Thứ Bảy, ngày 13 tháng 12 năm 2025

Hiệp định sơ bộ Việt Nam-Pháp 6/3/1946 - Kỳ tích khởi đầu lịch sử đấu tranh ngoại giao của nước Việt Nam mới

Lễ ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Thứ tự trong ảnh từ trái sang phải: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Minh Giám, Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Việt Nam Giăng Xanh tơ ny, Lê ông Pi nhông - Cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp và Lu-i Ca pui - Đại diện Đảng Xã hội Pháp ở Việt Nam. (Ảnh: Nguyễn Bá Khoản)

Lời Tòa soạn: Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định sơ bộ Việt Nam – Pháp (6/3/1946 – 6/3/2016), trên cơ sở hồi ký của Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám – người trợ thủ đắc lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các cuộc đàm phán của Bác Hồ với Chính phủ Pháp thời kỳ 1945-1946, Đại sứ Hoàng Vĩnh Thành (con trai cố Bộ trưởng) có bài viết nhan đề “Hiệp định sơ bộ Việt Nam – Pháp 6/3/1946 - kỳ tích khởi đầu lịch sử đấu tranh ngoại giao của nước Việt Nam mới”. Trang tin điện tử Đảng bộ TPHCM xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc:

(Thanhuytphcm.vn)- Cách đây tròn 70 năm, ngày 6/3/1946, Hiệp định sơ bộ giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cộng hòa Pháp được ký kết tại Hà Nội. Đây là một sự kiện ngoại giao có ảnh hưởng to lớn tới cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân ta trong những tháng ngày đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bối cảnh lịch sử và quá trình đàm phán

Theo thỏa thuận của nguyên thủ các nước đồng minh chống phát xít (Liên Xô, Mỹ, Anh) họp tại Postdam đầu tháng 8/1945, tháng 9/1945, 18 vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra để giải giáp quân đội phát xít Nhật vừa đầu hàng quân đồng minh. Lý do công khai là như vậy, nhưng các tướng lĩnh chỉ huy quân Tưởng và đám tay sai người Việt Nam trong Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách), Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc) như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam … không hề che dấu ý đồ thực sự của họ là “diệt Cộng, cầm Hồ” (tiêu diệt Cộng sản, bắt giữ Hồ Chí Minh) và ở lại Việt Nam vô thời hạn. Quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách đã gây ra rất nhiều khó khăn, phức tạp đối với Chính phủ và nhân dân ta trong bối cảnh nước nhà vừa mới giành lại độc lập, nền kinh tế kiệt quệ sau 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xã hội còn vô vàn khó khăn.

Ngày 23/9/1945, chưa đầy một tháng sau ngày nước ta tuyên bố độc lập, ở Sài Gòn, được sự tiếp tay, hỗ trợ của quân đội Anh đang làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào phía Nam, quân Pháp nổ súng bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược nhằm áp đặt trở lại chế độ thực dân lỗi thời lên đất nước ta. Tuy nhiên, âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của quân đội Pháp đã vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ và anh dũng của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nam bộ Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Ủy ban kháng chiến Nam bộ.

Ngày 28/2/1946, tại Trùng Khánh, Trung Quốc, đại diện chính phủ Tưởng Giới Thạch và đại diện chính phủ Pháp ký Hiệp định theo đó Pháp đồng ý trả lại cho Tưởng các tô giới ở một số tỉnh, thành phố của Trung Quốc, bán lại đường sắt ở Vân Nam. Bất chấp chủ quyền của Việt Nam, Pháp cũng thỏa thuận cho chính phủ Tưởng Giới Thạch tự do sử dụng cảng Hải Phòng, hàng hóa của Tưởng vận chuyển qua miền Bắc Việt Nam được miễn thuế. Đổi lại những nhân nhượng nói trên, phía Tưởng Giới Thạch đồng ý cho quân Pháp ra Bắc Việt Nam thay thế quân đội Tưởng giải giáp quân Nhật, trong khoảng thời gian từ 1 đến 31/3/1946. Như vậy là chính quyền Tưởng Giới Thạch và Pháp đã thỏa hiệp với nhau trên lưng nhân dân Việt Nam.

