Tranh vẽ thể hiện cuộc đấu tranh của nhân dân Nam bộ trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ.(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ là một trong những sự kiện tiêu biểu trong tiến trình hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề và để lại những bài học đặc biệt quý báu cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8/1945. Vào đêm 22 rạng 23/11/1940, khắp các tỉnh thành Nam kỳ gồm Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên, Bến Tre, Sa Đéc, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Bà Rịa, Vũng Tàu, tất cả 20 tỉnh và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn đều có kế hoạch khởi nghĩa, trong đó có 56/75 quận, 50% số làng. Dù cuộc khởi nghĩa diễn ra không hoàn toàn như kế hoạch nhưng một số nơi giành được quyền làm chủ, gây cho địch một số thiệt hại, tạo được tiếng vang lớn trong dư luận quần chúng nhân dân. Lần đầu tiên, cờ đỏ sao vàng tiến bước cùng với các đoàn quân khởi nghĩa và tung bay trên nóc các trụ sở của chính quyền thực dân và tề xã bị quân ta chiếm lấy. “Khởi nghĩa Nam kỳ là bài học quý báu về vấn đề chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang, chuẩn bị cho Đảng những kinh nghiệm để giành thắng lợi trong khởi nghĩa tháng 8/1945”[1].
Một trong những bài học quan trọng được Đảng ta đúc kết và vận dụng để tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám chính là vấn đề chọn thời cơ.
Thời cơ của một cuộc cách mạng, một cuộc khởi nghĩa có thể khái quát ở mấy điểm chính: kẻ thù bị suy yếu toàn diện hoặc bị chia rẽ sâu sắc; sự chuẩn bị của chúng ta tốt nhất hoặc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất; sự phẫn nộ, mâu thuẫn của quần chúng đối với kẻ thù lên cao nhất và đồng bào có khả năng thống nhất thành một khối.
Nếu chúng ta xem Cách mạng tháng Tám là sự vận dụng thời cơ một cách hoàn hảo thì trong khởi nghĩa Nam kỳ, vấn đề thời cơ thực sự có nhiều điểm chưa ổn. Bấy giờ, kẻ thù (cả thực dân Pháp và phát xít Nhật) đều còn rất mạnh, dù tạm thời thực dân Pháp đầu hàng phát xít Nhật nhưng lực lượng của họ vẫn còn nguyên vẹn và khi hai kẻ đang đối đầu nhau lại cùng đối mặt quân khởi nghĩa thì nhất định chúng sẽ hợp sức đối phó. Giữa người Nhật và người Pháp có mâu thuẫn nhưng chưa đến mức một mất một còn; tại chính quốc, Pháp đã đầu hàng phát xít Đức nhưng chính quyền mới vẫn nhất quán với đường lối xâm lược so với chính quyền cũ và vẫn tiếp tục điều khiển được chính quyền thực dân tại thuộc địa.
Đương nhiên, quần chúng nhân dân lúc đó vô cùng căm thù cả thực dân Pháp lẫn phát xít Nhật nhưng chưa được tổ chức lại thành một khối. Từng cá nhân, từng giới, từng giai cấp đều có lòng yêu nước, căm thù giặc nhưng biến điều đó thành sức mạnh vật chất thì cần phải có sự giác ngộ cách mạng sâu sắc, sự tổ chức, huấn luyện, diễn tập để họ phát huy được sức mạnh đoàn kết một cách cao độ. Những điều này vào thời điểm tháng 11/1940 đều chưa có hoặc có nơi có thì cũng chưa sâu sắc và chưa đều khắp.
Còn phía lực lượng cách mạng, khi bắt đầu Thế chiến II, một bộ phận đáng kể các đồng chí lãnh đạo, các đảng viên và các tổ chức đảng bị truy bắt, bị giam cầm, bị phá vỡ. Số còn lại thì vừa yếu, vừa mỏng và sự chuẩn bị về nhiều mặt cho cuộc khởi nghĩa thực sự chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn. Trong Cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã chuẩn bị lực lượng từ sau khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9/3/1945) trong điều kiện thuận lợi hơn rất nhiều, chúng ta mới có thể giành thắng lợi giòn giã. Còn trong khởi nghĩa Nam kỳ, sự chuẩn bị ở tình thế rất khó khăn.
Trong tháng 7/1940, Xứ ủy Nam kỳ họp hội nghị mở rộng ở Tân Hương - Mỹ Tho; 3 vấn đề lớn được hội nghị thảo luận sôi nổi nhất: một là, lấy vũ khí ở đâu mà trang bị cho quân khởi nghĩa; hai là, phải có những điều kiện nào mới phát động khởi nghĩa; ba là, có thể khởi nghĩa ở Nam kỳ trước hay phải chờ phải khởi nghĩa trong cả nước gần cùng một lúc với nhau. Hội nghị bế mạc trong không khí phấn khởi và có quyết tâm cao, tuy không phải mọi người đều đồng ý với nhau về chỗ nhận định thời cơ trước mắt. Hội nghị xong, đồng chí Phan Đăng Lưu liền ra Bắc để báo cáo và xin sự chuẩn y của Trung ương. Như vậy, hội nghị này mới giải quyết vấn đề tâm lý và tinh thần của cuộc khởi nghĩa, chưa xác định được những điều kiện cần thiết để khởi nghĩa nổ ra và có thể giành được thắng lợi.
Trong khi đó, Trung ương nhận định rằng lúc này, điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan chưa chín muồi để có thể phát động khởi nghĩa, do đó đã chỉ đạo hoãn cuộc dự định khởi nghĩa ở Nam kỳ. Chẳng may, chỉ đạo đó theo đồng chí Phan Đăng Lưu vừa về tới Sài Gòn thì đồng chí bị bắt, khi lệnh khởi nghĩa đã phát ra rồi, không còn hoãn lại được nữa. Từ đây, ta cũng có thể đặt ra câu hỏi: Tại sao Xứ ủy Nam kỳ không đợi chỉ thị của Trung ương, hay nói cách khác, sao Xứ ủy không chờ đồng chí Phan Đăng Lưu về rồi hãy phát động khởi nghĩa nếu Trung ương đồng ý? Phải chăng Xứ ủy có phần nôn nóng?
Tượng đài khởi nghĩa Nam kỳ đặt trước Bảo tàng huyện Hóc Môn (TPHCM).Về lực lượng, thực sự quá trình chuẩn bị chưa thật kỹ càng, chu đáo. Như tại thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn, Thành ủy được tổ chức hồi tháng 7 chưa bắt liên lạc được hết với các cơ sở xí nghiệp và đường phố của Đảng đã có từ trước. Nơi nào liên lạc được thì dân vận phát triển tốt; như công đoàn Hãng rượu Bình Tây có hàng trăm đoàn viên, bến tàu Sài Gòn có 450, học sinh phản đế Đông Dương có 1.700 người... Nói chung, ta còn yếu ở các xí nghiệp lớn, ta lại mạnh ở các ngành lẻ tẻ như xe kéo, xe xích lô, thợ máy, thợ giặt, xe ngựa, bồi bếp, thợ giày, thợ cắt tóc… Vậy khi khởi nghĩa nổ ra, lực lượng nào sẽ là nòng cốt? Có lẽ khi đó chưa ai trả lời rõ ràng câu hỏi đó.
Do vậy, có thể nói rằng có một sự chưa hoàn chỉnh, hợp lý, chặt chẽ “về công tác chuẩn bị các điều kiện cần và đủ cho một cuộc khởi nghĩa nổ ra có thể giành được thắng lợi, đặc biệt là chuẩn bị về lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang và khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh du kích, xây dựng và kiểm tra kế hoạch, phát hiệu lệnh khởi nghĩa”[2]. Điều này rõ ràng là không phát huy được sức mạnh của ta và lại nhằm vào lúc địch còn mạnh, khả năng thắng lợi quả không cao!
Các tác giả của công trình Lịch sử Nam kỳ khởi nghĩa đã có lý khi nhận định: “Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ nổ ra khi tình thế cách mạng đã xuất hiện, nhưng chưa đủ điều kiện chín muồi cho cuộc tổng khởi nghĩa trong phạm vi Nam kỳ và cả nước”[3]. Có tình thế cách mạng nhưng chưa tạo nên thời cơ cách mạng; đó là nhận định của chúng ta sau khi nhìn lại toàn bộ diễn biến sự kiện, chứ còn với điều kiện hạn chế thông tin lúc đó, quyết định khởi nghĩa của những người lãnh đạo Xứ ủy có thể coi là rất quyết đoán và dũng cảm!
Trong kháng chiến chống Pháp, ngày 14/4/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh tuyên dương “Đội quân khởi nghĩa Nam bộ đã nổi lên chiến đấu oanh liệt với địch” và đã biểu dương “ý chí quật cường của dân tộc” và tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất, là huân chương cao quý nhất lúc bấy giờ. Giá trị của cuộc khởi nghĩa là sự tổng hòa, sự ghi nhận, trân trọng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và quần chúng yêu nước của Việt Nam, cũng như ý nghĩa thực sự của cuộc khởi nghĩa đã mang lại cho cách mạng Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam. Những điều đó sẽ khiến cuộc khởi nghĩa Nam kỳ trường tồn cùng lịch sử của dân tộc!
Nguyễn Minh Hải
_____________________
[1] Thạch Phương – Lê Trung Hoa (chủ biên), Từ điển thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ, 2001, tr.61.
[2] Ban Tuyên giáo Trung ương, Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 80 năm khởi nghĩa Nam kỳ.
[3] Hội đồng Chỉ đạo biên soạn Lịch sử khởi nghĩa Nam kỳ, Lịch sử khởi nghĩa Nam kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.516-517.