Thứ Sáu, ngày 19 tháng 12 năm 2025

Khởi nghĩa Nam Kỳ - Sức mạnh quật cường của nhân dân

Nhà bà Năm Dẹm (Lê Thị Lợi), nơi Xứ ủy Nam kỳ tháng 7 năm 1940 họp bàn về việc Nam kỳ khởi nghĩa. Nguồn: Ảnh tư liệu

(Thanhuytphcm.vn) - Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn từ thuở Pháp mới đặt chân sang xâm lược đã được xem là trung tâm kinh tế - chính trị, trung tâm văn hóa - xã hội của Nam Kỳ, là nơi đóng cơ quan cai trị đầu não của Pháp, đồng thời cũng là nơi đóng trụ sở của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Kỳ, chính vì lẽ đó, từ thời Pháp thuộc đến kháng chiến chống Mỹ, sang giai đoạn Việt Nam bước ra khỏi cuộc chiến tranh, tiến hành xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, không một giai đoạn nào trong lịch sử lại thiếu đi dấu ấn của quân và dân Sài Gòn, có những lúc Sài Gòn đóng vai trò tương trợ, giúp sức cho các tỉnh thành khác đứng lên đấu tranh, nhưng cũng có khi Sài Gòn là nơi khởi phát thổi bùng lên những phong trào yêu nước bất khuất ghi tạc vào trong những trang sử vàng của dân tộc.

Tiêu biểu là cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy, Sài Gòn - Chợ Lớn là một trong những nơi đi đầu trong công tác chuẩn bị và tổ chức lực lượng dù đối mặt với tình cảnh vô cùng khó khăn.

Chiến tranh thế giới nổ ra, Đế quốc Pháp một mặt đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, một mặt tăng cường bắt người Việt sang Pháp để bảo vệ “mẫu quốc”, ra sức vơ vét sức người, sức của để phục vụ cho chiến tranh, nhân dân đặc biệt là công nhân lao động ngày càng rơi vào cảnh đói khổ lầm than, không một tia hy vọng. Tháng 6 năm 1940, nước Pháp đầu hàng phát xít Đức, tại Đông Dương, đến tháng 9 năm 1940, thực dân Pháp tiếp tục để mất Đông Dương về tay Nhật Bản; kể từ đây, nhân dân Việt Nam chịu cảnh một cổ hai tròng, tình cảnh hết sức cùng cực, bi đát.

Nhận định được sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, từ tháng 3 năm 1940 tại Nam Kỳ đã xuất hiện Đề cương khởi nghĩa Nam Kỳ, thực chất là đề cương khởi nghĩa vũ trang do Xứ ủy đề ra, nhưng phải qua nhiều cuộc tranh luận, nhiều hội nghị lớn của Xứ ủy, dần dần chủ trương khởi nghĩa vũ trang mới ngày được hình thành rõ ràng và dứt khoát.

Chủ trương và đường hướng khởi nghĩa được xác định tại các Hội nghị mở rộng của Xứ ủy Nam Kỳ tại Tân Hương (Mỹ Tho)[1], tại Tân Xuân (Hóc Môn, Gia Định)[2].

Quán triệt tinh thần của các cuộc Hội nghị, đồng thời dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy, Thành ủy gấp rút thực hiện những nhiệm vụ mà Xứ ủy giao, các cán bộ lãnh đạo, những chiến sĩ cách mạng của Thành ủy vẫn luôn giữ vững tinh thần thép, bằng tất cả sự anh dũng, kiên cường, không quản nguy khó, họ đã bí mật thực hiện các khâu chuẩn bị, tiến tới khởi nghĩa vũ trang nhằm mục đích giành chính quyền về tay nhân dân.