Ngày 1/3/1946, hạm đội Pháp nhổ neo rời Sài Gòn ra Hải Phòng. Đồng thời, tướng Lơcléc, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cũng chỉ thị cho phái bộ Xanh tơ ny ở Hà Nội cố gắng đạt được thỏa thuận với Chính phủ Việt Nam để quân Pháp có thể an toàn ra miền Bắc mà không vấp phải sự kháng cự, chống đối nào từ phía Việt Nam như họ đã và đang vấp phải ở miền Nam Việt Nam.

Tháng 1/1946, Chính phủ ta nhận được tin đại diện của Pháp và chính quyền Tưởng Giới Thạch đang mặc cả với nhau ở Trùng Khánh, Trung Quốc. Thời gian đó Hồ Chủ tịch và Xanh tơ ny cũng bắt đầu các cuộc đàm phán bí mật tại 38 Lý Thái Tổ (nay là Cung Thiếu nhi Hà Nội). Giúp việc Hồ Chủ tịch trong các cuộc đàm phán là Giáo sư Hoàng Minh Giám, Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ. Giúp việc cho Xanh Tơ ny là Lê ông Pi nhông (Leon Pignon), Cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Bảo vệ an ninh, an toàn cho các cuộc đàm phán do lực lượng Công an Việt Nam đảm nhiệm.

Ngay từ tháng 11/1945, trong bản Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, Trung ương Đảng ta đã nhận định sớm muộn bọn đế quốc sẽ nhân nhượng với nhau để cho Pháp trở lại Việt Nam. Nhận định này cũng đã được nêu ra tại Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào, trước ngày Cách mạng Tháng Tám thành công. Lập trường của Hồ Chủ tịch và Thường vụ Trung ương Đảng lúc này là nếu Pháp cho Đông Dương tự trị theo tuyên bố Bradavin ngày 24/3/1945 của Đờ Gôn thì ta kiên quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ thì có thể hòa để phá tan âm mưu của “bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp còn lại”.

Ngày 5/3/1946, hạm đội Pháp do tướng Lơcléc chỉ huy tới Vịnh Bắc Bộ. Viện cớ Hiệp định Trùng Khánh là do Bộ Ngoại giao Tưởng Giới Thạch ký với Pháp, nhưng quân Tưởng ở Bắc Việt Nam vẫn chưa nhận được lệnh từ Bộ Tổng tham mưu ở Trùng Khánh, Bộ Tư lệnh quân Tưởng ở Bắc Việt Nam không đồng ý cho quân Pháp ra Bắc Việt Nam và nói rõ nếu quân Pháp cứ đổ bộ lên Hải Phòng thì quân Tưởng sẽ nổ súng. Thực chất đám tướng lĩnh Tưởng muốn kéo dài thời gian ở lại Việt Nam để tiếp tục vơ vét của cải, làm giàu.

Sáng sớm 6/3/1946, hạm đội Pháp từ Vịnh Bắc bộ tiến vào cảng Hải Phòng. Quân Tưởng ở dọc sông Cửa Cấm đã nổ súng vào tàu chiến Pháp. Quân Pháp bắn trả làm nổ tung kho đạn của quân Tưởng ở Cảng Hải Phòng. Cuộc đấu súng giữa hai bên kéo dài tới trưa ngày 6/3/1946. Nhiều binh lính của Pháp và Tưởng bị thương vong, nhiều tàu Pháp bị trúng đạn. Ban đầu, quân Tưởng và đám tay sai của họ định lợi dụng việc quân Pháp ra miền Bắc Việt Nam để kích động xung đột giữa ta và Pháp. Nhưng điều trớ trêu là kẻ đầu tiên nổ súng vào quân Pháp lại là quân Tưởng và lúc này kẻ mong muốn phía ta và Pháp sớm đạt thỏa thuận lại chính là đám tướng lĩnh chỉ huy quân Tưởng. Đêm 5/3/1946 và sáng 6/3/1946, các tướng lĩnh Tưởng nhiều lần đề nghị Chính phủ ta nên sớm đạt thỏa thuận với phía Pháp để tránh chiến tranh mở rộng.

Cho tới 1 giờ sáng ngày 6/3/1946, cuộc đàm phán giữa Hồ Chủ tịch và Xanh tơ ny vẫn còn có bế tắc lớn về vấn đề độc lập của Việt Nam. Ta kiên quyết không chấp nhận chữ tự trị do phía Pháp nêu ra, nhưng chính phủ Pháp chưa chịu chấp nhận chữ độc lập. Sáng ngày 6/3/1946, trong giờ phút quyết định, Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí với đề nghị của Hồ Chủ tịch cách giải quyết bế tắc trong đàm phán, đó là: “Nước Pháp công nhận nước Việt Nam là một quốc gia tự do ...” với một định nghĩa của từ “tự do”. 12 giờ trưa ngày 6/3/1946, Hồ Chủ tịch và Xanh tơ ny họp lại. Phía Pháp đồng ý với đề nghị trên của ta và hai bên thông qua dự thảo Hiệp định do Thứ trưởng Nội vụ Hoàng Minh Giám và Lê-ông Pi- nhông, Cố vấn chính trị của Cao ủy Pháp chuẩn bị. 16 giờ 30 ngày 6/3/1946, lễ ký kết Hiệp định sơ bộ giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Pháp được tổ chức tại 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội. Tham dự lễ ký còn có các nhà ngoại giao của Mỹ, Anh, Tưởng Giới Thạch và Lu-i Ca pui (Louis Caput), đại diện Đảng Xã hội Pháp ở Việt Nam. Sau khi Thứ trưởng Bộ Nội vụ Hoàng Minh Giám đọc to nội dung bản Hiệp định và các phụ khoản kèm theo, Hồ Chủ tịch với tư cách là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhìn lướt các điều khoản của Hiệp định và đặt bút ký. Tiếp đó, Người chuyển văn bản Hiệp định cho Vũ Hồng Khanh ký với danh nghĩa đại diện đặc biệt của Hội đồng Chính phủ (do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam không chịu ký). Người ký cuối cùng là Xanh tơ ny.

Các thành viên tham gia Lễ ký Hiệp định chụp ảnh sau khi Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 được ký kết tại 38 Lý Thái Tổ, Hà Nội. (Ảnh: Nguyễn Bá Khoản).

Hiệp định sơ bộ Việt Nam - Pháp 6/3/1946 với những điều khoản có lợi nhất cho Việt Nam

Hiệp định gồm 5 nội dung chính:

1/ Nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính của mình, ở trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp.

2/ Chính phủ Pháp cam kết sẽ thừa nhận những quyết định của cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề thống nhất ba kỳ.

3/ Nước Việt Nam thuận để 15.000 quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam làm nhiệm vụ thay thế quân đội Trung Hoa giải giáp quân Nhật. Số quân Pháp này sẽ phải rút hết trong thời hạn 5 năm, mỗi năm sẽ rút 1/5.

4/ Hai bên đình chiến để mở một cuộc đàm phán chính thức. Trong khi đàm phán, quân hai bên ở đâu vẫn cứ đóng ở đấy.

5/ Cuộc đàm phán chính thức sẽ tiến hành tại Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris với nội dung: quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài, quy chế của Đông Dương, những quyền lợi kinh tế và văn hóa của nước Pháp ở Việt Nam.

Kèm theo Hiệp định là các phụ khoản.

Sau lễ ký kết Hiệp định, Xanh tơ ny nâng cốc chúc mừng Hồ Chủ tịch, ngỏ ý vui mừng vì bóng ma của một cuộc xung đột vũ trang đã bị đẩy lùi. Hồ Chủ tịch bình tĩnh trả lời: “Cảm ơn ông. Nhưng thực ra, tôi chưa vừa lòng. Ông biết đấy, tôi muốn nhiều hơn, tôi muốn nước tôi độc lập, và chắc chắn nước tôi sẽ được độc lập”.(1)

Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là bản điều ước quốc tế song phương đầu tiên mà Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký kết với nước ngoài. Cuối thế kỷ 19, bằng hai Hòa ước Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884) ký với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp đã áp đặt ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân lên đất nước ta, mọi quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, kể cả quyền ngoại giao bị tước đoạt. Hơn sáu mươi năm sau, ngày 6/3/1946, trước ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc, sức đấu tranh quật cường, anh dũng của toàn thể dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính phủ Pháp đã buộc phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, phải chấp nhận những điều mà thâm tâm họ không mong muốn.

Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, đã tạo nên sự thay đổi so sánh lực lượng quan trọng giữa ta và đối phương theo hướng có lợi cho ta. Với việc ký Hiệp định sơ bộ, Hồ Chủ tịch và Chính phủ ta đã biến điều khoản thay quân trong Hiệp định song phương Trùng Khánh giữa Pháp và Tưởng Giới Thạch thành thỏa thuận ba bên, gạt nhanh và không tốn sức 18 vạn quân Tưởng cùng bè lũ tay sai của chúng ra khỏi Việt Nam, tránh cho nhân dân ta phải cùng một lúc chống hai kẻ thù hung ác. Hiệp định cũng thể hiện chủ quyền của ta với việc quy định rõ nước Pháp chỉ được đưa ra Bắc Việt Nam 15.000 quân thay thế quân Tưởng và phải rút hết trong vòng 5 năm. Vào thời điểm này ở miền Nam Việt Nam, quân Pháp có hai sư đoàn bộ binh thuộc địa số 3 và số 9 và một binh đoàn thiết giáp. Việc phải đưa sư đoàn bộ binh thuộc địa số 9 và binh đoàn tăng thiết giáp ra Bắc Việt Nam đã tạm thời làm mỏng bớt lực lượng quân sự của Pháp ở Nam bộ, tạo điều kiện cho quân và dân miền Nam có thêm điều kiện để củng cố, tăng cường lực lượng tiếp tục kháng chiến. Có thể nói, căn cứ vào tương quan lực lượng giữa ta và đối phương lúc bấy giờ, Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 đã chứa đựng những điều khoản có lợi nhất cho phía Việt Nam.

Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 mở đầu thời kỳ tạm hòa hoãn giữa ta và Pháp. Sau ngày ký Hiệp định sơ bộ, Hồ Chủ tịch và các vị lãnh đạo Việt Nam tiến hành nhiều hoạt động ngoại giao quan trọng với chính phủ Pháp trong năm 1946 cho tới trước ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 để yêu cầu phía Pháp thi hành nghiêm túc các điều khoản của Hiệp định. Các hoạt động ngoại giao nói trên đã khẳng định và nêu bật lập trường chính nghĩa, thiện chí mong muốn hòa bình, hữu nghị của Chính phủ và nhân dân ta, đồng thời vạch trần dã tâm xâm lược, bản chất lật lọng, hiếu chiến lỗi thời của chính quyền thực dân Pháp. Với Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Chính phủ và nhân dân ta có thêm một thời gian rất cần thiết để củng cố, tăng cường lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp, điều mà Đảng và Hồ Chủ tịch biết chắc là không tránh khỏi.

Lịch sử hơn 70 năm của nền Ngoại giao cách mạng Việt Nam được đánh dấu bằng những cột mốc bằng vàng như Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về đình chỉ chiến sự lập lại hòa bình ở Đông Dương, Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Lịch sử cũng sẽ mãi ghi nhớ bản Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 giữa Việt Nam và Pháp như một kỳ tích khởi đầu quá trình phát triển của nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng vững vàng, tầm nhìn chiến lược, nghệ thuật đàm phán có nguyên tắc và sách lược linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng ta trong những tháng ngày đầu tiên đầy khó khăn, gian khổ của chính quyền cách mạng, vừa phải chống cả thù trong lẫn giặc ngoài để giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ những thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 cũng để lại cho chúng ta những bài học sâu sắc về những vấn đề chiến lược, sách lược như nhân nhượng có nguyên tắc, giành thắng lợi từng bước, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và tận dụng đúng thời cơ.

-------------------------------------------------------------------

(1) Hoàng Minh Giám con người và lịch sử, NXB Lao động, Hà Nội, 1995, trang 192.

Đại sứ Hoàng Vĩnh Thành

Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo