*
Thời kỳ đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế chủ động tiến công sau Đồng khởi, chủ động tiến công và đánh thắng hai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, đứng đầu là đồng chí Võ Văn Kiệt, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã tiến công mạnh mẽ vào ngay trung tâm đầu não chính trị, quân sự của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một chiến trường trọng điểm.
Đồng chí Võ Văn Kiệt là người đề nghị và tổ chức thực hiện việc sáp nhập Sài Gòn - Chợ Lớn với Gia Định, tạo thế chiến lược của chiến tranh nhân dân trên địa bàn Thành phố, tạo nên một Đảng bộ mạnh ngay sát nách và bên trong nội thành - một vấn đề chiến lược của Thành phố cho đến hôm nay.
Cuối năm 1959, đồng chí Võ Văn Kiệt là Xứ ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang được Xứ ủy Nam Bộ điều động về làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhận nhiệm vụ mới hết sức nặng nề, lại chưa quen địa bàn Thành phố, đồng chí Võ Văn Kiệt đề nghị và được đồng chí Nguyễn Văn Linh cử giao liên bí mật cho Đồng chí đi thị sát một vòng nội ngoại thành bằng xe gắn máy[1]. Sau khi nắm tình hình, đồng chí Võ Văn Kiệt đã cùng với các đồng chí Nguyễn Thái Sơn (Bảy Bình), Võ Văn Tuấn (Hai Trúc) nhanh chóng nắm số đảng viên còn lại của Sài Gòn - Chợ Lớn, tiến hành ráo riết công tác tổ chức và giáo dục chính trị tư tưởng, lựa chọn một số đảng viên nòng cốt tích cực đưa ra vùng Bời Lời (xã Đôn Thuận, Tây Ninh) để dự một lớp huấn luyện lấy tên là lớp “Rừng xanh” nhằm đào tạo gấp một số cán bộ cốt cán đưa về gây dựng lại cơ sở trong nội thành.
Cũng từ chuyến thị sát thực tiễn, với tư duy chiến lược, nhạy bén, đồng chí Võ Văn Kiệt nhận thấy nội thành Sài Gòn không thể tách rời vùng nông thôn ngoại thành thuộc tỉnh Gia Định và cơ quan lãnh đạo Thành phố cần có căn cứ ở nông thôn làm chỗ đứng chân, xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, tổ chức những trận tiến công quân sự vào nội thành có hiệu quả. Theo đề nghị của đồng chí Võ Văn Kiệt, đầu năm 1960, Xứ ủy chấp thuận sáp nhập hai Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Đảng bộ Gia Định thành một Đảng bộ lấy tên là Khu Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư. Đây là một quyết định hết sức quan trọng, tạo nên sự gắn kết giữa Sài Gòn - Chợ Lớn với Gia Định thành một vùng chiến lược hoàn chỉnh, không những tạo lợi thế để xây dựng căn cứ ở ngoại thành mà còn tạo nên địa bàn tập kết và đứng chân của lãnh đạo Xứ ủy, Khu ủy và các lực lượng trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đồng chí Võ Văn Kiệt chủ trương xây dựng, củng cố, phát huy vai trò căn cứ vùng ven, tạo thế đứng chân cho lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang tại chỗ và lực lượng nội thành.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của căn cứ địa, căn cứ lõm, đồng chí Võ Văn Kiệt không những chỉ đạo xây dựng các căn cứ lõm nhỏ lẻ ngay trong lòng Thành phố, che giấu cán bộ, làm nơi cất giấu vũ khí cho các đội vũ trang tuyên truyền, Đồng chí còn đặc biệt chú ý chỉ đạo xây dựng căn cứ rộng lớn ở vùng ven Sài Gòn, ở vùng nông thôn Gia Định như Củ Chi, Gò Vấp, Hóc Môn, Bình Tân... Dựa vào lòng dân ủng hộ, một mặt Đồng chí chỉ đạo trấn áp bọn cầm đầu phản cách mạng, trừ gian, mặt khác không bộc lộ hết lực lượng, nhất là cán bộ cốt cán; vừa tiến công địch vừa củng cố cơ sở bí mật, củng cố phát triển hệ thống địa đạo ở Củ Chi sẵn sàng chống địch khủng bố, đàn áp khốc liệt.
