Thứ Hai, ngày 2 tháng 6 năm 2025

Đồng chí Võ Văn Kiệt: “Kiến trúc sư” hàng đầu của công cuộc đổi mới đất nước

Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt cùng các thanh niên xung phong năm 1977. Nguồn: Ảnh tư liệu

(Thanhuytphcm.vn) - Đồng chí Võ Văn Kiệt sinh ngày 23 tháng 11 năm 1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, trong gia đình nông dân nghèo, đông con, gồm sáu trai, hai gái; thân phụ là cụ Phan Văn Đức (1880 - 1947), thân mẫu là cụ Võ Thị Quế (1882 - 1938). Ông là con út trong tám anh chị em nên thường gọi là Út Hòa hoặc Chín Hòa theo lối Nam Bộ.

Sinh ra trong gia đình nông dân nghèo, lại rất đông con, nên khi được 8 tháng tuổi, ông được cho làm con nuôi gia đình chú họ không có con tên là Phan Văn Chi. Năm 1935, ở tuổi 13, ông phải đi ở đợ cho một điền chủ lớn trong vùng là cụ Hộ Ba Võ Ngọc Lung, người địa phương. Giống như những người cùng trang lứa, tuổi thơ cơ cực và lam lũ, ông không được học hành đến nơi đến chốn. Mặc dù tư chất rất thông minh, hai lần được đi học nhưng cũng đều bỏ học giữa chừng, vì vậy trình độ học vấn ông tự khai mình chỉ “đọc thông viết thạo”.

Phan Văn Hòa lớn lên trong phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ dâng cao trong cả nước (1936 - 1939). Ở ngay quê hương ông, xã Trung Lương (nay là Trung Hiệp) các tổ chức cách mạng của Đảng đã ra đời, như Mặt trận Dân chủ, Hội Phụ nữ Dân chủ, Đoàn Thanh niên Dân chủ và hoạt động rất sôi nổi. Ngày 15 tháng 4 năm 1938, Chi bộ cộng sản Đông Dương xã Trung Hiệp chính thức ra đời.

Cuối năm 1938, người mẹ thân yêu của ông qua đời. Trong những ngày chịu tang mẹ, ông gặp lại người thầy dạy chữ Hà Văn Út - lúc này là một cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Được thầy Út tuyên truyền, dìu dắt, giúp đỡ, Chín Hòa giác ngộ đi theo con đường cách mạng của Đảng khi tuổi đời còn rất trẻ (16 tuổi). Nhân kỷ niệm 150 năm quốc khánh Cộng hòa Pháp, ngày 14 tháng 7 năm 1939, Huyện ủy Vũng Liêm tổ chức cuộc biểu tình lớn với sự tham gia của đông đảo nhân dân địa phương. Là người đi đầu trong cuộc tuần hành về trung tâm quận lỵ, ông bị mật thám Pháp bắt giam hai tháng.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong ngày hoàn thành đường dây tải điện 500KV Bắc – Nam. Nguồn: Ảnh tư liệu Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong ngày hoàn thành đường dây tải điện 500KV Bắc – Nam. Nguồn: Ảnh tư liệu

Được đích thân đồng chí Tạ Uyên - Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang (sau này là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ) trực tiếp giới thiệu, tháng 11 năm 1939, đồng chí Phan Văn Hòa được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 17 tuổi. Chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vũng Liêm, khi bước vào tuổi 18, ông được cử làm Huyện ủy viên Huyện ủy Vũng Liêm kiêm Bí thư Chi bộ xã Trung Hiệp.

Ngày 23 tháng 11 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ ở nhiều tỉnh Tây Nam Bộ, trong đó có Vĩnh Long. Là người trẻ nhất tham gia lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vũng Liêm, đồng chí Phan Văn Hòa được phân công chỉ huy lực lượng vũ trang đánh đồn Nước Xoáy để tiến về cướp chính quyền ở Long Hồ và thị xã Vĩnh Long. Nhưng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ do Xứ ủy lãnh đạo đã bị địch đàn áp tàn bạo, dìm trong bể máu và thất bại nhanh chóng.

