Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng quán triệt Nghị quyết 43 về "Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc". (Ảnh: VOV.vn) (Thanhuytphcm.vn) - Tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII do Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức ngày 4/12, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã nêu một số nội dung liên quan Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; sự cần thiết của việc ban hành Nghị quyết 43-NQ/TW về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; những nội dung của Nghị quyết 43-NQ/TW; công tác tổ chức thực hiện Nghị quyết này.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nêu bật 3 lý do rất quan trọng để Trung ương ban hành Nghị quyết 43-NQ/TW. Sau 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã hoàn thành mục tiêu cơ bản, giải pháp mà nghị quyết đã đề ra. “Qua 20 năm thực hiện Nghị quyết 23–NQ/TW, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy. Các giai tầng xã hội chuyển biến tích cực, phát triển mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng” - Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nhấn mạnh.
Tuy nhiên, theo đồng chí Võ Văn Thưởng, Trung ương đánh giá còn một số hạn chế, khuyết điểm và một số bài học.
Cùng với đó, thực tiễn sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tình hình thế giới, khu vực, trong nước đã có nhiều thay đổi.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết, nội dung của Nghị quyết 43–NQ/TW có 4 quan điểm được Đảng tiếp cận đầy đủ, toàn diện, hệ thống, trong đó, khẳng định vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc.
Một trong những quan điểm được nêu ra trong Nghị quyết là đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và Nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới.
Cùng với đó là lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ Nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân.
Các đại biểu tham dự tại điểm cầu TPHCM. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giải quyết tốt quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nâng cao cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, các giai tầng xã hội và của mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội, đóng góp cho đất nước và thụ hưởng thành quả phát triển. "Đoàn kết phải phát huy dân chủ, chỗ nào không có dân chủ thì không có đoàn kết thực sự" - đồng chí Võ Văn Thưởng nhấn mạnh.
Quan điểm thứ 4 của nghị quyết được nêu rõ, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò nòng cốt chính trị trong tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết 43-NQ/TW đặt mục tiêu tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Nghị quyết đã nêu 7 nhiệm vụ giải pháp. Đó là nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hoàn thiện chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường đoàn kết trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Cùng với đó là đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả.