Tháng 10 năm 1974, trước tình hình chuyển biến có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ cấp bách: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn - sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền ở Trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam… Ngay từ giờ, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975 - 1976”[1]. Tiếp đó, đầu tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị họp, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm (1975 - 1976) và nếu có thời cơ thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Từ cuối năm 1974, quán triệt và thực hiện nhiệm vụ do Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đề ra, Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định khẩn trương tổ chức thực hiện công tác chuẩn bị về mọi mặt. Đầu mùa khô 1974 - 1975, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định bố trí hình thành 6 mũi tiến công, 6 đoàn đặc công cho mỗi mũi. Lực lượng biệt động có 3 tiểu đoàn và 11 đại đội gồm 60 tổ phát triển trên hai hướng Đông và Tây vào nội đô. Từ sau tháng 11 năm 1974, Trung ương Cục giúp Thành ủy điều chỉnh lại cơ quan của Bộ Tư lệnh Thành; tăng cường thêm cán bộ cho Thành phố; xuống chỉ đạo các hướng quan trọng và kiểm tra công tác chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu sắp đến.
Đến tháng 3 năm 1975, quân ta liên tục tiến công địch, giải phóng Dầu Tiếng, Chơn Thành, bức rút An Lộc, mở rộng vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ, tạo nên bàn đạp rộng lớn để các quân đoàn chủ lực vào tập kết ở phía bắc và tây bắc Sài Gòn. Phối hợp với chiến trường chung, các lực lượng vũ trang của Thành đội ráo riết đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá “ấp chiến lược”, đường giao thông của địch, tổ chức tuyên truyền vũ trang, diệt ác, phá kìm ở các vùng ven xung quanh Thành phố. Từ đầu tháng 1 năm 1975 đến tháng 3 năm 1975, toàn Thành phố đã diệt 20 đồn, 8 phân chi khu, tạo được “bàn đạp” đứng chân ngay ở ven đô. Chỉ trong vòng 3 tháng, Thành phố Sài Gòn - Gia Định đã hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ dự kiến trong cả năm 1975.
Sau khi tiêu diệt căn cứ Đức Lập ở Nam Tây Nguyên, ngày 10 tháng 3 năm 1975, ta giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột. Ngày 26 tháng 3 năm 1975, ta giải phóng thành phố Huế và sau đó tiến vào giải phóng Đà Nẵng (29.3.1975). Thế ta mạnh như chẻ tre. Địch cố giữ phần đất còn lại từ Phan Rang trở vào, tổ chức hệ thống phòng ngự mới ở Quân khu 3, Đặc khu Thủ đô Sài Gòn và đồng bằng Sông Cửu Long. Phòng thủ bảo vệ Quân khu 3 và Sài Gòn, địch có 5 sư đoàn và 2 lữ đoàn. Mỹ lập cầu hàng không chở vũ khí từ Băng Cốc về Sài Gòn. Một bộ phận Hạm đội 7 của Mỹ rập rình uy hiếp ở Biển Đông. Địch điều 1 lữ đoàn dù và 3 liên đoàn biệt động quân, tổ chức thành 4 khu vực phòng thủ ở tuyến ngoài giáp ven đô. Ở nội đô Sài Gòn, địch tổ chức thành 5 liên khu, mỗi liên khu gồm 2 quận do lực lượng cảnh sát và phòng vệ dân sự phụ trách nhằm chống quân ta xâm nhập và sự nổi dậy của nhân dân.
Trước sự chuyển biến mạnh mẽ ở chiến trường, ngày 1 tháng 4 năm 1975, trong Điện gửi các anh Bảy Cường, anh Sáu và anh Tuấn, Bộ Chính trị nhận định: “Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu”[2] để tiến hành trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, giải phóng hoàn toan miền Nam. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng khẳng định, cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng 20 năm”, do vậy, “Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 này. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”[3].
Trước đó, quán triệt và thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị giành thắng lợi ngay trong tháng 4 năm 1975, ngày 29 tháng 3 năm 1975, Trung ương Cục miền Nam đã chỉ thị, đề ra nhiệm vụ cấp bách: “Động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tập trung cao nhất mọi sức mạnh tinh thần và lực lượng của mình phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp ba mũi giáp công, ba thứ quân, ba vùng chiến lược, vùng lên tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhanh chóng đánh sụp toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân với khí thế tấn công quyết liệt, thần tốc, táo bạo, quyết giành toàn thắng, giải phóng xã mình, huyện mình, tỉnh mình và toàn miền Nam”[4].
Ngay lập tức, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định khẩn trương chuẩn bị cho cuộc tổng nổi dậy hòa nhịp với tổng tiến công. Căn cứ của Thành ủy được chuyển từ căn cứ Long Định (Long An) về ngay sát thành phố, tiến hành phân thành hai cánh A và B phụ trách nội đô và vùng ven[5], tích cực thực hiện công tác tuyên truyền vận động, phát triển lực lượng và chuẩn bị các phương án nổi dậy. Đặc biệt, ngày 12 tháng 4 năm 1975, trong Chỉ thị hướng dẫn các cấp trong Đảng bộ những việc cần làm ngay trước, trong và sau khi thành phố được giải phóng, Ban Thường vụ Thành ủy khẳng định: “Hiện nay, chúng ta đang ở thời kỳ trực tiếp cách mạng tại thành phố, là giai đoạn tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân”[6].
Ban Thường vụ Thành ủy cũng khẳng định: Trước hết phải giành chính quyền ở cơ sở, đập tan bộ máy kềm kẹp của địch ở xóm, phường, xã, xí nghiệp, trường học, chợ… Từ khởi nghĩa cơ sở nhanh chóng chuyển lên giành chính quyền ở từng quận và toàn thành phố, tiếp quản thành phố, phải nhanh chóng xây dựng chính quyền cách mạng, truy quét bọn tàn quân và thực hiện các chính sách của Chính phủ và Mặt trận đã đề ra.
Lực lượng thọc sâu của Quân đoàn 1 vượt Đường 16 tiến vào giải phóng Sài Gòn. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)Thể theo nguyện vọng của nhân dân và các lực lượng vũ trang trên chiến trường, trong đó có quân và dân Thành phố Sài Gòn - Gia Định, ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị đã gửi Điện số 37/TK cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn phê chuẩn đề nghị của Bộ Chỉ huy Chiến dịch đặt tên chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ của Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định trong chiến dịch lịch sử này là: 1 - Chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt để khi thời cơ đến, phát động quần chúng nổi dậy và tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ cơ sở lên đến Trung ương; 2 - Lực lượng vũ trang địa phương vừa hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy vừa có nhiệm vụ chiếm giữ các cầu trọng yếu, khống chế các trận địa pháo, sân bay của địch, chiếm các “bàn đạp”, mở đường và dẫn đường cho bộ đội chủ lực tiến vào và đánh chiếm các mục tiêu được phân công. Tạo mọi điều kiện cần thiết cho các binh đoàn chủ lực có chỗ tập kết, nhanh chóng triển khai lực lượng; 3 - Bảo đảm hậu cần tại chỗ cho chiến dịch (lương thực, thuốc men, nhân công và các phương tiện vận tải…).
Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định đã khẩn trương, tập trung chỉ đạo các lực lượng quân sự, chính trị và binh vận thực hiện các bước tiến công chuẩn bị chiến trường cho trận quyết chiến chiến lược và cuộc tổng nổi dậy của các tầng lớp Nhân dân. Các ban, ngành, đoàn thể cũng tích cực khẩn trương chuẩn bị cho khởi nghĩa với tinh thần “một ngày bằng 20 năm”. Trước ngày Tổng tiến công và tổng khởi nghĩa, ở thành phố có hơn 700 cán bộ, trong đó cán bộ cấp Thành ủy và tương đương có 12 đồng chí; cấp quận ủy và tương đương có 60 đồng chí. Ở vùng ven có hơn 1.000 cán bộ. Ngoài ra, còn có 1.300 cán bộ ở cách thành phố từ 10 đến 15km, sẵn sàng vào thành phố. Nội thành và vùng ven có 1.200 đảng viên (nội thành 735 người) và hơn 10.000 quần chúng nòng cốt. Thành phố đã xây dựng được 40 lõm chính trị với hơn 7.000 quần chúng đã giành quyền làm chủ ở các mức độ khác nhau, 400 tổ chức công khai, tổ chức quần chúng với gần 25.000 quần chúng; tổ chức hàng chục cơ sở in ấn và đã in hàng triệu bản tài liệu, truyền đơn để phổ biến các chính sách của Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Tổng quân số lực lượng vũ trang của Thành phố tham gia chiến dịch lên đến 10 nghìn người được bố trí trên các hướng: Phía Bắc có Trung đoàn Đặc công 115, các đội Z28, Z31 và Z32 của Tiểu đoàn Biệt động 80 và Trung đoàn Đất thép (tức Trung đoàn Gia Định 2), đảm nhiệm khu vực từ cầu Bình Phước - Quốc lộ 1 - Bà Quẹo; xây dựng các bàn đạp ở Trung An, Thạnh Mỹ, Quới Xuân, Thạnh Lộc và An Phú Đông (Gò Vấp); chuẩn bị tiến đánh các mục tiêu: sân bay Tân Sơn Nhất, căn cứ pháo binh Cổ Loa, căn cứ thiết giáp Phù Đổng, Bộ Tổng Tham mưu ngụy. Phía Tây có các trung đoàn đặc công 117 và 429, các đội Z25, Z26 và Z30 của Tiểu đoàn Biệt động 82 cùng Tiểu đoàn 197 của Thành đội đảm nhiệm khu vực từ phía tây quốc lộ 1 đến phía bắc lộ 4; xây dựng bàn đạp ở vùng Bình Trị, Tân Nhật, Tân Túc, Tân Tạo, Mỹ Hạnh và Vinh Lộc (Bình Chánh); chuẩn bị đánh các mục tiêu: Đài rađa Phú Lâm, Đài phát tin Phú Thọ, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha Cảnh sát. Phía Đông có Trung đoàn Đặc công 10, các đội Z22, Z23 và Z24 biệt động cùng Tiểu đoàn 4 của Thành đội có nhiệm vụ xây dựng bàn đạp ở vùng Bưng Sáu Xã (Thủ Đức). Đảm nhiệm khu vực từ Ngã ba Cát Lái đến lộ 13; đánh địch trên sông Sài Gòn, Rừng Sác; chiếm căn cứ Hải quân, Cảng Sài Gòn…
Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 2 vượt sông tiến về Sài Gòn. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phátLực lượng vũ trang còn lại được phân công đánh một số mục tiêu, tiêu diệt sinh lực và kho tàng của địch; diệt đồn bót và phân chi khu; hỗ trợ cho quần chúng ở một số nơi vùng ven nổi dậy; xây dựng các lõm du kích tạo thành hành lang, bàn đạp cho chủ lực tiến vào; vận chuyển phương tiện, vũ khí, chất nổ vào Thành phố; lập các kho dự trữ vũ khí ở vùng ven; tập dượt để đánh vào các mục tiêu được quy định và để chiếm giữ các cây cầu trên các ngả đường huyết mạch vào Thành phố.
15 giờ 30 phút ngày 22 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị chỉ thị: “Thời cơ để mở cuộc tổng tiến công về quân sự và chính trị vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày để kịp thời phát động tiến công. Hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn. Nếu để chậm sẽ không có lợi cả về quân sự và chính trị,… mệnh lệnh ngay cho các hướng hành động kịp thời, đồng thời chỉ thị cho Khu ủy Sài Gòn - Gia Định sẵn sàng phát động quần chúng nổi dậy kết hợp với các cuộc tiến công của quân đội”[7]. Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định đã khẩn trương, tập trung chỉ đạo các lực lượng quân sự, chính trị và binh vận thực hiện các bước tiến công chuẩn bị chiến trường cho trận quyết chiến chiến lược và cuộc tổng nổi dậy của quần chúng nhân dân.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn - Gia Định đã nằm trọn trong “vòng vây thép” của quân ta. Phía Bắc có Quân đoàn 1; phía Tây Bắc có Quân đoàn 3; phía Đông và Đông Nam có Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4; phía Tây Nam có Đoàn 232. 14 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định họp Hội nghị ở An Thạnh (Long An) để kiểm điểm lại lần cuối toàn bộ công việc đã chuẩn bị và trù liệu thêm những công việc cần phải giải quyết. Sau Hội nghị này, các đồng chí trong Thành ủy phân công về các cơ sở để trực tiếp chỉ đạo việc khởi nghĩa ở Thành phố và ven đô. Các lực lượng vũ trang của Thành đội, các lực lượng đặc công cũng đã ém sẵn ở các cây cầu huyết mạch dẫn vào Thành phố và các vị trí xung yếu khác, sẵn sàng đánh địch.
17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, cuộc tổng tiến công của đội quân ta vào tuyến phòng thủ ngoại vi Sài Gòn - Gia Định bắt đầu. Các quân đoàn chủ lực của ta nhất loạt tiến vào 5 mục tiêu chiến lược đã được phân công.
Phối hợp với cuộc tiến công của những quân đoàn chủ lực từ ngoài đánh vào, các lực lượng vũ trang địa phương, du kích, biệt động, đặc công ở ven đô và nội đô đã nổi dậy tiến đánh các mục tiêu được phân công, làm tròn nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc. Các lực lượng vũ trang của Thành phố như Trung đoàn Gia Định 1 và 2, các tiểu đoàn và các đội biệt động cùng các quân đoàn chủ lực ào ạt tiến vào hướng nội đô. Cùng ngày, các đơn vị đặc công, biệt động, an ninh đánh chiếm các cây cầu huyết mạch và áp sát những mục tiêu được phân công. Sáng 30 tháng 4 năm 1975, lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định đã chiếm giữ 14 cây cầu quan trọng trên đường đại quân ta tiến vào Thành phố.
Cùng với các mũi tiến công của bộ đội chủ lực, các cuộc tiến công của lực lượng vũ trang Sài Gòn - Gia Định và nổi dậy của nhân dân Thành phố đã làm tan rã ngụy quyền Sài Gòn, xây dựng chính quyền cách mạng của nhân dân. Suốt ngày 29 đến sáng 30 tháng 4, toàn thành phố đã có 107 điểm nổi dậy (31 điểm ở ngoại thành, 76 điểm ở nội thành) trước khi Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Được lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ, nhân dân đã tự giải phóng các huyện lỵ Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức và Bình Chánh; chiếm trụ sở hành chính các quận 3, 5, 8, 10, 11 và Tòa hành chính tỉnh Gia Định, hai ty cảnh sát Quận 3 và Quận 5. Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn - Gia Định được giải phóng, cơ sở vật chất của Thành phố gần như còn nguyên vẹn; nhân dân ngập tràn niềm vui, xuống đường chào mừng chiến thắng và mọi sinh hoạt của nhân dân vẫn được bảo đảm bình thường.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định, quân và dân Sài Gòn - Gia Định phối hợp với các lực tiêu diệt và làm tan rã 31.000 tên địch, bắt sống hơn 12.000 tên, chiếm giữ, bảo vệ 14 cầu, 21 chi khu quân sự, trụ sở tề, ấp 22 đồn cấp tiểu đoàn, đại đội, chi khu; thu 88 xe quân sự, 12.275 súng các loại, 216 tấn vũ khí và trang bị quân sự[8].
Đối với Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn - Gia Định, Đại thắng mùa Xuân không chỉ là ngày 30 tháng 4 năm 1975, mà đó là một quá trình nâng cao thế trận chiến tranh nhân dân, “thế trận lòng dân”; là kết tinh sức mạnh dời non lấp biển của Nhân dân xả thân vì độc lập dân tộc, với ý chí thống nhất và khát vọng hòa bình mãnh liệt. Bằng tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường, đoàn kết, chủ động, sáng tạo, Đảng bộ, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã góp phần xứng đáng vào Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Từ quá khứ đến hiện tại, đó là bài học đoàn kết, phát huy truyền thống cách mạng, sự ủng hộ của Đảng bộ và nhân dân các địa bàn bao quanh Sài Gòn - Gia Định trong trong xây dựng “bàn đạp” và tham gia tiến công địch trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, và nay là điểm tựa quan trọng, cầu nối trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, phát triển Thành phố Hồ Chí Minh. Nhất là trong bối cảnh thực hiện mục tiêu mà Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 7 tháng 10 năm 2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề ra: Đông Nam Bộ trở thành vùng phát triển năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, động lực tăng trưởng lớn nhất cả nước... Thành phố Hồ Chí Minh phải là thành phố văn minh, hiện đại, năng động sáng tạo, là nơi thu hút nhân tài, chuyên gia, nhà khoa học, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đến sinh sống và làm việc; trung tâm tài chính quốc tế, phát triển ngang tầm các thành phố lớn trong khu vực Châu Á, đóng vai trò là cực tăng trưởng của vùng; nơi tập trung của các định chế tài chính quốc tế, các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đồng lòng, chung sức “cùng cả nước, vì cả nước” xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại, nghĩa tình, tiếp tục có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Võ Cường, Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
-----------------------------
[1] Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.380.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36 (1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 95.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36 (1975),Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.95 - 96.
[4] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử biên niên Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục miền Nam (1954 - 1975), Nxb Chính trị quốc giá, Hà Nội, 2002, tr. 1076.
[5] Cánh A trước đây chỉ phụ trách nội thành, nay phụ trách địa bàn gồm: Bình Chánh, Nhà Bè và đô thị Sài Gòn. Đồng chí Mai Chí Thọ - Bí thư Thành ủy phụ trách Cánh A. Đồng chí Võ Văn Kiệt thay mặt Trung ương Cục xuống phổ biến các nghị quyết và trực tiếp chỉ đạo cánh này. Cánh Bphụ trách các địa bàn: Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức và thị xã Gia Định. Phụ trách Cánh B là đồng chí Nguyễn Thành Thơ - Phó Bí thư Thành ủy.
[6] Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1975), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 891.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36 (1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.167.
[8] https://baoquankhu7.vn/vai-tro-cua-llvt-sai-gon-gia-dinh-trong-chien-dich-ho-chi-minh--1519824471-0022622s38810gs?AspxAutoDetectCookieSupport=1