Mùa hè năm 1927, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai là người đầu tiên trong giới phụ nữ ở thành phố Vinh - Bến Thủy được kết nạp vào Hội Hưng Nam (sau đổi tên thành Tân Việt Cách mạng đảng) và được bầu vào Ban Chấp hành đại tổ (tức cấp thành bộ) Hội Hưng Nam, phụ trách công tác vận động phụ nữ[2]. Năm 1929, chị thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng bí mật[3].
Từ Đảng Tân Việt, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương, phụ trách tuyên truyền, huấn luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy và những làng lân cận. Ở nhà máy, đồng chí hòa mình trong phong trào công nhân, được công nhân yêu mến, tin cậy, do đó cơ sở đảng được xây dựng, phong trào đấu tranh phát triển.
Thẻ đại biểu của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tham dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ 7 năm 1935 (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh) Mùa hè năm 1930, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai được lệnh ra hoạt động ở Hải Phòng rồi từ đó được Đảng cử sang Hương Cảng làm việc tại Văn phòng Phương Nam của Bộ Phương Đông - Quốc tế Cộng sản. Tại đây, đồng chí được đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp huấn luyện về lý luận cách mạng. Đồng chí làm liên lạc giữa Thị ủy Hương Cảng của Đảng Cộng sản Trung Quốc với các tổ chức cách mạng Việt Nam, ở giữa mạng lưới dày đặc cảnh sát và mật thám của thực dân Anh. Trong thời gian ở Hương Cảng, đồng chí lấy bí danh là Cô Duy, Trần Thái Lan, Lý Huệ Phương…
Năm 1931, đồng chí bị thực dân Anh cấu kết với thực dân Pháp và chính quyền phản động ở Quảng Châu bắt giam. Mặc dù bị tra tấn, đánh đập đồng chí không hề bị khuất phục. Nhờ sự can thiệp của Quốc tế Đỏ, năm 1933 đồng chí được trả tự do. Ra tù, đồng chí đổi tên là Thị Vai, tìm đến Thượng Hải bắt liên lạc với đồng chí Lê Hồng Phong và hoạt động trong Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước.
Bàn làm việc của đồng chí Minh Khai, Bí thư Thành ủy Sài Gòn-Chợ Lớn năm 1936 (Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) Đầu năm 1935, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cùng chồng là đồng chí Lê Hồng Phong được cử đi dự Đại hội lần thứ bảy Quốc tế Cộng sản tại Moscow. Lần đầu tiên, với tên là Phan Lan, đồng chí đã đọc tham luận dõng dạc lên án chính sách xâm lược của thực dân Pháp, tố cáo tội ác dã man của chúng, nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng của phụ nữ Đông Dương và phụ nữ Việt Nam. Sau Đại hội, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai ở lại học tại Trường Đại học Phương Đông.
Vượt qua mạng lưới mật thám dày đặc của bọn đế quốc, đầu năm 1937 đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai về đến Sài Gòn và được Trung ương Đảng phân công đến làm việc tại cơ quan Xứ ủy Nam Kỳ. Thời gian này, đồng chí viết nhiều bài đăng trên báo Dân chúng, kêu gọi chị em phụ nữ Việt Nam noi gương phụ nữ Liên Xô hăng hái hơn nữa trong các phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột. Lời kêu gọi ấy đã cổ vũ chị em phụ nữ hưởng ứng tích cực các cuộc đấu tranh do Đảng ta lãnh đạo.
Nhà lưu niệm Nguyễn Thị Minh Khai tọa lạc tại đường Quang Trung, thành phố Vinh. (Nguồn: Ảnh tư liệu) Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương. Trung ương Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật và tập trung lực lượng chống chiến tranh đế quốc, giành độc lập dân tộc. Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai được Xứ ủy Nam Kỳ chỉ định làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Trong điều kiện khó khăn, đồng chí luôn bám sát cơ sở hoạt động và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh lớn, đồng chí đã bí mật vào xưởng đóng tàu Ba Son, Công ty hỏa xa Sài Gòn, về Hóc Môn, Gia Định kiểm tra tình hình và chỉ đạo phong trào đấu tranh của công nhân và phụ nữ.
Thời gian này đồng chí Lê Hồng Phong, người chồng, người đồng chí của đồng chí Minh Khai cũng đã về Sài Gòn hoạt động và đến ngày 29 tháng 9 năm 1939 thì đồng chí Lê Hồng Phong bị giặc Pháp bắt giam.
Mùa xuân năm 1940, chỉ vài ngày sau khi sinh đứa con đầu lòng và duy nhất, đồng chí Minh Khai đã phải xa con, tiếp tục công tác cách mạng. Lúc này, Nhật nhảy vào Đông Dương, một phong trào đấu tranh dâng lên sôi sục ở Sài Gòn - Gia Định và các vùng nông thôn Nam Bộ. Xứ ủy Nam Kỳ họp hội nghị nhận định tình hình và đề ra chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền. Sau hội nghị, cơ sở Đảng ở ngã sáu Bình Đông bị lộ. Ngày 30 tháng 7 năm 1940, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị sa vào tay giặc Pháp, giam tại bót Catinat. Chúng đưa đồng chí Lê Hồng Phong về nhận mặt chị để hòng có chứng cứ kết án xử tử hình cả hai người về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Nhưng chúng đã thất bại vì hai chiến sĩ dũng cảm của nhân dân ta không nhận một điều gì kể cả mối quan hệ vợ chồng với nhau. Tra khảo không được, giặc Pháp đưa đồng chí vào giam ở Khám Lớn Sài Gòn.
Sau 8 tháng giam cầm, tra tấn và dụ dỗ, ngày 21 tháng 1 năm 1941, thực dân Pháp đưa đồng chí Minh Khai ra tòa án và kết án 5 năm tù khổ sai, 20 năm biệt xứ. Ngày 11 tháng 3 năm 1941, Tòa án thượng thẩm Sài Gòn của địch lại nâng án lên 5 năm tù khổ sai, 20 năm biệt xứ, 20 năm mất quyền công dân và phạt 1.100 đồng bạc Đông Dương. Ngày 25 tháng 3 năm 1941 và ngày 3 tháng 4 năm 1941, chúng lại đưa đồng chí ra tòa án binh Sài Gòn, xử tử hình đồng chí Minh Khai cùng các đồng chí khác bị bắt trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ với cái tội mà chúng bịa ra là “xui giục dân chúng làm rối loạn quốc gia” và “mưu toan lật đổ chính phủ”.
Trong bức thư gửi về cho cha mẹ ngày 29 tháng 5 năm 1941[4], đồng chí viết: “Con xin thày đẻ đừng tủi nhục đau khổ rằng con bị kết án xử tử là phạm điều gì sát nhân, tội ác, xấu xa, dữ tợn như bọn chúng nói. Không, con không phải vậy đâu! Con không phải là đứa con bất hiếu. Con khi nào cũng là đứa con trong sạch, chính đáng, không bao giờ làm điều gì bất nhân hung dữ. Con đầy một tấm lòng nhân ái, minh chính”.
Sáng ngày 28 tháng 8 năm 1941, biết kẻ thù sẽ đem mình và một số đồng chí đi xử bắn, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai nói to, tố cáo tội ác của kẻ thù và kêu gọi bạn tù nổi dậy đấu tranh. Bọn địch hung bạo đâm lưỡi lê vào ngực đồng chí. Các đồng chí chung quanh thét lên phản đối, tiếng hô căm phẫn trút lên đầu quân thù. Chúng sợ hãi vội đưa đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cùng các đồng chí ra trường bắn. Trước họng súng của địch, các đồng chí đã giật tung giải bịt mắt, ngẩng cao đầu hô lớn:
Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!
Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm![5],[6],[7]
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai ngã xuống nhưng khí phách anh hùng của người nữ đảng viên cộng sản mãi mãi sáng ngời trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta. Tấm lòng kiên trinh của đồng chí thể hiện qua bài thơ mà đồng chí đã khắc lên tường ở bót Catinat trong những ngày bị giam giữ tại đây:
Vững chí bền gan ai hỡi ai
Kiên tâm giữ dạ mới anh tài
Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ
Con đường cách mạng lắm chông gai
Đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khi nhắc tới cuộc đời hoạt động của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai đã viết: “Tôi đã gặp và làm việc với nhiều cán bộ nữ, nhưng chưa thấy ai có ý thức vươn lên gánh vác vai trò lãnh đạo cách mạng như đồng chí Minh Khai”.
Ghi nhớ người nữ chiến sĩ cách mạng kiên trung, nhiều địa phương trong cả nước đã có những con đường mang tên Nguyễn Thị Minh Khai. Tại Thành phố Hồ Chí Minh con đường Nguyễn Thị Minh Khai đặt tại trung tâm Thành phố và ngôi trường Nguyễn Thị Minh Khai giàu truyền thống luôn luôn là niềm tự hào cho nhiều thế hệ giáo viên, học sinh.
Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng
Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM
--------------------------
[1] Có tài liệu thể hiện đồng chí sinh ngày 1 tháng 11 năm 1910.
[2] Những người cộng sản trên quê hương Nghệ Tĩnh, Tập 1, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, 1978.
[3] Cựu tù chính trị và tù binh Thành phố Hồ Chí Minh - Nhân vật và sự kiện, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2013.
[4] Có tài liệu ghi ngày 24 tháng 5 năm 1941.
[5] Nghệ An - Những tấm gương Cộng sản, Tập 1, Tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, Nxb. Nghệ An, 1998.
[6] Nguyễn Thị Minh Khai - Một chiến sĩ phụ nữ anh hùng của cách mạng Việt Nam, sao y từ báo Nhân dân (đánh máy ngày 27-4-1978).
[7] Nguyễn Thị Minh Khai - Người nữ chiến sĩ cách mạng kiên trung, người Bí thư Thành ủy ưu tú (tác giả Lưu Phương Thanh).