ILO và quá trình gia nhập của Việt Nam
Việt Nam tham gia ILO từ năm 1992. Năm 1998, ILO ra tuyên bố, được xem là một tuyên bố văn minh của nhân loại. Theo tuyên bố này, người lao động phải có tiếng nói trong các hiệp định quan trọng. Các quyền được đề cập trong Tuyên bố năm 1998 được quy định trong 8 Công ước cơ bản của ILO: 1. Tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể (Công ước 87 và 98), 2. Loại bỏ tất cả các hình thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước 29 và 105), 3. Xóa bỏ lao động trẻ em (Công ước 138 và 182), và 4. Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (Công ước 100 và 111). Tất cả các quốc gia thành viên của ILO đều phải tôn trọng các quyền phổ quát này. Với việc Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước 98, Việt Nam đã chính thức phê chuẩn 6 trong 8 Công ước cơ bản của ILO (Hiện còn 2 công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam chưa phê chuẩn là Công ước 87 liên quan đến quyền tự do liên kết và Công ước 105 liên quan đến loại bỏ lao động cưỡng bức…).
Ngày 5/7/2019, Việt Nam đã hoàn tất hồ sơ gia nhập ILO. Theo quy định của ILO, Công ước này sẽ có hiệu lực sau 1 năm khi hoàn thiện hồ sơ phê chuẩn. Như vậy, từ ngày 5/7/2020, Công ước này chính thức có hiệu lực ở Việt Nam.
Kể từ khi tham gia ILO đến nay, Việt Nam đã cố gắng trở thành một thành viên có trách nhiệm. Cho dù Việt Nam chưa phê chuẩn 2 Công ước 87 và 105 nhưng ngoài việc thực hiện đầy đủ nội dung các Công ước đã phê chuẩn, Việt Nam có nghĩa vụ “tôn trọng, thúc đẩy và hiện thực hóa một cách có thành ý” đối với các công ước cơ bản của ILO mà Việt Nam chưa phê chuẩn. Điều đó có nghĩa là Việt Nam vẫn phải có nghĩa vụ thúc đẩy hiện thực hóa các công ước này.
Nội dung cơ bản của Công ước 98 và quá trình xây dựng pháp luật thống nhất của Việt Nam
Công ước 98 bao gồm 16 điều. Điều 1, Công ước quy định: “1. Người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước những hành vi phân biệt đối xử chống lại công đoàn trong việc làm của họ.
2. Sự bảo vệ đó phải được áp dụng trước hết đối với những hành vi nhằm:
a) Làm cho việc làm của người lao động phụ thuộc vào điều kiện là người đó không được gia nhập công đoàn hoặc phải từ bỏ tư cách đoàn viên công đoàn;
b) Sa thải hoặc gây tổn hại cho người lao động với lý do là đoàn viên công đoàn, hoặc tham gia các hoạt động công đoàn ngoài giờ làm việc hoặc với sự đồng ý của người sử dụng lao động trong giờ làm việc”.
Để các quy định của pháp luật Việt Nam không trái với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, Bộ luật Lao động 2019 đã có nhiều nội dung mới. Khoản 3, Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 giải thích: Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức “được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”.
Như vậy, cùng với tổ chức công đoàn thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN), trong các doanh nghiệp, người lao động sẽ có quyền gia nhập tổ chức đại diện quyền lợi cho mình không thuộc hệ thống của TLĐLĐVN. Tức là, khi phê chuẩn Công ước 98 cũng như ký kết và tham gia các hiệp định tự do thế hệ mới, Việt Nam sẽ phải chấp nhận có một tổ chức đại diện cho người lao động tại doanh nghiệp nằm ngoài hệ thống tổ chức của TLĐLĐVN.
Cơ hội để các tổ chức công đoàn vươn lên
Đã có ý kiến lo lắng rằng đây sẽ là thách thức đối với Công đoàn Việt Nam bởi nếu tổ chức công đoàn hiện nay không bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động thì sẽ tự mình đánh mất niềm tin nơi người lao động. Khi đó, người lao động vẫn có sự lựa chọn khác, tức tham gia tổ chức đại diện quyền lợi cho người lao động được lập ra ở doanh nghiệp hoạt động song song với tổ chức công đoàn thuộc hệ thống TLĐLĐVN.
Cán bộ, đoàn viên công đoàn Liên đoàn Lao động TP Thủ Đức tham gia phân bổ rau chuyển đến các khu cách ly cho công nhân ở trọ trong các mô hình “Gian hàng rau sạch “0” đồng - Đi chợ giúp công nhân” và “Chuyến xe nghĩa tình” trên địa bàn. (Ảnh: CĐTĐ)Những lo lắng về việc các tổ chức đại diện người lao động ở các doanh nghiệp không thuộc hệ thống công đoàn của TLĐLĐVN có thể bị chính trị hóa lợi dụng làm phương hại đến ổn định chính trị tại Việt Nam không phải không có cơ sở. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 2013 đã có quy định cụ thể về Công đoàn Việt Nam tại Điều 9 và Điều 10. Điều 10 ghi rõ: “Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Điều 1 Luật Công đoàn Việt Nam năm 2012 cũng nêu: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác (sau đây gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Như vậy, nếu một tổ chức đại diện quyền lợi của người lao động được lập ra ở doanh nghiệp thì vẫn phải tuân thủ các quy trình thành lập theo các quy định của pháp luật Việt Nam. Các tổ chức này, theo quy định là những tổ chức nghề nghiệp, không mang tính chính trị, không hoạt động chính trị. Khi những tổ chức đại diện người lao động được lập ra sẽ phải đăng ký, phải có điều lệ hoạt động và được cơ quan thẩm quyền công nhận, cho phép hoạt động. Vì vậy, các tổ chức này chỉ được hoạt động trong khuôn khổ quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động; không cho phép các hoạt động ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Hiện pháp luật lao động Việt Nam cũng không thừa nhận quyền tự do liên kết đối với người lao động nước ngoài. Tuy nhiên, các cơ quan có trách nhiệm cũng cần tính tới các phương án, cần có những dự báo và các giải pháp để ngăn ngừa việc lợi dụng các quy định này để tổ chức chống đối hoặc gây rối…
Khi đã chấp nhận tham gia sâu rộng vào sân chơi toàn cầu, chắc chắn hệ thống công đoàn thuộc TLĐLĐVN đã chuẩn bị sẵn sàng. Nếu công đoàn hoạt động thật sự có hiệu quả, mạnh dạn đấu tranh đòi hỏi và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động, nói lên được tiếng nói của người lao động thì ngay chính tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp - nếu có được lập ra - cũng sẽ gia nhập vào tổ chức công đoàn thuộc hệ thống của TLĐLĐVN. Ngược lại, nếu công đoàn hoạt động hời hợt, không hiệu quả, không đấu tranh cho quyền lợi của người lao động thì các tổ chức của người lao động ra đời sẽ tự liên kết lại để bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Đây không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để các tổ chức công đoàn vươn lên, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để thực sự xứng đáng là tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong các doanh nghiệp.
Tất nhiên, để đạt tới điều này, đòi hỏi các tổ chức công đoàn phải hướng nhiều hơn vào việc đại diện và thương lượng tập thể, thay vì thực hiện các chức năng chính yếu của tổ chức chính trị - xã hội như hoạt động lâu nay.