1. Ngày 1/9/1939, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ đã ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Thực dân Pháp thi hành một loạt các chính sách thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ, ra sức bắt người đi lính, vơ vét và cướp bóc của cải để cung cấp cho chiến tranh, tiến hành đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo… đẩy nhân dân ta vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp ngày càng trở nên gay gắt.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ thị cho tất cả các cấp bộ Đảng rút vào hoạt động bí mật, chuyển các hoạt động về nông thôn, biến nông thôn thành căn cứ địa rộng lớn của cách mạng, duy trì các cơ sở hiện có ở khu vực thành thị.
Tháng 11/1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của cách mạng Đông Dương. Ngay sau đó, Xứ ủy Bắc Kỳ đã gửi thông tri đặc biệt đến cơ sở Đảng ở Võ Nhai và Bắc Sơn để truyền đạt tinh thần Nghị quyết của Hội nghị Trung ương.
Thực hiện chủ trương mới của Đảng, Đảng bộ Bắc Sơn tổ chức quần chúng, chọn những người vững vàng nhất đã qua thử thách đưa vào các hội phản đế. Đồng thời, vận động quần chúng tìm những địa điểm bí mật, phân tán cất giấu lương thực, đề phòng địch khủng bố, cướp bóc; tuyên truyền, vận động trong hàng ngũ chức dịch nhằm tranh thủ, phân hóa những người trong bộ máy của địch, góp phần bảo vệ tốt các cơ sở Đảng.
Đứng trước những khó khăn của phong trào cách mạng ở Bắc Sơn, Trung ương Đảng đã cử đồng chí Hoàng Quốc Việt lên trực tiếp chỉ đạo các chi bộ Đảng Bắc Sơn mở rộng phong trào, gây dựng cơ sở cách mạng và cùng các đồng chí trong Đảng bộ Bắc Sơn gấp rút chuẩn bị lực lượng, tổ chức thêm các đội tự vệ bán vũ trang chờ thời cơ hành động.
Lược đồ Khởi nghĩa Bắc Sơn (Nguồn: Ảnh tư liệu). 2. Ngày 22/9/1940, Nhật kéo quân từ Quảng Tây (Trung Quốc) vượt biên giới tấn công Pháp ở Lạng Sơn. Sau vài trận chống cự yếu ớt, quân Pháp rút chạy qua Điềm He, Bình Gia, Bắc Sơn về Thái Nguyên. Chính quyền địch ở những vùng này tan rã, các viên tri châu Điềm He, Tràng Định, Na Sầm chạy trốn.
Sự hoảng loạn của thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã tạo thời cơ thuận lợi cho Đảng bộ và quần chúng cách mạng ở Bắc Sơn nổi dậy tiến hành cuộc khởi nghĩa.
Ngày 25/9/1940, một số đồng chí đảng viên vừa thoát khỏi nhà tù Lạng Sơn về tới châu Bắc Sơn, trong đó có đồng chí Nông Văn Cún (tức Nông Thái Long), Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức.
Tối ngày 26/9/1940, các đồng chí Nông Văn Cún, Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức đã họp cùng các đồng chí Dương Công Bình, Hoàng Văn Hán tại thôn Nông Lục, xã Hưng Vũ để nhận định tình hình và thời cơ cách mạng, thảo luận phương án phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa vũ trang.
Sáng 27/9/1940, Ban Cán sự Châu ủy Bắc Sơn đã triệu tập, tổ chức cuộc họp quan trọng tại đình Nông Lục, xã Hưng Vũ quyết định phát động khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ngay trong ngày 27/9/1940. Ban Chỉ huy cuộc khởi nghĩa được thành lập gồm các đồng chí: Hoàng Văn Hán, Dương Công Bình, Hoàng Đình Ruệ, Đường Văn Thức và Nông Văn Cún do đồng chí Hoàng Văn Hán làm Chỉ huy trưởng. Mục tiêu tấn công đầu tiên là đánh chiếm đồn Mỏ Nhài, châu lỵ Bắc Sơn.
20 giờ, ngày 27/9/1940, dưới sự chỉ huy của các đảng viên, nhân dân các xã Bắc Sơn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên, Ngư Viễn đồng loạt nổ súng tấn công đồn Mỏ Nhài. Trước khí thế của quân khởi nghĩa, Tri châu Hoàng Văn Sỹ và binh lính đã bỏ chạy qua đèo Canh Giàn (xã Trấn Yên) sang châu Bằng Mạc.
Sau khi chiếm được đồn Mỏ Nhài, quân khởi nghĩa giải phóng hoàn toàn châu lỵ Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng giành được thắng lợi. Ban Chỉ huy cuộc khởi nghĩa tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân và tay sai.
