Người đã để lại cho dân tộc ta, Đảng ta một sự nghiệp vẻ vang, một di sản vô giá, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và một tấm gương trong sáng, mẫu mực, trọn đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ ngày 25-30/12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc này là Nguyễn Ái Quốc) đã rút ra một kết luận rằng: cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trên toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta, Đảng ta một sự nghiệp vẻ vang, một di sản vô giá, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và một tấm gương trong sáng, mẫu mực, trọn đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Như vậy, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc là bước thứ nhất, bước tiếp theo là tiến lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó là con đường giải phóng triệt để nhất phù hợp với đòi hỏi của dân tộc, nguyện vọng của nhân dân và xu thế của thời đại.
Cũng từ đây Người nhận thức được một điều có tính chân lý là Cách mạng muốn thắng lợi “trước hết phải có đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.” (1).
Lán Nà Nưa (Tuyên Quang) - nơi Bác Hồ làm việc trong những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Những văn kiện, chỉ thị, các chủ trương kế hoạch đều được Bác khởi thảo từ căn lán này. Tại đây, Bác Hồ đã triệu tập hội nghị cán bộ ngày 4/6/1945, quyết định thống nhất chiến khu thành Khu giải phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng. (Ảnh: TTXVN) Ngay sau đó, Người tích cực chuẩn bị đầy đủ các yếu tố về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc ra đời Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Nếu từ năm 1921 đến cuối năm 1924, Người chủ yếu chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng, thì từ năm 1925, Người chú trọng về mặt tổ chức. Người thành lập một tổ chức tiền thân của Ðảng Cộng sản, đó là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn; mở lớp huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Những cán bộ này sau khi nắm được những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin, đã trở về nước, thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, thực hiện “vô sản hóa.”
Nhờ thấm nhuần tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại, phong trào công nhân đã chuyển dần từ trình độ “tự phát” sang “tự giác,” mà một nội dung có ý nghĩa quan trọng là giai cấp công nhân đã giác ngộ về chủ nghĩa Marx-Lenin và đường lối cách mạng vô sản, giác ngộ về sự cần thiết phải có Ðảng Cộng sản lãnh đạo.
Ðến giữa năm 1929 đầu năm 1930, ở Việt Nam đã xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc thống nhất các tổ chức cộng sản trước yêu cầu lịch sử mới, ngày 3/2/1930, lãnh tu Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Ðảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt trọng đại cho cách mạng Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới về sau trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng kiên cường, trong sạch, vững mạnh
Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tổ chức, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam là vô cùng to lớn. Song, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là Người đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng kiên cường, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng cũng như xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Điều này được thể hiện qua những nội dung sau:
- Giải quyết sáng tạo, khôn khéo yếu tố dân tộc và giai cấp
Trên cơ sở giải quyết sáng tạo, khôn khéo yếu tố dân tộc và giai cấp, vững vàng về nguyên tắc và phương châm xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong cách mạng của dân tộc.
Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời, gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới về sau trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Quan điểm này cũng là một sáng tạo lớn của Người và đã được cụ thể hóa vào thực tiễn sinh động của phong trào công nhân và cách mạng Việt Nam.
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III được tổ chức từ ngày 5 -10/9/1960 tại Hà Nội, quyết định đường lối cách mạng XHCN và xây dựng CHXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng chí Lê Duẩn được bầu giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội III của Đảng. (Ảnh: TTXVN) Do vậy, trong xây dựng Đảng, không phải chỉ có giai cấp công nhân mà cả nhân dân lao động và toàn dân tộc đều tham gia. Cả dân tộc thừa nhận Đảng là của mình, cả dân tộc tin tưởng ở Đảng, quyết tâm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, tích cực bảo vệ và tham gia xây dựng Đảng. Điều này thực sự là niềm tự hào của Đảng ta, không phải đảng nào cũng có được.
- Xây dựng Đảng về mọi mặt
Trong xây dựng, rèn luyện Đảng ta, Người đặc biệt chú ý tính hệ thống, cơ bản, toàn diện và thiết thực: từ tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức đến phương thức lãnh đạo.
Về tư tưởng, ngay trong quá trình tiến tới thành lập Đảng, Người khẳng định: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công.”(2) “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(3) và “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin.” (4)
Từ ngày 25-30/12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) Theo Người, chủ nghĩa Marx-Lenin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Do đó, phải làm cho cán bộ, đảng viên biết dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Marx-Lenin để giải quyết những vấn đề của cách mạng đặt ra; đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để góp phần bổ sung lý luận Marx-Lenin.
Thực tế cho thấy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giữ vững và nêu cao tính cách mạng của giai cấp công nhân, tính kiên cường bất khuất của phong trào yêu nước Việt Nam; luôn bảo đảm tính khoa học của chủ nghĩa Marx-Lenin về lý luận và trong giải quyết thực tiễn, đặc biệt là khả năng độc lập, sáng tạo để đi tới mục tiêu của cách mạng.
Về chính trị, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng, rèn luyện Đảng về chính trị có mối quan hệ mật thiết với xây dựng, rèn luyện Đảng về tư tưởng. Muốn xây dựng Đảng về chính trị đúng đắn, trước hết phải đứng vững trên một nền tảng tư tưởng vững chắc.
Do đó, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Marx-Lenin để dùng lập trường, quan điểm và phương pháp của nó mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta.
Có như thế, chúng ta mới dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh công bố Hiến pháp năm 1959, ngày 1/1/1960. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) Về tổ chức, Người đòi hỏi phải thường xuyên kiện toàn bộ máy của Đảng trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Khi kiện toàn, phải chú ý mặt tổ chức bộ máy, đồng thời xác định cơ chế hoạt động của bộ máy Đảng từ trung ương đến cơ sở nhằm phát huy cao nhất vai trò nền tảng của tổ chức cơ sở đảng và vai trò quyết định của tổ chức lãnh đạo cao nhất trong xây dựng, rèn luyện Đảng về tổ chức.
Mặt khác, Người rất chú ý tới mối quan hệ giữa bộ máy và con người trong kiện toàn tổ chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt và người đứng đầu bộ máy.
Về đạo đức, Người cho rằng, đạo đức cách mạng là cái “gốc” của người cán bộ, đảng viên. Đạo đức của người cán bộ cách mạng được thể hiện trước hết ở chỗ: Luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết, biết giải quyết đúng đắn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đạo đức cách mạng là sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, không hủ hoá, tham ô, không đặc quyền đặc lợi. “Đạo đức cách mạng là bất kì ở cương vị nào, bất kì làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội.”(5)
Chiều 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến-Quyết thắng của quân đội ta tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi. (Ảnh: TTXVN) Về phương thức lãnh đạo, đây là yếu tố có quan hệ trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của cách mạng, đến sức mạnh và sự tồn vong của Đảng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh đạo phải biết lắng nghe, biết gom góp, so sánh ý kiến của quần chúng. Theo Người, trước hết phải học hỏi nhân dân, vì “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra.” (6)
Trong lãnh đạo, Người đòi hỏi phải thực hiện “liên hiệp người lãnh đạo với quần chúng,” lãnh đạo không phải ngồi trong phòng kín để viết khẩu hiệu, chỉ thị, suy nghĩ từ đầu óc, ý muốn chủ quan của mình rồi buộc vào cổ dân mà phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, so sánh phân tích, sắp đặt thành hệ thống rồi giải thích cho dân chúng, đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt.
Bám sát quần chúng, bám sát thực tiễn, học hỏi quần chúng đề ra các quyết định lãnh đạo đó là ý thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh và cũng là hoạt động thực tiễn cách mạng của Người.
Ngày 19/8/1945, cả Thủ đô ngập tràn cờ đỏ sao vàng. Hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) - Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng
Trong xây dựng Đảng, xuất phát từ thực tiễn cụ thể ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nghiêm túc và sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc quyết định sức mạnh của Đảng. Người đòi hỏi Đảng phải thực hiện đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tránh cho Đảng không rơi vào chủ quan, độc đoán, chuyên quyền, đưa đường lối của Đảng trở thành thực tiễn sinh động.
Trong sinh hoạt Đảng, Người đặt vấn đề phải thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình - một vũ khí làm cho Đảng trở nên trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, Đảng phải thực hiện tốt nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác, cũng như nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, cán bộ đảng viên phải tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng, phải “giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.”
Vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng kiên cường, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng cũng như xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, Đảng không có lợi ích riêng mà chỉ có một lợi ích vì độc lập tự do của dân tộc, ấm no hạnh phúc của nhân dân mà phấn đấu hy sinh.
Nghị quyết 15 tháng 1/1959 của Trung ương Đảng đã quyết định phát động quần chúng nhân dân, trước hết ở nông thôn, dùng đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, tiến hành khởi nghĩa vũ trang đập tan ách kìm kẹp của Mĩ-Diệm để giành quyền làm chủ. Trong ảnh: Nhân dân lao động Sài Gòn-Chợ Lớn biểu tình chống Mỹ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) Bởi vậy, trong xây dựng Đảng, Người còn đòi hỏi Đảng phải thực hiện thường xuyên và làm tốt nguyên tắc quan hệ mật thiết với nhân dân: “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi..., cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại.”(7)
- Phải thực hiện thật tốt công tác kiểm tra của Đảng
Và để Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, trong quá trình xây dựng, rèn luyện Đảng, Người đề ra phải thực hiện thật tốt công tác kiểm tra của Đảng. Theo Người, lãnh đạo mà không kiểm tra tức là không lãnh đạo. Kiểm tra tốt thì bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, đều thấy rõ.
Bởi vậy, kiểm tra phải toàn diện và mọi sai lầm, khuyết điểm phải xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng Điều lệ của Đảng và luật pháp của Nhà nước. Công tác kiểm tra đòi hỏi người đi kiểm tra phải gương mẫu, có hiểu biết sâu rộng, vững vàng.
Công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh với dân tộc ta như non cao, biển rộng. Người đã gắn bó và hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta và dân tộc ta, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân cho đến hơi thở cuối cùng.
Người đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một gia tài đồ sộ, một di sản hết sức quý báu. Đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh, Thời đại Hồ Chí Minh và Tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Xe tăng của Lữ đoàn 203, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập, trưa 30/4/1975, đánh dấu Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. (Ảnh: TTXVN) -----------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.267-268.
(2), (3), (4): Sđd, t.2, tr.268.
(5) Sđd, tập 10, tr.306.
(6) Sđd, t.5, tr.295
(7) Sđd, tập 5, tr.286.