Được sự phân công của tổ chức, từ Vũng Liêm, đồng chí về căn cứ U Minh thuộc Rạch Giá - Kiên Giang công tác. Từ đây ông ly hương, trở thành nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp với tư cách là cán bộ của Liên Tỉnh ủy miền Tây, phụ trách bảo vệ căn cứ U Minh trong nhiều năm liền. Tháng 7 năm 1941, ông được chỉ định bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời tỉnh Rạch Giá vừa tái lập, phụ trách khu vực căn cứ U Minh. Trong thời gian hoạt động gian khổ ở đây thời tiền khởi nghĩa, sách Tiểu sử Võ Văn Kiệt đánh giá: “Là cán bộ được điều động về Rạch Giá, lúc đầu phụ trách xây dựng lực lượng và bảo vệ an toàn căn cứ U Minh - Cơ quan của Tỉnh ủy lâm thời và Liên Tỉnh ủy, đồng chí Võ Văn Kiệt đã vận động, gây dựng lực lượng, cơ sở vật chất, để biến một vùng rừng U Minh trở thành căn cứ, huấn luyện cán bộ, du kích; căn cứ hậu cần, sản xuất vũ khí, đạn dược… Phục vụ cho phong trào cách mạng của nhiều tỉnh thuộc Liên Tỉnh ủy Cần Thơ, sau đó là Hậu Giang và một số tỉnh miền Tây Nam Bộ. Chính từ kinh nghiệm của việc xây dựng căn cứ địa trong rừng U Minh thời kỳ tiền khởi nghĩa, Đảng ta tiếp tục chỉ đạo xây dựng cơ sở cách mạng, căn cứ địa tại U Minh thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần đưa hai cuộc kháng chiến đến thắng lợi”.[1]

Trong cao trào cách mạng 1941 - 1945, trên cương vị Tỉnh ủy viên phụ trách xây dựng căn cứ và lực lượng cách mạng, đồng chí Võ Văn Kiệt đã góp phần quan trọng và trực tiếp tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tỉnh Rạch Giá thành công ngày 28 tháng 8 năm 1945.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công trên cả nước. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nhưng ngay lập tức thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, bắt đầu từ Sài Gòn - Gia Định, chúng đánh lan ra các tỉnh Đông Nam Bộ rồi Tây Nam Bộ. Ngày 20 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược.

Chiều 20/5/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đến thăm trạm biến áp Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh), trạm cuối cùng của tuyến đường dây 500 KV Bắc-Nam. Nguồn: Ảnh tư liệu Chiều 20/5/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đến thăm trạm biến áp Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh), trạm cuối cùng của tuyến đường dây 500 KV Bắc-Nam. Nguồn: Ảnh tư liệu

Khi quân Pháp đánh xuống các tỉnh miền Tây Nam Bộ, trong đó có Rạch Giá, trên cương vị Tỉnh ủy viên, kiêm Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng của Liên Tỉnh ủy Tây Nam Bộ, đồng chí Võ Văn Kiệt đã tổ chức, chỉ huy lực lượng vũ trang trong tỉnh phối hợp với bộ đội chủ lực chiến đấu chống giặc, sau đó phân tán thực hành chiến tranh du kích tại địa phương. Từ tháng 1 năm 1947 đến tháng 6 năm 1947, đồng chí được Tỉnh ủy điều động về làm Bí thư Quận ủy Phước Long - một địa bàn trọng điểm của tỉnh.

Tháng 6 năm 1947, đồng chí được chỉ định làm Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá phụ trách công tác tổ chức một thời gian ngắn, rồi được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Rạch Giá, trở thành người lãnh đạo chủ chốt của tỉnh. Tháng 8 năm 1947, Tỉnh ủy Rạch Giá tổ chức Đại hội để bầu đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư Tỉnh ủy mới thay đồng chí Ngô Tám chuyển công tác. Đồng chí đã tự nhận mình học hành không được bao nhiêu, lại còn trẻ, lãnh trách nhiệm quá lớn sẽ khó khăn cho tập thể và công việc chung, đồng thời kiên quyết giới thiệu đồng chí Nguyễn Thành Nhơn lúc này đang là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Rạch Giá làm Bí thư Tỉnh ủy và đã được Đại hội chấp thuận. Chỉ một điều này thôi đã toát lên nhân cách cộng sản cao đẹp của đồng chí Võ Văn Kiệt khi tuổi đời còn rất trẻ.

Giữa năm 1949, Xứ ủy Nam Bộ có những điều chỉnh về địa giới hành chính và bố trí lại nhân sự, đồng chí Võ Văn Kiệt được điều động về làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu và công tác ở đây cho đến khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi.

Năm 1950, đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu là đại biểu chính thức của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đi dự Đại hội II của Đảng tại Chiến khu Việt Bắc. Qua ngã Campuchia đi Trung Quốc rồi vượt biên giới về Cao Bằng, tháng 10 năm 1950, đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đã có mặt ở Chiêm Hóa - Tuyên Quang. Từ ngày 11 đến 19 tháng 12 năm 1951, ông tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng trong rừng sâu Việt Bắc. Tại Đại hội, ông cảm nhận sâu sắc cách điều hành dân chủ, rất thuyết phục của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc để các đại biểu thảo luận, thông qua Điều lệ mới, Cương lĩnh mới, đường lối kháng chiến kiến quốc và đặc biệt là việc đổi tên Đảng từ Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam.

Sau Đại hội, ông được Trung ương giữ lại Việt Bắc để tham gia khóa III của Trường Nguyễn Ái Quốc - khóa Hoa Nam - trong vòng 6 tháng và được cử đi thực tế ở một số địa phương trong Chiến khu Việt Bắc. Cùng thời gian này, Trung ương dự kiến đưa ông sang Trung Quốc đào tạo dài hạn, nhưng ông đã xin Bác Hồ và Trung ương cho trở về Nam Bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân Bạc Liêu kháng chiến cho đến ngày thắng lợi.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau. Đồng chí Võ Văn Kiệt trên cương vị là Phó Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu kiêm Chính trị viên Tỉnh đội đã cùng đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Ung Văn Khiêm sắp xếp lại tổ chức để bí mật hoạt động lâu dài và bố trí cán bộ, chiến sĩ tập kết ra Bắc. Khi đồng chí Ung Văn Khiêm đi tập kết thì đồng chí Võ Văn Kiệt được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy.

Theo yêu cầu của Trung ương, Trung ương Cục giải thể để thành lập Xứ ủy Nam Bộ. Tại Hội nghị thành lập Xứ ủy tháng 10 năm 1954, đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên dự khuyết Xứ ủy và được Xứ ủy phân công làm Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy miền Tây.

Trước sự đàn áp khốc liệt của chính quyền Ngô Đình Diệm, đồng chí Võ Văn Kiệt cùng Liên Tỉnh ủy miền Tây lãnh đạo hệ thống tổ chức Đảng giữ gìn lực lượng, diệt ác trừ gian, bảo vệ nhân dân, bảo vệ cách mạng. Đồng chí đã trực tiếp tổ chức lực lượng bảo vệ Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn, giúp đồng chí Lê Duẩn khởi thảo Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam, tổ chức đường dây giao liên bí mật đưa đồng chí Bí thư Xứ ủy từ Cà Mau đi Bến Tre để về Sài Gòn - Chợ Lớn.

Nhận rõ những phẩm chất đặc biệt trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, cuối năm 1959, đồng chí Võ Văn Kiệt được Xứ ủy Nam Bộ điều động về làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhận nhiệm vụ mới, sau khi nghiên cứu kỹ địa bàn, đồng chí đã đề xuất sáp nhập hai Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Đảng bộ tỉnh Gia Định thành Khu bộ Sài Gòn - Gia Định mang mật danh T4 và đã được Xứ ủy chấp nhận.

Tháng 9 năm 1960, Đại hội III của Đảng đã diễn ra tại Hà Nội. Đồng chí Võ Văn Kiệt đã được Đại hội bầu vắng mặt làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khi mới 38 tuổi. Đầu năm 1961, thực hiện sự điều chuyển về tổ chức của Trung ương, Xứ ủy giải thể để thành lập Trung ương Cục do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư. Đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Trung ương Cục và trực tiếp lãnh đạo Khu ủy Sài Gòn - Gia Định.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ngày 25 tháng 10 năm 1967, Trung ương Cục quyết định giải thể Khu ủy Đông Nam Bộ và Khu Sài Gòn - Gia Định để thành lập Khu Trọng điểm gồm Sài Gòn - Gia Định và một số vùng phụ cận. Đồng chí Võ Văn Kiệt được chỉ định làm Phó Bí thư Khu ủy kiêm Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Khu, trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn. Khi cuộc Tổng tiến công nổ ra, đồng chí Võ Văn Kiệt lãnh đạo Đảng ủy Tiền phương, trực tiếp làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy Tiền phương 2 đánh vào Sài Gòn.

Sau ba đợt Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, địa bàn Khu 9 gặp rất nhiều khó khăn, bị địch đánh phá ác liệt. Nhằm tăng cường sức lãnh đạo cho Khu 9, sau Hội nghị lần thứ 9 Trung ương Cục miền Nam diễn ra vào tháng 7 năm 1969, đồng chí Võ Văn Kiệt được điều động về làm Bí thư Khu 9, kiêm Bí thư Đảng ủy Quân khu, Chính ủy Quân khu 9 từ cuối năm 1970 đầu năm 1971. Như vậy sau 10 năm liền lãnh đạo chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, đồng chí trở lại Tây Nam Bộ công tác. Lúc này Bộ Chỉ huy miền Nam cũng quyết định điều Đại tá Lê Đức Anh, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam về làm Tư lệnh Quân khu 9.

Trong năm 1970, tại Hà Nội, đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên chính thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Gần 4 năm lãnh đạo các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chiến đấu, tháng 11 năm 1973, đồng chí Võ Văn Kiệt - Thường vụ Trung ương Cục, Bí thư Khu ủy Khu 9 được điều động trở lại Trung ương Cục phụ trách khối dân vận - binh vận - mặt trận. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí được phân công công tác tiếp quản thành phố trên cương vị Bí thư Đảng ủy đặc biệt kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban quân quản Thành phố Sài Gòn - Gia Định.

Tháng 8 năm 1975, Ủy ban quân quản kết thúc nhiệm vụ, đồng chí Võ Văn Kiệt được Bộ Chính trị chỉ định làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Trung ương Cục miền Nam được giải thể, cho nên tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị phân công đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư Thành ủy, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Phó Bí thư. Tháng 1 năm 1976, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định bổ nhiệm đồng chí làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Thành phố Sài Gòn - Gia Định.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tháng 12 năm 1976, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và được Trung ương bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, được Bộ Chính trị phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh thay đồng chí Nguyễn Văn Linh ra Trung ương công tác. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ I, tháng 4 năm 1977 và lần thứ II, tháng 10 năm 1980, trên cương vị Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, đồng chí được Đại hội bầu làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và giữ cương vị này hơn 5 năm.

Tại các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm 1982), VI (tháng 12 năm 1986), VII (tháng 6 năm 1991), VIII (tháng 6 năm 1996), đồng chí Võ Văn Kiệt đều được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương và được Trung ương bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại khóa VIII, đồng chí được cử làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.

Tháng 3 năm 1982, đồng chí Võ Văn Kiệt được điều động ra Hà Nội nhận công tác mới. Ngày 23 tháng 4 năm 1982, đồng chí được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1988, đồng chí được Hội đồng nhà nước cử làm Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thay đồng chí Phạm Hùng qua đời ngày 10 tháng 3 năm 1988. Ngày 22 tháng 6 năm 1988, đồng chí được kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa VIII bầu làm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng.

Tháng 8 năm 1991, đồng chí được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thay đồng chí Đỗ Mười vừa được Đại hội VII bầu làm Tổng Bí thư. Như vậy, từ tháng 4 năm 1982 đến tháng 8 năm 1991, đồng chí có tới gần 10 năm liên tục giữ chức vụ Phó Chủ tịch rồi Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, góp phần quan trọng vào công tác điều hành của Chính phủ, vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Tháng 10 năm 1992, thực hiện Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới đất nước, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, đồng chí Võ Văn Kiệt được Quốc hội bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1992 - 1997, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh.

Để chuẩn bị cho thế hệ lãnh đạo kế tiếp, tháng 12 năm 1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt xin thôi nhiệm và được Hội nghị suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương và đến Đại hội IX, tháng 4 năm 2001, kết thúc nhiệm vụ cố vấn.

Đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VI, khóa VII và khóa VIII.