Về công tác tuyên truyền, dù bị địch lùng soát gắt gao nhưng tờ báo Tiến Lên - cơ quan tranh đấu của Mặt trận phản đế vẫn cố gắng ra đều, với nội dung hướng dẫn mọi mặt công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ban đầu, về tội ác thực dân, về lòng căm thù giặc… được in tại Sài Gòn, phát hành rộng tới tất cả các tỉnh thành khác. Tuy nhiên, sau vụ vỡ cơ quan in báo “Tiến lên” ngày 30 tháng 7 năm 1940 ở Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, các đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt, cơ quan báo được bí mật chuyển về Vĩnh Long, rồi sau đó là chuyển về Mỹ Tho tiếp tục hoạt động. Ở Chợ Lớn, Thành ủy chỉ đạo bí mật cho ra thêm các báo Phổ thông, Đời sống… tích cực vận động người dân tham gia Mặt trận vừa hướng dẫn công tác chuẩn bị khởi nghĩa.

Nhiều cuộc mít tinh được tổ chức khắp nơi, cả Thành phố và nông thôn vào các dịp kỷ niệm để giải thích đường lối chính sách của Đảng, của Mặt trận, vạch tội ác của bọn phát xít. Hình thức truyền đơn cũng xuất hiện mọi nơi, Thành ủy chủ trương làm phong phú nội dung tuyên truyền khác nhau, nhất là dịp Pháp thua trận và các đợt kỉ niệm lớn trong năm. Thành ủy đã liên tục cho rải truyền đơn bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp ở các khu phố Sài Gòn, đồng thời rải truyền đơn bằng tiếng Trung ở các khu tập hợp nhiều người Hoa. Cùng với truyền đơn là sự xuất hiện của băng rôn, cờ hiệu, biểu ngữ, cờ đỏ búa liềm[3] ngập cả một trời.

Cái mõ đã được Võ Văn Kiệt dùng để phát động Nam Kỳ khởi nghĩa tại Vũng Liêm tháng 11 năm 1940. Nguồn: Ảnh tư liệu Cái mõ đã được Võ Văn Kiệt dùng để phát động Nam Kỳ khởi nghĩa tại Vũng Liêm tháng 11 năm 1940. Nguồn: Ảnh tư liệu

Thành ủy còn thành lập được một Ban Chấp hành Thanh niên Thành phố, đảm nhiệm công tác in ấn, rải truyền đơn, đồng thời chỉ đạo tập trung tuyên truyền, rải truyền đơn vào các ngày lễ lớn trong năm. Mặc dù, chính quyền thực dân đã ra sức đàn áp, bắt bớ, giam cầm, tra tấn và đàn áp thẳng tay, nhưng khắp nơi trên Sài Gòn - Chợ Lớn đều xuất hiện những tờ truyền đơn với những lời lẽ thống thiết gây xúc động lòng người, thổi bùng lên ngọn lửa và ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của mỗi người dân Sài Gòn - Chợ Lớn[4].

Bên cạnh việc tuyên truyền bằng sách báo, truyền đơn, biểu ngữ, treo cờ, Thành ủy còn tổ chức ra những đội tuyên truyền có mặt khắp các cơ sở, những đội tuyên truyền này có nhiệm vụ diễn thuyết, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, của Mặt trận, khơi dậy niềm tin, lòng yêu nước của người dân ở những nơi đông người như đình đám, chợ búa…

Nhờ vào sức ảnh hưởng của các hoạt động tuyên truyền, những lời kêu gọi thống thiết ấy mà phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo lan rộng tới cả học sinh - sinh viên, tại các trường Pétrus Ký, Đồng Nai, Huỳnh Khương Ninh, Lycéum Paul Doumer... nhiều chi bộ được thành lập[5], viên chức các công, tư sở như bệnh viện Lalung Bonnaire (nay là bệnh viện Chợ Rẫy) cũng phần nào ngả về phía cách mạng, nhờ vậy cán bộ bị ốm đau được bí mật đưa đến đây để chữa trị.

Một số trí thức cũng ngả về phía cách mạng như Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Trần Vọng Kim, bác vật Lưu Văn Lang, Giang Văn Khánh, luật sư Trịnh Đình Thảo, giáo sư Lê Văn Huấn, kỹ sư Kha Vạng Cân, Phước George… Các văn nghệ sĩ nổi tiếng như Năm Châu, Phùng Há, Tư Chơi, Tám Danh… cũng tỏ thái độ tình cảm và ủng hộ cách mạng. Thậm chí một bộ phận tổng lý đã có thiện cảm với cách mạng hoặc đứng trung lập, không thiết tha đàn áp cách mạng nữa.[6]

Về củng cố tổ chức Đảng, Thành ủy đã hoàn thành tốt công tác kiện toàn tổ chức từ cơ quan lãnh đạo đảng cấp Thành đến cấp cơ sở, sau Nghị quyết của Hội nghị Tân Hương, chỉ một tháng sau đó (tháng 8 năm 1940), lãnh đạo Thành ủy được củng cố bao gồm các đồng chí: Nguyễn Như Hạnh (Bí thư Thành ủy), Nguyễn Văn Hớn[7], Phan Nhung, Trần Văn Sớ, Nguyễn Oanh, Trần Văn Út, Hoàng Xanh, sau này có thêm đồng chí Xuyên, chuyên phụ trách công vận. Như vậy, Thành ủy từ khi chiến tranh thế giới nổ ra, sau mấy lần liên tục bị vỡ do chính sách khủng bố của địch, nay đã bước đầu được củng cố và tăng cường để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa sắp đến.

Cuối tháng 9 năm 1940, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn lại mở cuộc họp mở rộng, nhất trí thành lập thêm các Ủy ban khởi nghĩa cấp thành - quận, cử đồng chí Tạ Uyên (Bí thư Xứ ủy) làm trưởng Ủy ban khởi nghĩa của Thành phố.

Thành ủy còn giao cho đồng chí Nguyễn Văn Quặn chỉ huy Trung tâm huấn luyện tân binh ở Bà Chiểu, Trương Văn Giàu, chỉ huy tiểu đoàn ở Chí Hòa, Tạ Nhất Tứ có nhiệm vụ bồi dưỡng kiến thức quân sự cho cán bộ lãnh đạo Thành ủy, Xứ ủy. Đồng chí Nguyễn Như Hạnh phụ trách công tác binh vận. Phân công đồng chí Phan Nhung, Thường vụ Thành ủy chuyên lo tìm kiếm vũ khí để trang bị cho tự vệ và du kích[8].

Bia ghi dấu ấn trong khuôn viên Di tích lịch sử Nam Kỳ khởi nghĩa (Khu Di tích lịch sử cấp Quốc gia Đình Long Hưng). Nguồn: Ảnh tư liệu Bia ghi dấu ấn trong khuôn viên Di tích lịch sử Nam Kỳ khởi nghĩa (Khu Di tích lịch sử cấp Quốc gia Đình Long Hưng). Nguồn: Ảnh tư liệu

Bên cạnh công tác củng cố nhân sự, Thường vụ Thành ủy còn quan tâm xúc tiến việc củng cố, phát triển cơ sở đảng ở các xí nghiệp, khu xóm lao động, đường phố, trường học, bệnh viện, trại lính... Tính đến tháng 10 năm 1940, Đảng bộ Thành phố có trên 50 chi bộ, số lượng đảng viên trên dưới 300 người. Số lượng đảng viên ngày một tăng, đồng nghĩa với việc phải chú trọng hơn đến chất lượng, Thành ủy quyết định mở ngay một lớp bồi dưỡng về mặt tư tưởng chính trị ngắn hạn cho đảng viên, bồi dưỡng cho cán bộ cốt cán về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng trong thời gian tới.

Về xây dựng và củng cố lực lượng đấu tranh, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn như được chủ trương thành lập các tổ chức như: Thanh niên phản đế, Phụ nữ phản đế, Binh sĩ phản chiến, Nông hội phản đế… Các thành viên hoạt động tốt trong tổ chức đều được đưa vào Mặt trận phản đế, qua giáo dục rèn luyện và được giúp đỡ trong thử thách đấu tranh mới được tuyển chọn và kết nạp vào Đảng.

Nhiều nơi, dưới sự quan tâm sâu sát của Thành ủy đã chủ động xây dựng các đội cảm tử, tự vệ, du kích, tổ chức huấn luyện, luyện tập võ nghệ, tập quân sự, tập đâm lê, leo tường bằng móc sắt, tập đánh du kích, đánh theo đường phố, truyền tin bằng khẩu hiệu… Những cá nhân hăng hái của tổ chức quần chúng được tập hợp từ 3 đến 9 người làm một đội du kích, một số đội du kích được tập hợp lại thành một đơn vị, đến tháng 11 năm 1940 ở Sài Gòn đã có hơn 34 đơn vị du kích[9].

Từ tháng 7 năm 1940, tại nhiều nhà máy, trường học, đường phố ngoài tổ chức tự vệ còn hình thành thêm các tổ, tiểu đội du kích. Ở nông thôn, các xã tổ chức được từ một tiểu đội đến một đội du kích. Trong một số khu lao động, đường phố, các trường Pétrus Ký, Huỳnh Khương Ninh, Kỹ nghệ thực hành, trường máy, trường dạy lái ô tô, một số xí nghiệp… đã tổ chức những đơn vị tự vệ vũ trang. Các đội du kích trang bị vũ khí thô sơ, khẩn trương huấn luyện quân sự để chuẩn sẵn sàng chiến đấu.

Hòa vào không khí sôi động của cách mạng giai đoạn 1939 - 1940, đồng bào người Hoa cũng thành lập nên tổ chức Hoa kiều kháng Nhật cứu quốc hội Sài Gòn - Chợ Lớn; họ tự xây dựng các đội tự vệ, mỗi đội từ 2 đến 3 tổ, mỗi tổ từ 5 đến 10 người, rất hăng hái và luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt, nhiều cán bộ đảng viên, đồng bào người Hoa, có liên hệ chặt chẽ với Thành ủy đã hoạt động rất tích cực, họ chăm lo việc bố trí cơ quan làm việc của Xứ ủy; tạo nguồn tài chính, mua sắm chất nổ, vũ khí… Các đồng chí người Hoa còn được giao nhiệm vụ đứng ra quyên góp tài chính, vận động xin sắt vụn dao cùn, lo mua nguyên vật liệu phục vụ công tác sản xuất vũ khí, đóng góp vào việc in ấn, phát hành tài liệu, truyền đơn. Tất cả những hoạt động của đảng viên và đồng bào người Hoa đã góp phần quan trọng, xúc tiến việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy chắc chắn sẽ diễn ra tại Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Được sự phân công của Thành ủy trong nhiệm vụ tìm kiếm vũ khí để trang bị cho đội tự vệ và du kích, đồng chí Phan Nhung lúc này đang là đốc công, có tham gia giảng dạy và trực tiếp lãnh đạo phong trào của trường Bách nghệ Sài Gòn, thông qua đồng chí Bảy, đồng chí Phan Nhung đã tạo được một số cơ sở trong cơ quan hậu cần của địch, đồng chí Bảy ngoài việc tìm kiếm vũ khí, thuốc nổ trang bị cho lực lượng vũ trang cách mạng, còn có năng lực làm công tác binh vận.

Phong trào quyên góp tiền mua sắm vũ khí cũng diễn ra nhộn nhịp và vô cùng sôi nổi giữa lòng Thành phố. Nhiều lò rèn trước đây rèn đồ dùng sinh hoạt, nay chuyển sang chuyên rèn dao găm, mã tấu, gươm giáo. Có nơi tìm mua nguyên vật liệu để tự chế thành lựu đạn thô sơ, tự tạo súng thủ công trang bị cho các lực lượng du kích, tự vệ vũ trang.

Ban khởi nghĩa Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn còn được Thành ủy phân công chuẩn bị cụ thể tất cả các mặt cho cuộc nổi dậy, nhất là việc điều tra lực lượng binh lính địch, các kho vũ khí, số lượng vũ khí, kho tàng, các nơi sung yếu cần đánh chiếm như đồn bót, cầu phà, công sở…

Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, Thành ủy thường xuyên tổ chức các cuộc Hội nghị để nghe báo cáo tiến độ, đánh giá và nhận định tình hình thực tế, nhắc nhở các cán bộ đảng viên hết sức cố gắng chuẩn bị và hỗ trợ Xứ ủy trong phạm vi và trách nhiệm của mình.

Ngày 15 tháng 10 năm 1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp nghe báo cáo tình hình chuẩn bị từ các địa phương, thống nhất với nhận định rằng dù bị Pháp khủng bố nhưng nhìn chung, lực lượng quần chúng và phong trào cách mạng vẫn tiếp tục phát triển. Hội nghị đã bàn các phương án, mục tiêu cân nhắc lần cuối cùng về những điều kiện của cuộc khởi nghĩa và đi đến quyết định giao cho Ban Thường vụ Xứ ủy (đồng chí Tạ Uyên, Lê Văn Khương, Phan Văn Khỏe, Phan Văn Bảy) quy định cụ thể ngày giờ nổi dậy. Ngày 20 tháng 11 năm 1940, đồng chí Phan Đăng Lưu vẫn chưa về, nhưng trước tình thế cấp bách, Ban Thường vụ Xứ ủy họp khẩn cấp, hạ lệnh cho tất cả các nơi nổi dậy vào 24 giờ đêm ngày 22 tháng 11 năm 1940. Lệnh được phát đi từ Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Tuy nhiên, thông tin khởi nghĩa bị lộ ra ngoài, thực dân Pháp biết trước kế hoạch và thời gian khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ. Thống đốc Nam Kỳ gửi điện khẩn, mật, báo cáo với Toàn quyền Đông Dương tin đêm nay có thể cộng sản sẽ đánh một số nơi ở Sài Gòn như trại lính, Ba Son, Khám Lớn, cơ sở kỹ nghệ. Tất cả các nơi phải đề phòng, ra lệnh báo động, không cho lính ra khỏi trại, canh giữ chặt các kho súng đạn, kiểm soát kỹ càng. Nơi nào nổi dậy thì thẳng tay đàn áp[10].

Đêm 22 tháng 11 năm 1940, tại Thành phố các đơn vị lính đều bị cấm trại, gọi lính đi phép trở về; các kho đạn, kho súng đều bị bọn sĩ quan đến tận nơi kiểm tra cho khóa chặt; lính Pháp, lính da đen được điều đến canh giữ các trại lính tập trung người Việt đã bị thu hồi súng đạn và quản chế chặt. Khám Lớn Sài Gòn được tăng cường thêm lính bảo vệ, các nơi quan trọng trong Thành phố đều có quân chốt giữ; mật thám, cảnh sát kiểm soát gắt gao, tra hỏi soát kĩ giấy tờ những người ra vào Thành phố.

Cuộc họp phổ biến lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy của Ban khởi nghĩa Thành không có, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt đã bị bắt, cùng tất cả các biện pháp đề phòng đối phó với địch, khiến cho cuộc khởi nghĩa ở Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn chưa kịp nổ phát súng đầu tiên đã tê liệt mặc dù các tổ vũ trang đã được xây dựng và chuẩn bị sẵn ở những nơi cơ sở mạnh như Ba Son, F.A.C.I, nhà đèn, Trường Bá nghệ và các khu xóm lao động. Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào nổi dậy của các tỉnh khác, bởi ai nấy đều trông mong tin tức thắng lợi từ phía trung tâm Thành phố.

