác nhau theo những điều kiện khác nhau. Trong đó, Chỉ thị 16 là văn bản thể hiện sự quyết liệt nhất với biện pháp “cách ly toàn xã hội”.
Việt Nam là một trong 4 quốc gia đầu tiên giải trình tự gene virus gây dịch Covid-19 và là nước thứ 5 trên thế giới sản xuất được sinh phẩm chẩn đoán kháng thể. Bên cạnh đó, Đảng và Chính phủ đang nỗ lực đàm phán để có nguồn cung ứng vaccine phòng Covid-19 từ các nước trên thế giới. Đảng, Chính phủ cũng đã chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu phát triển và sản xuất vaccine trong nước khẩn trương nghiên cứu phát triển vaccine “made in Việt Nam” và tìm kiếm hợp tác chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine từ nước ngoài để nhanh chóng có vaccine phòng chống dịch bệnh chủ động cho nhân dân.