Ngày 27 và ngày 28/9/1940, quân khởi nghĩa đón đánh và tiêu diệt lính Pháp ở đèo Canh Tiếm (nay thuộc xã Chiến Thắng) và đèo Dập Dị (xã Vũ Lăng).
Trước tình thế đó, Pháp, Nhật thỏa hiệp với nhau để tập trung đàn áp cuộc khởi nghĩa. Thực dân Pháp đưa quân lên chiếm lại đồn Mỏ Nhài, châu lỵ Bắc Sơn và đàn áp nhân dân dữ dội. Tuy nhiên, địch vẫn không dập tắt được tinh thần chiến đấu của nhân dân, phong trào cách mạng, tổ chức quần chúng và khí thế khởi nghĩa ở Bắc Sơn vẫn được duy trì.
Đầu tháng 10/1940, Xứ ủy Bắc Kỳ đã cử đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ đến Bắc Sơn trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa.
Ngày 14/10/1940, đồng chí Trần Đăng Ninh triệu tập một cuộc họp với các đảng viên ở Sa Khao, xã Vũ Lăng (nay là xã Tân Hương) để bàn về các biện pháp xây dựng phong trào cách mạng Bắc Sơn. Hội nghị quyết định:
- Tập trung đảng viên và một số quần chúng tích cực, thu thập vũ khí để thành lập Đội du kích Bắc Sơn.
- Xây dựng vùng Nà Tấu (xã Ngư Viễn), Sa Khao, Mỏ Tát, Bản Ne, Nam Nhi, xã Vũ Lăng (nay là xã Tân Hương) thành khu căn cứ du kích Bắc Sơn.
- Giải tán chính quyền địch, tiễu trừ mật thám, tịch thu tài sản của bọn phản động chia cho nhân dân.
- Tích trữ lương thực để chuẩn bị đối phó lâu dài với địch, tổ chức mít tinh, kêu gọi quần chúng nhân dân ủng hộ cách mạng.
- Thành lập Ban Chỉ huy tiếp tục đẩy mạnh cuộc khởi nghĩa.
Ban Chỉ huy khởi nghĩa tổ chức cuộc mít tinh, diễn thuyết tại Đon Úy, xã Vũ Lăng với hơn 1.000 người là đảng viên và quần chúng cách mạng tham gia. Thay mặt Ban Chỉ huy, đồng chí Trần Đăng Ninh tuyên bố thành lập Đội du kích Bắc Sơn.
Sau thời gian ngắn được củng cố, đến cuối tháng 10/1940, Đội du kích Bắc Sơn đã có 200 đội viên, tổ chức thành các tiểu đội du kích (mỗi tiểu đội 10 người), trang bị vũ khí toàn đội có 20 khẩu súng trường và 200 súng kíp. Đội du kích Bắc Sơn là đội du kích đầu tiên do Đảng ta thành lập và trực tiếp chỉ huy. Với sự hoạt động tích cực của Đội du kích, chỉ sau thời gian ngắn, phong trào đấu tranh bảo vệ căn cứ, tiễu trừ Việt gian, phản động đã phát triển ra hầu hết các xã Hữu Vĩnh, Ngư Viễn, Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên, Bắc Sơn, Nhất Hòa.
Trước khí thế đấu tranh sôi nổi của quần chúng, Ban Chỉ huy Đội du kích quyết định tập trung lực lượng đánh chiếm đồn Mỏ Nhài. Trước khi tiến công, ngày 28/10/1940, Ban Chỉ huy tổ chức một cuộc mít tinh lớn với sự tham gia của hơn 1.000 quần chúng tại Vũ Lăng để vận động quần chúng và biểu dương lực lượng. Giữa lúc quần chúng cách mạng đang dự mít tinh, quân Pháp và tay sai đã huy động lực lượng tập kích bất ngờ, làm cho lực lượng của ta bị phân tán.
Sau cuộc tập kích của địch, ngày 29/10/1940, đồng chí Trần Đăng Ninh đã triệu tập một cuộc họp gồm các đồng chí đảng viên trung kiên của Đảng bộ Bắc Sơn tại thôn Nà Pán, xã Vũ Lăng (nay thuộc xã Tân Hương). Ban Chỉ huy quyết định:
- Rút toàn bộ cán bộ, đảng viên đã bị lộ cùng du kích vào rừng sâu để tiến hành hoạt động bí mật.
- Đối với cán bộ, đảng viên chưa bị lộ thì kiên quyết bám lấy quần chúng để củng cố và giữ vững cơ sở cách mạng ở các xã thuộc châu lỵ Bắc Sơn.
- Gấp rút chuẩn bị để có thể chủ động chống cuộc khủng bố lớn của địch.
Từ ngày 30/11/1940, khi được phát xít Nhật đem quân trở lại đóng ở các doanh trại Lạng Sơn, Đồng Đăng là những điểm gần Bắc Sơn, thực dân Pháp đã tăng cường khủng bố Bắc Sơn. Nhiều làng bản bị đốt phá, nhiều quần chúng cách mạng bị bắt, giết.
Sau khi phân tích tình hình cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp từ ngày 6 đến ngày 8/11/1940 tại làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; quyết định duy trì Đội du kích Bắc Sơn làm cơ sở cho xây dựng lực lượng cách mạng, thành lập căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Nhiệm vụ và phương hướng hoạt động của Đội du kích Bắc Sơn là kết hợp hình thức vũ trang tuyên truyền, vừa chiến đấu chống khủng bố, vừa bảo vệ và xây dựng cơ sở quần chúng.
Trước sự lớn mạnh của Đội du kích, thực dân Pháp tiến hành khủng bố ác liệt phong trào, nhiều quần chúng cách mạng và chiến sĩ du kích bị bắt, sát hại.
Trung ương Đảng phát động nhân dân cả nước ủng hộ vật chất cho du kích Bắc Sơn. Đồng thời, thay mặt Xứ ủy Bắc kỳ, đồng chí Hoàng Văn Thụ giao nhiệm vụ cho các đồng chí Lương Văn Tri, Hoàng Văn Thái, Bùi Thống, Bình Tiến, Ái… lên chỉ đạo, tăng cường củng cố lực lượng du kích và xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai (Thái Nguyên).
Nhận định về cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã khẳng định: “Khởi nghĩa Bắc Sơn đã giúp cho Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu về phương pháp lãnh đạo và tiến hành khởi nghĩa vũ trang”[1].
Khu di tích cách mạng đồn Mỏ Nhài - nơi mở đầu cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). 3. Khởi nghĩa Bắc Sơn mở đầu thời kỳ đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc Đông Dương; biểu hiện sức sáng tạo và tài thao lược trong chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước; mở đầu thời kỳ đấu tranh mới của cách mạng Việt Nam - thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy của quần chúng kết hợp với tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng, đánh đổ thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
Tiếp nối khởi nghĩa Bắc Sơn, nhiều cuộc khởi nghĩa, bạo động vũ trang đã nổ ra trên khắp mọi miền đất nước: khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940), binh biến Đô Lương (1/1941), cao trào kháng Nhật cứu nước…“Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương”[2].
Khởi nghĩa Bắc Sơn tạo bước ngoặt mới trong hình thức đấu tranh của quần chúng nhân dân. Sau khởi nghĩa, phong trào đấu tranh của nhân dân ta tiếp tục diễn ra mạnh mẽ dưới nhiều hình thức, tổ chức cơ sở đảng không ngừng lớn mạnh, lực lượng chính trị dần được hình thành và phát triển.
Khởi nghĩa Bắc Sơn đã đặt nền móng cho sự ra đời của các đội quân cách mạng. Từ khởi nghĩa Bắc Sơn đã hình thành một trong những đội quân vũ trang cách mạng đầu tiên của Đảng là Đội du kích Bắc Sơn, góp phần thúc đẩy sự ra đời, trưởng thành của các đội Cứu quốc quân.
Khởi nghĩa Bắc Sơn mở ra quá trình hình thành và phát triển căn cứ địa cách mạng do Đảng trực tiếp chỉ đạo xây dựng. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (tháng 11/1940) quyết định duy trì và phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập căn cứ địa cách mạng, lấy vùng Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm. Đến năm 1943 nối thông với căn cứ địa cách mạng Cao Bằng, hình thành Chiến khu Cao-Bắc-Lạng và sau đó cùng với Chiến khu Thái-Tuyên-Hà hợp thành Khu giải phóng Việt Bắc (tháng 6/1945).
Khởi nghĩa Bắc Sơn thể hiện sự tập trung của trí tuệ, ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, đặc biệt là tổ chức lực lượng quần chúng các dân tộc ở Bắc Sơn phối hợp chiến đấu với lực lượng du kích, tự vệ tại chỗ, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn chiến thắng kẻ thù xâm lược, tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam.
Khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). 4. Khởi nghĩa Bắc Sơn là cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng, để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học vô cùng quý báu về nắm vững thời cơ khởi nghĩa, về khởi nghĩa vũ trang, vai trò của quần chúng trong khởi nghĩa vũ trang, việc kết hợp giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, xây dựng căn cứ địa cách mạng … Những bài học quý báu từ khởi nghĩa Bắc Sơn và các cuộc khởi nghĩa sau đó đã góp phần thúc đẩy, tạo ra những tiền đề, cơ sở cho cuộc vận động cách mạng sôi nổi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám 1945, đánh đổ thực dân và phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng
Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM
____________________
[1] Trường Chinh: Diễn văn kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi nghĩa Bắc Sơn, Báo Nhân dân ngày 30/9/1980.
[2] Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, 1996, tr.109.