Nội thành Sài Gòn không nổ súng được nhưng ở Gia Định, Chợ Lớn và các tỉnh khác của Nam Kỳ đều đồng loạt nổi dậy. Trước tình thế đó địch phải huy động một lực lượng lớn quân lính để đàn áp cuộc khởi nghĩa, dìm cuộc khởi nghĩa trong biển lửa.

Gương hy sinh của các chiến sĩ cộng sản cũng như của những đồng bào yêu nước trong Nam Kỳ khởi nghĩa không những không làm quần chúng nhân dân sợ hãi chùn bước mà còn khiến dân ta nung nấu ý chí, lòng căm thù giặc sâu sắc hơn, biến nó thành sức mạnh để họ tiếp tục đứng lên đấu tranh, chuẩn bị lực lượng đánh đổ chúng.

Trước bão táp của đàn áp, khủng bố, dù bị tổn thất nặng nề nhưng các cán bộ đảng viên, những người hoạt động cách mạng vẫn không lùi bước, họ lui về làm đủ các nghề để che mắt địch, từ thầy thuốc đông y đến nghề bán dạo, thợ cắt tóc, thợ sửa xe, giúp việc cho các nhà thầu làm gỗ… họ bám sát quần chúng nhân dân, không ngừng tuyên truyền về Đảng về tổ chức, “nằm gai nếm mật” để đợi thời cơ liên lạc móc nối nhau, xây dựng lại các cơ sở đã bị địch phá vỡ, dù chỉ còn 1 người còn sống, những đồng chí kiên trung vẫn luôn kiên trì lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân. Dám đứng lên sau thất bại, nhìn thẳng vào những khuyết điểm, sai lầm trong công tác chuẩn bị, đánh giá lực lượng…, lấy đó là bài học thực tiễn sâu sắc trong lãnh đạo phong trào. Một tổ chức đảng cách mạng không phải ở chỗ không có sai lầm, khuyết điểm, mà ở chỗ có dám nhìn nhận thực tế để tìm ra nguyên nhân và kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm hay không. Đó chính là thái độ của những người cộng sản chân chính. Và nhờ đó, Đảng Cộng sản đã giữ được niềm tin trong quần chúng nhân dân và tích lũy thêm kinh nghiệm để đưa cách mạng đến thắng lợi.

Đặc biệt, từ Nam kỳ Khởi nghĩa, bài học về giữ vững niềm tin vào thắng lợi, giữ vững được lý tưởng của Đảng là bài học vô cùng quý giá của Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn nói riêng, Đảng ta nói chung trong hoạt động xây dựng Đảng. Sức mạnh của Đảng là ở Nhân dân, vì thế trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải luôn giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, không ngừng xây dựng lực lượng cách mạng trong quần chúng nhân dân.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM

 

------------
[1] Từ ngày 21 đến ngày 27 tháng 7 năm 1940

[2] Từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 9 năm 1940

[3] Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ, Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ, công trình kỷ niệm 60 năm cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, 2001, tr.76.

[4] “Chúng tôi chắc chắn rằng nếu các dân tộc Đông Dương chúng ta không cương quyết hy sinh tranh đấu được giải phóng thì rồi đây không một người nào tránh khỏi sự giam cầm như hội đồng Huy, Tú tài Nhựt ở làng Bình Chính (Tân An), như cựu Hương quản Dụ ở làng Thanh Hà (Chợ Lớn)… là những người làm ăn lương thiện mà cũng phải bị tù đày tra tấn, còn non nước nào mà dân chúng không chiến đấu!”

[5] Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ, Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ, công trình kỷ niệm 60 năm cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, 2001, tr.115.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập - tập 7, nxb Chính trị Quốc gia, 2000, tr. 60.

[7] Có tài liệu ghi là Huỳnh Văn Hớn, là người miền Trung, tham gia hoạt động từ thời Mặt trận Dân chủ Sài Gòn, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Hà Huy Tập.

[8] Hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ, Lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ, công trình kỷ niệm 60 năm cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, 2001, tr.117.

[9] Hội đồng Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí Minh, Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr.400.

[10] Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930 -1975, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2015, tr.224.


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo