Kết quả Chỉ số PAR INDEX năm 2020 các bộ cho thấy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Bộ Tài chính; Bộ Tư pháp tiếp tục là 3 đơn vị đạt kết quả trên 90%.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đạt Chỉ số PAR INDEX năm 2020 cao nhất ở năm thứ 6 liên tiếp với kết quả là 95,88%, cao hơn 12,64% so với Bộ Giáo dục và Đào tạo, đơn vị có kết quả Chỉ số PAR INDEX thấp nhất với giá trị 83,24%.
Theo Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, giá trị trung bình Chỉ số PAR INDEX của 17 bộ, cơ quan ngang bộ đạt được là 87,56%, tăng 1,93% so với năm 2019.
Đối với kết quả Chỉ số PAR INDEX năm 2020 của các tỉnh, thành phố được phân theo 3 nhóm.
Nhóm A, đạt kết quả Chỉ số PAR INDEX từ 90% trở lên, gồm 2 tỉnh, thành phố (Quảng Ninh, Hải Phòng). Nhóm B, đạt kết quả Chỉ số từ 80% - dưới 90%, gồm 56 tỉnh, thành phố. Nhóm C, đạt kết quả Chỉ số từ 70% - dưới 80%, gồm 5 tỉnh, thành phố.
TPHCM đứng ở vị trí thứ 23 (nhóm B) với giá trị 84,70%.
Theo đánh giá, Chỉ số PAR INDEX 2020 của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kết quả đạt giá trị trung bình là 83,72%, cao hơn 2,57% so với giá trị trung bình năm 2019 và đạt giá trị cao nhất trong 5 năm gần đây.
So sánh kết quả của 63 địa phương cho thấy, có 38 đơn vị đạt Chỉ số PAR INDEX cao hơn giá trị trung bình của cả nước. Đáng chú ý, năm 2020 có 58 địa phương đạt Chỉ số PAR INDEX trên 80%. Trong khi đó, năm 2019 chỉ có 44 đơn vị và năm 2018 chỉ có 9 đơn vị thuộc nhóm này.
Kết quả Chỉ số PAR INDEX các tỉnh, thành phố năm 2020 Có 58 tỉnh, thành phố có kết quả Chỉ số PAR INDEX tăng cao hơn so với năm 2019. Trong năm 2020, cả 6 vùng kinh tế đều có giá trị trung bình Chỉ số PAR INDEX tăng cao hơn so với năm 2019 và đều đạt giá trị trên 80%. Giá trị trung bình cao nhất là vùng kinh tế Đông Nam Bộ với kết quả đạt 85,88%; tiếp theo là khu vực Đồng bằng sông Hồng, đạt 85,51%. Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là vùng kinh tế đạt giá trị thấp nhất, với kết quả là 81,41%.
Kết quả Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (Chỉ số SIPAS) năm 2020 là 85,48%. Chỉ số hài lòng của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nằm trong khoảng 75,68% - 95,76% với giá trị trung vị là 85,17%. Khoảng cách chênh lệch giữa tỉnh có chỉ số hài lòng cao nhất và tỉnh có chỉ số hài lòng thấp nhất là 20,08%.
Có 5,13% người dân, tổ chức phải đi lại nhiều lần để thực hiện dịch vụ công. Việc người dân, tổ chức phải đi lại nhiều lần xảy ra tại 63/63 tỉnh.
Có 1,23% người dân, tổ chức bị phiền hà, sách nhiễu; 0,59% người dân, tổ chức phải nộp thêm tiền ngoài phí/lệ phí - hay còn gọi là tiền "bôi trơn".
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho rằng, kết quả Chỉ số PAR INDEX và Chỉ số SIPAS cho thấy, công tác cải cách hành chính đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm, không chỉ trong năm 2020 mà cả trong suốt thời gian qua. Phó Thủ tướng ghi nhận nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai có hiệu quả công tác cải cách hành chính năm 2020, đồng thời biểu dương các bộ, địa phương đã đạt kết quả cao ở những Chỉ số đã công bố như: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, tỉnh Quảng Ninh, thành phố Hải Phòng...
Phó Thủ tướng đề nghị, người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp từ Trung ương đến địa phương tiếp tục có những biện pháp, giải pháp mới, đột phá, phù hợp để cải thiện, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công cho người dân, tổ chức. Người đứng đầu trực tiếp chịu trách nhiệm với kết quả cải cách hành chính thuộc phạm vi quản lý; nghiên cứu các giải pháp, triển khai thực hiện kiến nghị của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tại Báo cáo số 334/BC-MTTW-BTT về kết quả giám sát đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2020; tổ chức thực hiện Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 một cách toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả; lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Quang cảnh Hội nghị Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng; xã hội chủ nghĩa, khơi thông nguồn lực, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện thể chế về kinh doanh và cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển lành mạnh, giảm thiểu chi phí giao dịch phi chính thức, tăng cường công khai, minh bạch, tăng cường phòng, chống tham nhũng trong nền kinh tế.
Phó Thủ tướng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, rà soát, đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định về hoạt động kinh doanh theo quy định tại Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ; đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính theo hướng nâng cao chất lượng phục vụ, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, không gắn với địa giới hành chính, giảm thời gian đi lại, chi phí xã hội và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp theo Quyết định số 468/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ; nâng cao hơn nữa hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công các bộ, ngành, địa phương.
Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; đẩy mạnh nghiên cứu, thí điểm một số mô hình mới về thu gọn tổ chức bộ máy gắn với thực hiện chính sách tinh giản biên chế; đẩy mạnh việc rà soát, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy và kiện toàn chức năng, nhiệm vụ các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và các văn bản hướng dẫn thi hành; tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức...
Phó Thủ tướng lưu ý đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ thúc đẩy hoàn thành xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân, tổ chức.