Các căn cứ ở vùng ven Thành phố đã tạo nên một vành đai đỏ ngay sát nách trung tâm đầu não của chính quyền Mỹ và tay sai. Đây là một địa bàn mà lòng dân luôn hướng về cách mạng, kiên quyết đấu tranh và sẵn sàng chiến đấu hy sinh; không những là nơi đứng chân của lãnh đạo Xứ ủy, Thành ủy mà còn là nơi hình thành và tổ chức những địa điểm cất giấu vũ khí cho cuộc chiến đấu chống địch càn quét vào căn cứ và lực lượng vũ trang tiến công địch trong nội thành; trực tiếp đương đầu và chiến đấu thắng lợi trước hàng loạt cuộc càn quét quy mô lớn hết sức khốc liệt của quân Mỹ và tay sai.
Trong phong trào Đồng Khởi, đồng chí Võ Văn Kiệt chỉ đạo kết hợp vũ trang nổi dậy ở ven đô với đấu tranh chính trị, binh vận phù hợp với điều kiện của Sài Gòn - Gia Định.
Đầu năm 1960, khí thế đồng khởi bùng lên ở khắp Nam Bộ và ở Sài Gòn - Gia Định. Khi nghiên cứu tình hình thực tiễn ở Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Võ Văn Kiệt nhận thấy rằng cần phát động phong trào cách mạng với khí thế đồng khởi, nhưng phải phù hợp với địa bàn Thành phố. Đồng chí đề nghị và được Khu ủy nhất trí cao là phát động đồng khởi ở nông thôn vùng ven, kết hợp với đấu tranh chính trị rộng rãi trong nội thành, tập trung tuyên truyền cho thắng lợi của đồng khởi, cổ vũ khí thế của đồng bào; đấu tranh đòi dân sinh dân chủ kết hợp với vạch trần bộ mặt phản động của chế độ Mỹ - Diệm.
Đến năm 1960, Phong trào đồng khởi ở nông thôn Nam Bộ đã giành được thắng lợi lớn, tạo nên bước ngoặt quan trọng cho phong trào cách mạng toàn Miền Nam, nhưng đã có những biểu hiện lệch lạc. Lúc này Khu ủy đã cử một số cán bộ đi học tập, rút kinh nghiệm về đồng khởi ở miền Trung Nam Bộ, nhất là tỉnh Bến Tre.
Để tạo thuận lợi cho sự chỉ đạo bước vào đợt 2, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương sáp nhập một số huyện như Bình Chánh với Tân Bình gọi là Bình Tân; Gò Vấp với Hóc Môn gọi là Gò Môn; Thủ Đức với Dĩ An gọi là Thủ Dĩ…[2] Mở đầu đợt 2 vào cuối tháng 9/1960, giờ hành động thống nhất quy định là 7 giờ tối (19 giờ), nhưng mới 4 giờ chiều (16 giờ), quần chúng ở các xã thuộc Củ Chi đã nổi trống mõ khắp nơi, uy hiếp tinh thần địch. Trong đêm đó và liên tiếp những ngày sau, du kích, tự vệ liên tục tiến công địch; phá trụ sở, đồn bót; chặn địch đi tuần tiễu; phục kích đánh địch đi càn quét, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Theo sự chỉ đạo của Huyện ủy, quần chúng các xã giải phóng và các xã có đồn bót còn tranh chấp giữa ta và địch, cùng phối hợp hoạt động, liên tiếp xuống đường biểu tình, chống địch đàn áp, khủng bố. Nhiều cuộc kéo nhau lên quận, lên tỉnh, vào thẳng trung tâm Thành phố đòi địch phải ngừng ngay các cuộc càn quét, bắn phá, đòi bồi thường thiệt hại cho nhân dân…
Đồng chí Võ Văn Kiệt đặt viên đá đầu tiên xây dưng trạm biến áp Phú Lâm năm 1993. (Ảnh tư liệu) Ở Bình Tân, phong trào nổi dậy từ xã Tân Nhựt lan ra khắp huyện. Quần chúng xuống đường biểu tình giương cao khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Mỹ!”, “Đả đảo Ngô Đình Diệm!”. Đơn vị 301 của Tân Bình từ 3 người buổi đầu phát triển lên tiểu đội rồi trung đội… đã đánh nhiều trận tác động mạnh đến địch như trận giả làm dân đi bắt cá, đánh bọn tuần tiễu trong giờ nghỉ trưa, thu được vũ khí; trận đột nhập đồn dân vệ xã Bình Trị Đông, diệt 1 trung đội, thu toàn bộ vũ khí… Vai trò nòng cốt của đơn vị 301 này ngày càng nổi rõ trong phong trào phát triển chiến tranh du kích, từ vùng sâu ra vùng ven thuộc các xã của Bình Chánh và Tân Bình.
Một tiểu đội du kích, ba trung đội tự vệ của Nhà Bè kết hợp với hơn 200 quần chúng nòng cốt đã thúc đẩy phong trào đấu tranh phá lỏng thế kềm kẹp của địch. Ở Cần Giờ, quần chúng đã nổi dậy đốt trụ sở tề xã Lý Nhơn, diệt nhiều tên ác ôn, buộc địch phải co lại. Phong trào nổi dậy ở hầu khắp các huyện khác như Gò Môn, Thủ Dĩ… với nhiều hình thức từ thấp đến cao, phát triển phong trào chiến tranh du kích ngày càng rộng và mạnh.
Với chủ trương đúng đắn đó, trong phong trào đồng khởi, hàng loạt các cuộc nổi dậy giành quyền làm chủ đã diễn ra ở nông thôn Gia Định, tiêu biểu là Củ Chi, Thủ Đức, Bình Tân, Cần Giờ, Nhà Bè. “Qua hai đợt đồng khởi, đến giữa năm 1961, vùng nông thôn ngoại thành Sài Gòn - Gia Định đã có 30 xã được giải phóng nối liền với vùng giải phóng rộng lớn của Tây Ninh, Bình Dương, tạo ra vùng căn cứ tương đối an toàn cho Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định và Xứ ủy Nam Bộ… Phong trào đồng khởi ở nông thôn Gia Định đã tạo ra chỗ đứng chân cho lực lượng cách mạng Thành phố, làm cho Đô thành Sài Gòn thường xuyên không ổn định và hỗ trợ cho phong trào cách mạng ở nội thành”[3].
Ở nội thành cũng đã diễn ra hàng loạt cuộc đấu tranh của đồng bào các giới, bao gồm cả công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, ký giả, tiểu thương, tiểu chủ, văn nghệ sĩ. “Tuy chưa có cuộc đấu tranh nào có quy mô lớn, nhưng phong trào đấu tranh của các giới đã diễn ra nối tiếp, tập hợp lực lượng ngày càng rộng thêm, có hành động thống nhất… Thông qua báo chí, chiến dịch tiến công dư luận từ năm 1960 ngày càng lan rộng chẳng những ở Sài Gòn và vùng phụ cận mà còn ở khắp các đô thị miền Nam. Các tầng lớp nhân dân công khai bàn tán về những cuộc nổi dậy ở nông thôn, đấu tranh ở thành thị”[4].
Đồng chí Võ Văn Kiệt chú trọng tổ chức xây dựng và phát triển cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp ba mũi giáp công mạnh mẽ ngay sau đồng khởi. Ngay sau Đồng khởi, Đồng chí tiếp tục chỉ đạo củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường xây dựng lực lượng chính trị, tập trung xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, đặc biệt chú trọng vấn đề giữ gìn, phát triển lực lượng về lâu dài, triệt để áp dụng nguyên tắc ngăn cách giữa bí mật và công khai, hết sức tận dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp. Các Ban Cán sự Đảng liên quận (cánh 156, cánh 157, cánh 158…), các ban đoàn thể (Công vận, Thanh vận, Phụ vận, Trí vận…), các ban chuyên môn (Tổ chức, Tuyên huấn, Binh vận…) đều được củng cố tăng cường.
Qua thực tiễn ở đồng bằng Nam Bộ và ở Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Võ Văn Kiệt cho rằng cách tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang như các tỉnh đồng bằng Nam Bộ có vùng giải phóng rộng lớn, chỉ có thể thích hợp với địa bàn Củ Chi, còn các huyện khác và nhất là ở nội thành phải có hình thức tổ chức lực lượng vũ trang thích hợp như tổ chức tự vệ mật, du kích mật hoạt động theo phương châm đánh đau, đánh hiểm nhưng không lộ mặt, giấu được mình để tồn tại được ở các vùng địch còn chiếm đóng hoặc đang tranh chấp. Sự chỉ đạo đúng đắn này của Đồng chí đã tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang ở Thành phố ngày càng phát triển và hiệu quả. Tháng 10 năm 1960, sau khi thành lập Ban Quân sự Khu, đồng chí Võ Văn Kiệt thống nhất với Khu ủy “cho gọi một số cán bộ quân sự cũ như Đỗ Tấn Phong, Ngô Tấn Quốc… vào căn cứ của khu để nghiên cứu và thử nghiệm cách đánh và hoạt động vũ trang ở nội thành với mức độ cao hơn”[5]. Đó là những nhân tố đầu tiên của bộ phận chuyên trách có nhiệm vụ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động vũ trang nội thành mang bí số C10. “Bộ phận này chuyên móc nối những thanh niên ưu tú đưa ra vùng căn cứ học tập, sau đó đưa trở lại nội thành hoạt động. Bước đầu từ 3 người đến 3 tổ, vừa hoạt động vừa phát triển thành lực lượng biệt động Thành phố - một lực lượng tinh nhuệ đã đánh những trận gây khiếp đảm và tổn thất lớn cho quân thù”[6].
Những tháng cuối năm 1961, Khu ủy có hai cuộc hội nghị quan trọng. Hội nghị quân sự họp ngày 20/9/1961 tại xã Lộc Thuận với sự tham dự của trên 60 cán bộ tại chỗ và từ trên đưa về. Hội nghị quyết định chia địa bàn Sài Gòn - Gia Định ra làm 3 vùng: vùng căn cứ giải phóng; vùng tranh chấp ven đô và nội thành. Hội nghị đề ra cho mỗi vùng một phương thức, hình thức và nội dung đấu tranh thích hợp. Vùng giải phóng lấy đấu tranh vũ trang làm chính, kết hợp với đấu tranh chính trị nhằm giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Vùng tranh chấp ven đô tiến hành đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang song song nhằm từng bước đánh bại âm mưu, thủ đoạn gom dân lập ấp chiến lược của địch, tiến lên giành quyền làm chủ với mức độ thích hợp, tạo được các “lõm du kích” sát ven đô. Ở nội thành lấy đấu tranh chính trị làm chính, có kết hợp mức độ với dùng vũ trang nhằm gây tổn thất cho địch, uy hiếp tinh thần địch, phối hợp với chiến trường chung, đồng thời cố gắng xây dựng nhiều “lõm chính trị” ngay trong lòng Thành phố.
Hội nghị các cánh nội thành diễn ra dài ngày trong hai tháng 10 và 11/1961 tại căn cứ “Thái Bình Dương” (mật danh của một căn cứ giáp với vùng Mỏ Vẹt, biên giới Campuchia). Hội nghị ra Nghị quyết về xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, vũ trang, đẩy mạnh tiến công tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch; chấn chỉnh tổ chức cánh nội và ngoại thành. Đi liền với Hội nghị lần này, có ba lớp huấn luyện quân sự ngắn ngày cho cơ sở nội thành. Các lớp học được tổ chức theo phương châm ngăn cách bí mật, học viên phải che mặt để không ai biết mặt ai. Sau đó, bộ phận C50 (sau đổi lại là C10) của Khu ủy còn trực tiếp xuống các bộ phận tiền phương ở nội thành để huấn luyện thêm về quân sự (bắn súng, sử dụng chất nổ, võ thuật, kỹ thuật trinh sát...) cho đơn vị vũ trang của các cánh. Nhờ đó, phong trào vũ trang phát triển. Các Đội biệt động Thành 159, 65, 66, 67A, 69... lần lượt hình thành và hoạt động mạnh. Các Ban Thanh vận, Hoa vận... cũng có tổ chức đơn vị biệt động riêng, hoạt động rất có hiệu quả.
Sau hai cuộc Hội nghị nói trên, hệ thống chỉ đạo, chỉ huy của Khu ủy và Quân khu về mặt chính trị, quân sự, hậu cần, quân báo... đều được kết hợp khá chặt chẽ giữa nội thành và ngoại thành, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng vươn mạnh.
Sau thắng lợi mùa khô 1965 - 1966, làm thất bại cuộc hành quân Crimp với “chiến dịch 5 mũi tên” của địch trên chiến trường Củ Chi, đồng chí Võ Văn Kiệt - Bí thư Khu ủy - Chính ủy Quân khu đã chủ trì Hội nghị tổng kết chiến tranh nhân dân và phong trào thi đua diệt giặc Mỹ. Từ báo cáo về kinh nghiệm tiến hành chiến tranh du kích của Củ Chi, Hội nghị đã rút ra 10 kết luận về khả năng đánh Mỹ, không chỉ cho Sài Gòn - Gia Định mà còn được phổ biến rộng khắp miền Nam[7]. Mười kết luận đó trở thành nội dung cụ thể của công tác tư tưởng, công tác tổ chức và chỉ đạo chiến đấu của Đảng bộ.
Đồng chí Võ Văn Kiệt tham gia trồng cây. (Ảnh tư liệu) Trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm của lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn trong chống Pháp và vận dụng linh hoạt, sáng tạo vượt bậc trong điều kiện mới, đồng chí Võ Văn Kiệt đã góp phần hình thành và phát triển lực lượng biệt động thành. Đồng chí không những là người tổ chức, xây dựng lực lượng mà còn là người trực tiếp tham gia xây dựng các kế hoạch hoạt động của lực lượng này, vận dụng lối đánh bí mật, bất ngờ, táo bạo, linh hoạt, đánh sâu, đánh hiểm, đánh vào mục tiêu chiến lược, vào cơ quan đầu não, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến tranh của địch, với hiệu quả càng cao, ngày càng có tiếng vang lớn.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, với vai trò là Tư lệnh Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam, đồng chí Võ Văn Kiệt đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và nhãn quan chính trị sắc bén.
Tháng 10 năm 1967, Khu trọng điểm được thành lập gồm Khu Sài Gòn - Gia Định và một phần đất các tỉnh tiếp giáp, đồng chí Võ Văn Kiệt được phân công làm Phó Bí thư Khu trọng điểm, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam chỉ huy các mũi phía Nam, một phần Tây Nam, gồm các phân khu 2, 3, 6, đồng thời lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở nội thành. Khi họp với các lãnh đạo quân sự của biệt động thành, nghe báo cáo kế hoạch tấn công 10 mục tiêu ở trung tâm Sài Gòn là những cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn như: Đài phát thanh, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha Cảnh sát... Đồng chí Võ Văn Kiệt đặt vấn đề: “Tại sao không đánh vào Đại sứ quán Mỹ". Đây là mục tiêu được lựa chọn sau cùng, nhưng lại là mục tiêu tạo tiếng vang lớn nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, buộc đế quốc Mỹ chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán tại Paris, mở ra khả năng “đánh cho Mỹ cút”, “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
*
Những chủ trương đúng đắn và phù hợp nói trên đã tạo điều kiện cho việc khôi phục và phát triển lực lượng, đưa phong trào cách mạng ở Sài Gòn - Gia Định phát triển tiến lên, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Gần 10 năm là người đứng đầu Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến, đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt đã để lại những dấu ấn rất sâu sắc trong lòng Đảng bộ và quân dân Sài Gòn - Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) bằng những cống hiến to lớn được ghi đậm trong Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Võ Cường
Trưởng phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Thành ủy
______________________
[1] Võ Văn Kiệt- Tiểu sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2015, tr. 141.
[2] Chủ trương sáp nhập được bàn trong Hội nghị Khu ủy mở rộng họp tại An Thành - Bến Cát từ đầu năm 1960 (tài liệu do đồng chí Phạm Khải cung cấp cho Ban NCLS Đảng Thành ủy TP HCM).
[3] Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930 - 1975, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2015, tr. 616.
[4] Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930 - 1975, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2015, tr. 617- 618.
[5] Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930 - 1975, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2015, tr. 619.
[6] Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930 - 1975, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2015, tr. 619.
[7](1) Ai cũng đánh được Mỹ; (2) vũ khí gì cũng đánh được Mỹ; (3) nhiều đánh được, ít cũng đánh được, 1 người, 1 tổ đều đánh được; (4) ở đâu cũng đánh được Mỹ, chỉ cần tích cực bám địch, tìm địch là đánh được; (5) ngày đánh được, đêm cũng đánh được; (6) địch phản công là cơ hội để diệt địch; (7) đánh ở phía trước, đánh ở phía sau, đánh trong hậu cứ, đánh đều khắp, làm cho địch bị động, bối rối, càng dễ đánh hơn; (8) đánh địch trong ấp chiến đấu và cả ngoài ấp chiến đấu; (9) có khả năng đánh thắng tất cả mọi binh chủng của Mỹ như bộ binh, xe tăng, máy bay, biệt kích; (10) đánh bằng vũ trang, bằng chính trị và cả binh vận làm cho địch tan rã nhanh chóng.