Qua từng giai đoạn, từng cương vị công tác, đồng chí Võ Văn Kiệt luôn để lại những dấu ấn đáng nhớ. Trong những năm tháng khó khăn sau ngày giải phóng, đảm đương cương vị cao nhất của Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt đã vững “tay lái, tay chèo”, trăn trở, tìm tòi các biện pháp tháo gỡ để ổn định Thành phố về mọi mặt: Những năm 1978 - 1979 giải quyết nhanh vấn đề thiếu lương thực nghiêm trọng của Thành phố; những năm 1980 - 1981 đã lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh vượt qua lối mòn tư duy cũ, đi sâu tìm hiểu và đề ra những biện pháp sáng tạo để tháo gỡ khó khăn cho các xí nghiệp quốc doanh của Thành phố, để sức sản xuất của Thành phố “bung ra”. Trên cương vị Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đồng chí quán triệt sâu sắc quan điểm lý luận và thực tiễn phải ở trong một thể thống nhất, gắn bó, luôn tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau cùng phát triển, nhưng thực tiễn phải là cơ sở. Theo đồng chí Võ Văn Kiệt: “Tổ chức thực hiện là khâu mang ý nghĩa then chốt có tác dụng quyết định và cũng là khâu yếu trong các chương trình, dự án lớn”. Tại Đại hội VI của Đảng, với kiến thức, kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn, đồng chí Võ Văn Kiệt đã đóng góp nhiều ý tưởng, quan điểm đổi mới, thể hiện trong thực tiễn chỉ đạo của đồng chí trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Những ý tưởng, quan điểm đó đã góp phần hình thành quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, được Đại hội thông qua, mở ra một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của đất nước.

Ngày 11 tháng 6 năm 2008, đồng chí Võ Văn Kiệt qua đời, để lại niềm tiếc thương vô hạn và nỗi đau buồn khôn xiết của đồng bào, đồng chí và nhân dân cả nước. Với 86 tuổi đời, 69 năm tuổi Đảng, gần 70 năm cống hiến không ngừng nghỉ cho độc lập dân tộc, tự do và thống nhất Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự hùng cường của đất nước, một trái tim đã ngừng đập, một nhân cách lớn ra đi. Thành phố Hồ Chí Minh thân yêu là nơi an nghỉ cuối cùng của ông.

Đồng chí Phạm Văn Đồng đã từng đánh giá về đồng chí Võ Văn Kiệt: “Trong các đời Thủ tướng thì Võ Văn Kiệt - Sáu Dân là người làm được nhiều việc lớn nhất cho dân, cho nước”.

Tại lễ tang trọng thể của đồng chí Sáu Dân, trong lời điếu, Ban Chấp hành Trung ương đánh giá: “Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng, ở mỗi giai đoạn đầy khó khăn, thử thách, đồng chí luôn nêu cao tính tiên phong gương mẫu và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng, thương yêu đồng bào, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Trong công việc chung, đồng chí là một cán bộ lãnh đạo trung thành, tận tụy, bản lĩnh, sáng tạo, gắn kết ý chí với hành động, được đồng chí, đồng bào quý trọng, bạn bè quốc tế mến yêu. Trong gia đình, đồng chí là người chồng, người cha, người ông mẫu mực, giàu đức hy sinh và lòng nhân ái”.[2]

Ghi nhận những cống hiến của đồng chí, Đảng và Nhà nước đã trân trọng trao tặng đồng chí: Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương, huy chương cao quý khác.

Sau khi đồng chí qua đời, tại quê hương Vĩnh Long của đồng chí Võ Văn Kiệt, thành phố Vĩnh Long có con đường đẹp mang tên Võ Văn Kiệt, huyện Vũng Liêm có một trường phổ thông trung học vinh dự được đặt là Trường Võ Văn Kiệt.

Ở Thủ đô Hà Nội, con đường lớn nối Hà Nội với sân bay quốc tế Nội Bài, bắt đầu từ cầu Thăng Long được vinh dự mang tên Võ Văn Kiệt. Khi lãnh đạo Chính phủ, đồng chí là người trực tiếp chỉ đạo xây dựng con đường quan trọng này ở phía Bắc Thủ đô.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí là người lãnh đạo suốt những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, và là người lãnh đạo cao nhất của Thành phố 8 năm sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, và sau khi qua đời cũng nằm lại ở mảnh đất này. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố luôn giành cho đồng chí những tình cảm đặc biệt, sự yêu thương và kính trọng vô bờ bến. Con đường to, đẹp xuyên Đông Tây qua trung tâm Thành phố và một số trường học được vinh dự mang tên Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM 

---------

[1]  Võ Văn Kiệt tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 82.

[2]  Võ Văn Kiệt - Một nhân cách lớn, nhà lãnh đạo tài năng suốt đời vì nước vì dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 23.


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo