Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận Thủ Đức nhiệm kỳ (1998-2000)

Từ ngày 01/04/1997, thực hiện Nghị qịnh số 03/CP của Chính phủ, Huyện Thủ Đức chia tách hình thành 3 Quận mới với tên gọi là Quận 2, Quận 9 và Quận Thủ Đức.

Quận Thủ Đức bao gồm Thị trấn và 7 xã nằm ở phía bắc của huyện Thủ Đức trước đây, nay được phân định thành 12 Phường có diện tích tự nhiên 4.726 ha (chiếm 22% diện tích toàn Huyện cũ), dân số 172.456 người (chiếm 45% dân số toàn Huyện cũ). Trên địa bàn Quận tập trung nhiều cơ sở kinh tế (có 151 đơn vị kinh tế do TW và Thành phố quản lý; 05 Doanh nghiệp Nhà nước, 140 Công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân, 941 hộ TTCN và 4.106 hộ kinh doanh cá thể ngành thương mại - Dịch vụ do Quận quản lý); đồng thời là nơi có hệ thống hạ tầng kỹ thuật đầu mối về đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, điện, nước và tập trung nhiều trường Đại học, Khu công nghiệp lớn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Thành phố và cho cả khu vực.

Mặt khác về điều kiện các công sở, cơ sở Giáo dục, Dạy nghề, Chăm sóc sức khoẻ, sinh hoạt văn hoá TDTT, phần lớn đều được bố trí ở địa bàn Quận Thủ Đức mới.

Song, bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn, thử thách và hạn chế nhiều mặt so với yêu cầu, tiêu chuẩn hình thành mô hình cấp Phường, Quận trong giai đoạn mới hiện nay, nổi lên là Quận chưa có quy hoạch chi tiết nên việc xây dựng, sang nhượng, sử dụng đất đai vẫn tiếp tục phức tạp; về mạng lưới giao thông, ngoại trừ xa lộ Hà Nội, Xa lộ vành đai và Quốc lộ 13 bao quanh vòng ngoài của Quận, còn lại bên trong và ở từng Phường, hệ thống giao thông thoát nước vừa thiếu vừa chật hẹp và xuống cấp nghiêm trọng, nhiều Phường chỉ có đường đất là chủ yếu, vấn đề ô nhiễm môi sinh, môi trường còn rất nặng nề, số dân nhập cư trái phép không ngừng tăng nhanh, sức ép về nhu cầu học hành, ăn ở, giải quyết việc làm ngày càng gay gắt.

Mặt khác, địa bàn Quận tập trung nhiều khu vực phức tạp về ANCT và trật tự an toàn xã hội, vì vậy vẫn xác định là địa bàn trọng điểm phá hoại của các thế lực phản động được Thành phố xác định là một trong những địa bàn trọng điểm về an ninh chính trị.

Từ những thuận lợi, khó khăn, bước vào thực hiện chức năng, nhiệm vụ mới, được sự chỉ đạo của TW và Thành phố, nhất là sự nỗ lực, quyết tâm thực hiện đạt và vượt các nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội Đại biểu lần thứ VII của Đảng bộ Huyện đề ra cho cả nhiệm kỳ 5 năm (1996-2000) và Nghị quyết năm 1997 của Huyện uỷ Thủ Đức trước ngày chia tách. Nhìn chung, Đảng bộ và nhân dân Quận đã nắm bắt, phát huy tốt những tiềm năng, thế mạnh trong điều kiện thuận lợi mới, khắc phục được nhiều khó khăn thử thách, không ngừng giữ vững ổn định chính trị, tăng cường công tác ANQP, nhanh chóng sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước, đoàn thể, các Cơ quan khối nội chính từ Quận đến cơ sở, đảm bảo duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết tốt nhiều vấn đề về Giáo dục, Y tế, Văn hoá – xã hội, tiếp tục cải thiện đời sống và nâng cao lòng tin trong các tầng lớp nhân dân.

Đại hội Đảng bộ Quận nhiệm kỳ I (1998-2000) có nhiệm vụ đánh giá đúng mức những mặt làm được, chưa làm được, phân tích nguyên nhân, rút ra bào học kinh nghiệm từ khi hình thành Quận đến nay, đồng thời xác định phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu, các giải pháp thực hiện cho Đảng bộ Quận từ nay đến năm 2000 sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình mới, nhằm đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới trên địa bàn Quận theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI.

PHẦN THỨ NHẤT

TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỪ NGÀY THÀNH LẬP QUẬN ĐẾN NAY

I. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ:

Qua 9 tháng cuối năm 1997 kể từ ngày thành lập Quận đến nay tình hình kinh tế trên địa bàn tiếp tục ổn định, giữ vững tốc độ tăng trưởng và từng bước chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu chủ yếu do Thành phố giao cũng như các chỉ tiêu phấn đấu do Quận đề ra.

1/ Về cơ cấu kinh tế:

Quận Thủ Đức ở vị trí cửa ngõ phía đông bắc Thành phố, tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng của Thành phố và khu vực, trên địa bàn tập trung nhiều khu công nghiệp lớn, các khu dịch vụ - Du lịch ven sông Sài Gòn, khu đại học Quốc gia là trung tâm đào tạo lớn của cả nước, các khu dân cư mới phục vụ giãn dân từ nội thành ra và xây dựng đô thị mới của Thành phố.

Trên cơ sở đó, cơ cấu kinh tế hiện nay cũng như về hướng phát triển lâu dài, được xác định chủ yếu là Công nghiệp – Thương mại - Dịch vụ và một phần SXNN (đã chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất dạng nhà vườn, hoa kiểng, các vật nuôi có giá trị kinh tế cao và đảm bảo môi trường sinh thái).

Nhìn chung, qua quá trình phát triển, cơ cấu kinh tế Quận tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, với cơ cấu GDP (Tổng sản phẩm Quốc nội) hiện nay theo tính toán là 55% công nghiệp, 40% dịch vụ và 5% nông nghiệp.

2/ Sản xuất Công nghiệp – TTCN:

Có nhiều cố gắng khắc phục khó khăn, đầu tư nâng cao hiệu quả, mở rộng SXKD, tạo ra nhiều sản phẩm được thị trường tín nhiệm. Từ đó, giá trị sản xuất CN – TTCN do Quận quản lý trong 9 tháng cuối năm đạt cao, góp phần thực hiện cả năm được 211 tỷ đồng (giá so sánh 1994) đạt 110% kế hoạch, tăng 14% so cùng kỳ. Các ngành có tốc độ tăng trưởng khá là ngành sản xuất hàng may mặc xuất khẩu, sản phẩm từ giấy, chế biến thực phẩm. Khu chế xuất Linh Trung tiếp tục phát triển, thu hút nhiều lao động, các khu công nghiệp tập trung được xác định và triển khai thực hiện. Song bên cạnh đó, một số ngành do thị trường bấp bênh và thiếu vốn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ nên tốc độ phát triển có hạn chế, thậm chí giảm sút như các ngành chế biến gỗ, in, hoá chất, dệt.

3/ Sản xuất Nông nghiệp:

Quán triệt các chủ trương quan điểm của Đảng về sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và chăm lo đời sống nông dân, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi và đăng ký lại hoạt động các HTX nông nghiệp theo luật HTX, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, triển khai tốt các quỹ cho vay trợ vốn, đầu tư thuỷ lợi, gia cố bờ bao, hướng dẫn sản xuất, xây dựng các công trình điện nước sinh hoạt, mở đường liên Phường, đẩy mạnh phát triển kinh tế gia đình. Từ đó sản xuất nông nghiệp vẫn duy trì được nhịp độ tăng trưởng và tiếp tục có sự chuyển đổi nhanh cơ cấu vật nuôi, cây trồng có giá trị kinh tế cao, thích hợp theo hướng sản xuất hàng hoá và quá trình đô thị hoá. Tổng diện tích gieo trồng cả năm đạt được 2.486 ha đạt 95% kế hoạch, trong đó diện tích gieo trồng lúa 1.673 ha, các cây thực phẩm, cây màu đều tăng tăng từ 9-14%, diện tích cải tạo vườn tạp 15 ha. Theo kết quả điều tra 1/10/1997, nhìn chung đàn gia cầm tăng khá, tổng đàn heo, bò sữa có phát triển chậm lại nhưng cũng duy trì được ở mức hơn 8.900 con heo, 877 con bò sữa. Nhìn chung đời sống nhân dân đã có bước được cải thiện, vượt qua tình trạng thiếu đói, song đa số vẫn ở diện nghèo, chưa thật sự yên tâm đầu tư sản xuất nông nghiệp do Quận chưa có quy hoạch chi tiết ở từng Phường, từng khu vực.

4/ Hoạt động Thương mại - Dịch vụ:

Tiếp tục phát triển và mở rộng, doanh thu trên địa bàn do Quận quản lý đạt 699,5 tỷ đồng, tăng 23% so cùng kỳ. Riêng khối thương nghiệp quốc doanh, Cty dược phẩm thực hiện doanh số mua vào bán ra đều tăng trên 10% so cùng kỳ, Cty Dịch vụ - Du lịch Thủ Đức thực hiện doanh số trên 08 tỷ đồng, giảm 26% so cùng kỳ do doanh thu cho thuê nhà giảm. Nhìn chung, thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng mạnh, song vẫn theo xu thế tự phát. Để chống thất thu thuế chấn chỉnh và tăng cường các mặt hoạt động quản lý của Nhà nước đối với khu vực này, Quận đang tiến hành công tác điều tra, đăng ký và cấp phép lại theo tinh thần Chỉ thị 657/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Song song đó, quản lý thị trường của Quận cũng đã tích cực tăng cường kiểm tra, lập biên bản xử lý trên 114 vụ vi phạm SXKD không phép và hàng lậu, thu phạt hơn 468 triệu đồng.

5/ Đầu tư Xây dựng cơ bản:

Mặc dù có nhiều khó khăn của buổi đầu chia tách, thành lập Quận mới, song Quận cũng đã tập trung, chỉ đạo tiếp tục thực hiện các công trình dở dang chuyển tiếp trên cả địa bàn Huyện Thủ Đức cũ (trên 60 danh mục công trình), đồng thời triển khai nhanh các công trình mới đường Liên phường Hiệp Bình Chánh - Hiệp Bình Phước, đường cầu Bà Giang (Linh Xuân), sửa chữa nâng cấp nghĩa trang Liệt sĩ Quận, xây dựng nhà bia ghi danh Liệt sĩ Thủ Đức, sửa chữa một số trường và xây dựng mới trường THCS Hiệp Bình, tiến hành xây dựng mới trụ sở UBND Phường Bình Chiểu và Phường Trường thọ. Tính cả năm 1997 kể cả vốn đầu tư các Sở - Ngành Thành phố và vốn các DNNN Quận thì tổng mức đầu tư trên địa bàn Quận đạt trên 45,612 tỷ đồng. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, song nhìn chung Quận vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, xuống cấp của hệ thống cầu đường, của mạng lưới trường học, nhiều Phường vẫn mang đủ các đặc điểm, tính chất của xã nông thôn.

6/ Thu – Chi ngân sách:

Với sự ổn định và phát triển sản xuất cùng với mức đầu tư XDCB như trên đã ảnh hưởng tốt đến thu, chi ngân sách trên địa bàn. Tổng thu NSNN (có số thu quí I/97 của toàn Huyện cũ) được 115 tỷ đồng, đạt 103% kế hoạch, trong đó, tính riêng trên địa bàn Quận đạt trên 94 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách Quận 33,661 tỷ đồng (trong đó chi quí I/97 của Huyện Thủ Đức cũ là 11,551 tỷ đồng) đạt 139% kế hoạch năm 1997. Riêng kế hoạch chi trợ cấp ngân sách Phường được Thành phố giao 3.606 triệu đồng, song Quận cũng đã chi cấp cho Phường gần 06 tỷ đồng do trợ cấp các công trình XDCB cần thiết, sửa chữa văn phòng làm việc, lắp đặt trạm truyền thanh cho các Phường mới. Nhìn chung, vấn đề thu, chi ngân sách có bước chuyển biến tích cực, hoạt động của ngành thuế, Kho bạc, Ngân hàng, tiếp tục có sự cải tiến về thủ tục, đảm bảo nguyên tắc, chế độ qui định, góp phần tác động tích cực đến SXKD và đời sống nhân dụng nhân dân. Mặt khác việc hình thành thí điểm quỹ tín dụng nhân dân ở Phường Hiệp Bình Phước đang được đánh giá xem xét nhân rộng ra ở vài Phường đủ điều kiện. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất là Ngân sách Quận được Thành phố điều tiết còn quá thấp làm hạn chế tính chủ động triển khai các mặt hoạt động của của Quận, nhất là trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.

II. VỀ VĂN HOÁ XÃ HỘI:

09 tháng qua, tiếp tục triển khai các chươg trình hành động thực hiện nghị quyết TW4 và các Chỉ thị, Nghị quyết trong thời gian gần đây của Trung ương và Thành phố, các hoạt động Giáo dục, Y tế, Văn hoá, Xã hội, chăm lo đời sống nhân dân đã không ngừng có những chuyển biến tích cực.

1/ Giáo dục và Đào tạo:

Sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo tiếp tục phát triển, mở rộng với nhiều ngành học, cấp học và loại hình đào tạo, việc thực hiện xã hội hoá giáo dục đã đạt được một số kết quả bước đầu, tạo thêm nguồn lực đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới giáo dục. Kết quả năm học 1996-1997, số học sinh thi tốt nghiệp Tiểu học đạt 97,8% và Trung học cơ sở đạt 92,33%, 26/39 Trường đạt danh hiệu tiên tiến, số Giáo viên đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua, số học sinh giỏi cấp Thành phố cũng đã có mức tăng lên đáng mừng. Bước vào năm học mới 1997-1998, mặc dù số học sinh các cấp đều tăng trên 7% nhưng với sự tập trung của Quận trích 550 triệu từ nguồn tiết kiệm ngân sách và sự hỗ trợ tích cực của nhân dân, sự chi viện của Thành phố đầu tư xây dựng sửa chữa trường lớp, từ đó, ngày khai giảng năm học mới thật sự là ngày hội lớn của toàn dân đưa trẻ đến trường. Số trẻ 6 tuổi vào lớp một đạt 95,8% (2626/2741 em). Toàn Quận không có trường lớp nào phải học ca 3. Trung tâm dạy nghề của Quận đã thu hút gần 800 học viên (13 ngành nghề) đã tốt nghiệp 717 học viên đa số là ngành may, điện cơ, điện lạnh và điện tử.

Nhìn chung, tuy đã có sự nỗ lực, cố gắng, song thực tế còn nhiều vấn đề phải giải quyết nổi lên là: mặt bằng học vấn chung trên địa bàn còn thấp, cơ sở trường lớp hiện có hầu hết chật hẹp và trên đà xuống cấp, đặc biệt sẽ thiếu rất nhiều trong những năm tới, khi thực hiện mạnh chủ trương của Thành phố giãn dân từ nội thành ra, vấn đề học phí, trả lương giữa trường công với trường tư còn nhiều bất hợp lý. Việc đào tạo nghề của Quận hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của một địa bàn đang tập trung xây dựng và phát triển các khu CN, khu chế xuất.

2/ Về giải quyết việc làm, thực hiện chính sách xã hội:

Luôn được quan tâm của các ngành, các cấp, từ đó đã giới thiệu giải quyết việc làm cho hơn 5.934 lao động, đáp ứng phần nào yêu cầu lao động của khu chế xuất và các đơn vị kinh tế trên địa bàn. Về thực hiện chính sách lao động Thương binh và Bảo hiểm xã hội đã tiếp tục thực hiện tốt việc chi trả lương, trợ cấp, đồng thời Quận cũng đã có nhiều cố gắng giúp đỡ gia đình chính sách khó khăn. Đặc biệt nhân kỷ niệm 50 năm ngày TBLS 27/7 Quận đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm với nhiều hoạt động phong phú, thiết thực. Đã mở đợt vận động xây dựng được 50 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa 33 căn nhà diện gia đình chính sách, trao tặng 50 sổ vàng tiết kiệm, qui tập 11 hài cốt liệt sĩ về Nghĩa trang Liệt sĩ Quận, triển khai xây dựng nhà bia ghi danh liệt sĩ Thủ Đức. Ngân sách Quận đã chi trên 1,5 tỷ đồng để giải quyết các chế độ chính sách trợ cấp và thăm tặng quà các gia đình chính sách, đồng thời đã chọn Phường Bình Chiểu làm điểm nâng cao mức sống diện gia đình chính sách lên bằng người dân có mức sống trung bình ở Phường. Mặt khác Quận đang tích cực tiếp tục vận động xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa trên địa bàn.

Về công tác bán nhà sở hữu Nhà nước: Qua việc chấn chỉnh và đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng bán nhà Quận và phối hợp với các Ngành Thành phố, đến nay được Thành phố ký quyết định và duyệt giá và đã bán được 211 căn với số tiền thu được 6,427 tỷ đồng.

3. Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo:

Tiếp tục được duy trì đẩy mạnh sâu rộng ở các các các ngành, các tầng lớp nhân dân. Quỹ vốn xoá đói giảm nghèo từ 3,2 tỷ đã nâng lên gần 3,8 tỷ đồng và cơ bản đã hỗ trợ vốn cho tất cả các hộ trong chương trình; song song đó đã tập trung xoá ấp nghèo (Ấp 1 Hiệp Bình Phước) để làm điểm rút kinh nghiệm nhân ra đại trà, kết quả bước đầu cũng tạo ra nhiều chuyển biến tích cực. Mặt khác, việc đẩy mạnh vận động xây dựng nhà tình thương ngày càng được các Phường triển khai tốt (đã thực hiện xây dựng được 43 căn nhà và sửa chữa 21 căn).

4/ Về bảo vệ và căm sóc sức khoẻ nhân dân:

Tiếp tục có nhiều tiến bộ cả về phòng bệnh và chữa bệnh. Quận đã triển khai tốt các chương trình Y tế quốc gia, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chương trình bảo vệ Bà mẹ và trẻ em, chương trình tiêm chủng mở rộng và vệ sinh phòng bệnh… công tác phòng chống bệnh lao và HIV/AIDS cũng đã được thường xuyên quan tâm với nhiều phương pháp tuyên truyền, vận động. Trong năm 1997, đã khám và chữa bệnh cho hơn 630.000 lượt bệnh nhân. Mặt khác đã phối hợp với Uỷ ban dân số KHHGĐ đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, kết quả tỷ lệ tăng dân số tự nhiên có mức giảm (1,46% năm 1996, xuống còn 1,40% năm 1997. Ngành y tế cũng đã hoàn tất việc bàn giao về cơ sở vật chất, nhân sự cho Quận 2, Quận 9. Tuy nhiên bên cạnh những mặt chuyển biến tiến bộ trên, cần tăng cường hơn nữa việc quản lý khu vực Y dược tư nhân, tham mưu đề xuất tăng thêm trang thiết bị và số giường bệnh cho bệnh viện Đa khoa để đảm đương tốt nhiệm vụ một bệnh viện phục vụ khu vực cho các Quận và vùng tiếp giáp; tích cực liên hệ với các ngành chức năng để xúc tiến nhanh việc xây dựng 4 Trạm y tế cho 4 Phường mới.

5/ Hoạt động VHTT – TDTT:

Các hoạt động đã tiếp tục góp phần tích cực vào những kết quả chung của Quận, các hoạt động truyền thanh, bản tin, xe loa, panô, biểu ngữ, triển lãm, tranh cổ động và các cuộc hội diễn văn nghệ liên Quận, liên Phường đã tạo ra không khí sinh hoạt văn hoá, văn nghệ liên tục, sôi nổi và phục vụ tốt ngày lễ, kỷ niệm các đợt sinh hoạt chính trị lớn trên địa bàn, nhất là trong dịp lễ kỷ niệm ngày chiến thắng 30/4, kỷ niệm 50 năm ngày TBLS, 52 năm Cách mạng tháng 8, Quốc khánh 2/9 và cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khoá 10, bầu bổ sung đại biểu HĐND các cấp. Đặc biệt Quận đã đẩy mạnh và hoàn thành chương trình xoá đói thông tin ở cơ sở (toàn Huyện Thủ Đức đã tặng 1.339 radio, trong đó Quận Thủ Đức là 489 chiếc). Mặt khác công tác quản lý Nhà nước của ngành cũng đã có nhiều tiến bộ, nổi bật là trong việc thu đổi, cấp giấy phép hành nghề dịch vụ văn hoá; phối hợp với các ngành hữu qua, mở nhiều đợt kiểm tra, xử lý theo tinh thần Nghị định 87, 88/CP, chỉ thị 814/TTg, qua đó đã chấn chỉnh một bước quan trọng đối với mạng lưới kinh doanh, dịch vụ văn hoá trên địa bàn. Đặc biệt đã tham dự và đạt giải nhất trong cuộc liên hoan tiếng hát truyền thống và ca nhạc Lưu Hữu Phước do Sở VHTT Thành phố tổ chức. Hoạt động TDTT cũng đã tiếp tục có bước phát triển mở rộng thu hút trên 50.000 người tham gia luyện tập, tham dự thi đấu trên 70 lần cấp Quận, Thành phố và đạt 74 huy chươg các loại.

Tuy nhiên, vấn đề còn tồn tại hạn chế mà ngành phải tập trung quan tâm nổi lên là: cơ sở hoạt động văn hoá, thể dục thể thao ở các Phường còn quá thiếu thốn, cần sớm đề xuất quy hoạch xây dựng các trung tâm văn hoá – TDTT liên Phường, đẩy mạnh hơn nữa đời sống văn hoá ở cơ sở tiếp tục tăng cường kiểm tra thường xuyên các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá trên địa bàn.

III. VỀ AN NINH - QUỐC PHÒNG:

09 tháng qua, cùng với nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề văn hoá – xã hội. Ngay từ những ngày thành quận mới, Quận uỷ xác định địa bàn quận Thủ Đức hiện nay cũng là trọng điểm phá hoại của các thế lực thù địch và bọn phản động, từ đó, đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo tăng cường thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng trên địa bàn.

1/ Về an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội:

Sau ngày chia tách, hình thành Quận mới, ngành Công an đã được Quận uỷ, UBND Quận tập trung chỉ đạo. Từ đó, đã nhanh chóng sắp xếp bộ máy tổ chức và trụ sở làm việc từ Quận đến 12 phường.

Nhìn chung, 09 tháng qua tình hình an ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững và ổn định. Đặc biệt đã bảo đảm tuyệt đối an toàn cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội, Đại biểu HĐND các cấp và các ngày lễ, kỷ niệm. Đồng thời trên cơ sở nắm chắc và thực hiện đúng đường lối đổi mới, chính sách Tôn giáo của Đảng, nên đã kịp thời giải quyết tốt việc tổ chức đào tạo tu sĩ không phép ở Tam Phú. Mặc khác thực hiện tốt Nghị định 87, 88CP và chỉ thị 59 của UBND Thành phố về tăng cường quản lý trật tự kỷ cương trong các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá, đã phát hiện, xử lý 43 vụ vi phạm kinh tế, xoá 19 ổ mãi dâm, lập danh sách 11 tụ điểm mua bán và 93 đối tượng thanh niên ghiền xì ke, hút chích bồ đà, heroin, kiểm tra xử lý 70 điểm dịch vụ văn hoá và 776 vụ vi phạm xây dựng, mua bán lấn chiếm lòng lề đường.

Tuy nhiên, nhìn chung vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế, cần tiếp tục chú trọng thời gian tới như các tệ nạn xã hội, nạn xì ke hút bồ đà trong một số ít bộ phận thanh niên chưa được ngăn chặn xử lý triệt để, lực lượng công an chính qui chưa bố trí đủ khắp địa bàn nhất là ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp (khu ĐH Quốc gia, các khu Ga…).

2/ Nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương:

Nhìn chung nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương tiếp tục có nhiều tiến bộ trong phối hợp các lực lượng giữ gìn ANTT, đã thành lập Ban chỉ đạo phòng thủ khu vực, hoàn chỉnh kế hoạch hợp đồng chiến đấu với các Quận - Huyện giáp ranh và đơn vị cấp trên, triển khai kế hoạch đến 12 Phường; triển khai kế hoạch đến 12 Phường; triển khai tốt công tác về pháp lệnh dân quân tự vệ và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt tỉ lệ 2,7% dân số, nắm tương đối chắc số lượng và chất lượng quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật.

Quận đã mở 2 lớp tập huấn cán bộ và tiến hành huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị cho tự vệ tập trung và cơ động Phường. Tiến hành tổ chức hội thao quốc phòng năm 1997 có hơn 800 cán bộ, chiến sĩ DQTV tham gia. Thực hiện hoàn thành tốt công tác đăng ký NVQS tuổi 17 đạt tỷ lệ 98,5%. Ngoài ra Quận cũng thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương Quân đội, tổ chức trao 157 huân chương, bằng khen các loại, tổ chức thăm hỏi tặng quà các gia đình chính sách, cán bộ hưu trí quân đội, bộ đội phục viên và tân binh.

Mặt còn tồn tại hạn chế hiện nay là sự phối hợp ký kết chương trình hoạt động giữa Công an – Quân sự và Hội cựu chiến binh chưa thật chặt chẽ, nhất là ở các Phường, việc triển khai các Chỉ thị, Nghị quyết về an ninh - quốc phòng chưa đồng bộ, sâu rộng trong một số cán bộ - Đảng viên và nhân dân. Từ đó, tình trạng mất cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn mới của các thế lực thù địch còn xảy ra trong một số ngành, cấp và trong nhân dân. Việc xử lý quân nhân đào bỏ ngũ chưa được nghiêm minh, kịp thời, phong trào bảo vệ ANTQ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân chưa được phát động thường xuyên liên tục, ý thức chủ động phòng chống, tự bảo vệ ở từng đơn vị và mỗi người còn thấp.

3/ Công tác bảo vệ pháp luật:

Công tác bảo vệ pháp luật trong 09 tháng qua tiếp tục có nhiều tiến bộ, góp phần tích cực giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn. Đã tiếp nhận và giải quyết được nhiều đơn từ khiếu nại tố cáo của nhân dân, đã tiến hành và hoàn thành 5/5 cuộc thanh kiểm tra; việc tổ chức học tập, nghiên cứu, tuyên truyền phổ biến pháp luật được quan tâm đẩy mạnh, qua đó nâng cao một bước về nhận thức ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ đảng viên và nhân dân. Việc xét xử, thi hành án cũng có nhiều tiến bộ, đã thi hành xong 426 vụ, bàn giao 739 vụ cho Quận 2 và Quận 9. Tuy nhiên, việc giải quyết đơn từ khiếu tố của nhân dân còn nhiều lúng túng và chậm trễ kéo dài, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm, nhất là trên lĩnh vực xây dựng, kinh doanh mua bán, việc thi hành các quyết định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chánh chưa được thực hiện triệt để, kịp thời, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của ngành còn nhiều hạn chế.

4/ Chương trình chống tham nhũng:

Đây là chương trình được Đảng bộ Quận đặc biệt quan tâm thực hiện. Trên cơ sở chương trình hành động của Huyện Đảng bộ trước đây, đã xây dựng chương trình hành động của Quận Đảng bộ mới và được triển khai sâu rộng đến từng Chi Đảng bộ và Đảng viên, Cán bộ. Qua việc thực hiện chương trình và qua kết quả các cuộc thanh tra, đã chấn chỉnh lề lối và phương pháp quản lý một số cơ sở, chấn chỉnh việc thu học phí ở các trường, Trung tâm dạy nghề. Về kinh tế qua kiểm tra có sai phạm nhưng mức độ không đáng kể và được chấn chỉnh kịp thời.

IV. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN:

09 tháng qua, hoạt động của HĐND và UBND từ Quận đến các Phường đã nêu cao ý thức đoàn kết, chủ động, triển khai các kế hoạch với những biện pháp thích hợp từ đó đã giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội, nhanh chóng sắp xếp lại bộ máy tổ chức, tháo gỡ nhiều vướng mắc khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức thắng lợi cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và bầu bổ sung HĐND các cấp, cùng các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước. Việc tiến hành cải cách hành chánh và tổ chức hoạt động theo mô hình “một cử một dấu” ở Quận, bước đầu cũng đã có một số mặt chuyển biến tích cực, việc giải quyết các yêu cầu của nhân dân có bước nhanh hơn, tổ chức bộ máy hành chánh cấp Quận được tinh gọn hơn và đội ngũ cán bộ được tuyển chọn và chú ý khâu bồi dưỡng, đào tạo lâu dài. HĐND từ Quận đến Phường cũng từng bước thể hiện vai trò cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ quản lý hành chánh, kinh tế - xã hội, quản lý đô thị thì bộ máy chính quyền từ Quận đến các Phường còn cần tiếp tục được củng cố và nâng cao chất lượng trên nhiều mặt.

V. VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ.

Sau ngày chia tách thành lập Quận, mặc dù lúc đầu trong một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân có biểu hiện băn khoăn lo lắng về giải toả đền bù, về các khu tái định cư, về mức độ ô nhiễm môi sinh môi trường, về tình hình trộm cắp, cướp giựt và sự hư hỏng của một số thanh niên học sinh… Song, nhìn chung đều tỏ rõ sự phấn khởi đồng tình với chủ trương chia tách, thành lập Quận mới. Từ đó, nhân dân trên địa bàn đã tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng, không ngừng nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững ổn định chính trị, nhiều phong trào Cách mạngc ủa nhân dân tiếp tục dấy lên sâu rộng, đặc biệt là phong trào đền ơn đáp nghĩa, “xoá đói giảm nghèo”, “Xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương”, “Người tốt việc tốt”… mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, tăng thêm niềm tin trong nhân dân. Trong đó, Mặt trận và các đoàn thể đã có những đóng góp quan trọng, nổi bật bằng các việc làm thiết thực, chủ yếu như sau:

* Mặt trận Tổ Quốc:

Trên cơ sở Đại hội Mặt trận Tổ quốc Quận lần I đã thành công tốt đẹp, Mặt trận Quận đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và Bầu bổ sung HĐND các cấp, tích cực trong đợt vận động xây dựng nhà tình nghĩa, chủ công thực hiện cuộc vận động “Toàn dân xây dựng cuộc sống mới khu dân cư”, tổ chức Hội nghị biểu dương “Người tốt việc tốt” và thăm hỏi chúc thọ nhân kỷ niệm ngày Quốc tế người cao tuổi 10/10.

* Hoạt động LĐLĐ:

Đã có nhiều phương thức chăm lo đời sống CNLĐ nhất là đối với CNLĐ nghèo, giáo dục luật pháp, phổ biến quán triệt bộ luật CĐ và BL lao động trong công nhân. Sau khi tách Huyện đã phát triển được 33 CĐCS (trong đó 27 CĐCS ngoài quốc doanh), kết nạp 2.377 Đoàn viên công đoàn, nâng số CĐCS trong Quận là 122 CĐCS, số Đoàn viên trong Quận 10.098. Mặt khác, phối hợp tốt với các ngành chức năng Quận kiểm tra thi hành Bộ luật lao động ở 37 đơn vị ngoài quốc doanh, tổ chức được 45 Hội đồng hoà giải ở cơ sở, tham gia giải quyết 5 vụ đình công, 2 vụ lãng công buộc chủ doanh nghiệp phải thực hiện đúng tinh thần Bộ Luật Lao động đạt kết quả tốt… Hoạt động của LĐLĐ từng bước đi vào ổn định, hiện nay tập trung chỉ đạo Đại hội CĐCS tiến tới Đại hội LĐLĐ Quận vào cuối quí I/1998.

* Hội nông dân Việt Nam:

Chủ động phối hợp tốt với Trạm Khuyến nông, Trạm Bảo vệ thực vật và các HTX nông nghiệp, tổ chức 24 cuộc tập huấn hội thảo với 1.125 người tham dự về chuyên đề ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp như: giống mới, cải tạo vườn tạp, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi, phòng trừ sâu bệnh, đạt hiệu quả cao, phát động phong trào nông dân sản xuất giỏi. Xây dựng quỹ bảo trợ vốn cho nông dân, phối hợp với chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Ngân hàng Thương tín Gò Vấp cho vay được 1.115 hộ để phát triển sản xuất với số tiền 7,098 tỷ đồng.

Về tổ chức và phát triển lực lượng đã lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội Nông dân Quận lần thứ I và phát triển mới 121 hội viên, nâng tổng số hội viên hiện có lên 2.285 hội viên, trong đó có 515 hội viên nồng cốt.

* Hội Liên hiệp Phụ nữ:

Tiếp tục tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ Phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập, quan tâm chăm lo bảo vệ quyền lợi, đời sống sức khoẻ phụ nữ và trẻ em, góp phần quan trọng trong vấn đề xây dựng gia đình nô ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Tiếp tục công tác kiện toàn tổ chức, phát triển hội viên, giữ vững nề nếp sinh hoạt truyền thống của Phụ nữ. Từ ¼ đến nay, ngành đã phát triển được 840 hội viên nâng tổng số hội viên lên 20.844, trong đó, hội viên nồng cốt là 4.113. Chương trình Consortium đến nay được 11 nhóm cho vay 90 người với tổng số tiền 493 triệu đồng; tổ chức vận động ngày tiết kiệm vì Phụ nữ nghèo được 22.842.000 đồng, nhóm tín dụng tiết kiệm được 19 nhóm với 180 thành viên với tổng số tiền 162.892.000 đồng.

* Quận đoàn Thanh niên:

Chủ động phối hợp với các ngành tổ chức tốt cuộc thi “Điểm sáng quanh tôi”, đẩy mạnh giáo dục truyền thống nhân kỷ niệm các ngày lịch sử, tích cực tham gia sinh hoạt hè, vui Trung thu năm 1997, chủ công trong cuộc hành trình 300 năm Thành phố, Hội khoẻ Phù Đổng…, tham gia liên hoan “Búp sen hồng” lần 5 tại Kiên Giang đạt loại khá, tham gia đợt liên hoan “Hát cùng bạn bè tôi” lần II do Thành phố tổ chức đạt giải II toàn Thành. Từ khi thành lập Quận mới đến nay đã phát triển được 141 đoàn viên, nâng tổng số đoàn viên lên 1.511. Hiện nay đang tập trung chỉ đạo Đại hội Đoàn cấp Phường tiến tới Đại hội Đoàn cấp Quận vào cuối quý I/1998.

* Đối với hoạt động Hội LHTN:

Thông qua các hoạt động như: hiến máu tự nguyện, vận động tích luỹ tiết kiệm, du khảo vể nguồn, ngày chủ nhật xanh, các hoạt động văn hoá văn nghệ, TDTT… đã từng bước củng cố các Câu lạc bộ đội nhóm thanh niên, nâng cao vai trò nồng cốt chính trị của Đoàn TNCS trong việc mở rộng tập họp đoàn kết Thanh niên. Từ 01/04/1997 đến nay phát triển được 51 đội nhóm, nâng số đội nhóm lên 114 và phát triển được 556 hội viên, nâng tổng số hội viên lên 2.356.

* Lực lượng Hưu trí – Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến:

Duy trì đều đặn việc tổ chức nói chuyện thời sự, tổ chức thăm hỏi, tặng quà, trợ cấp hội viên đau yếu, khó khăn, cùng ngành LĐ-TBXH đề xuất xây dựng Nhà tình nghĩa, Nhà tình thương, riêng Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến vừa được thành lập lại và đang triển khai hoạt động từ tháng 6/97. Đến nay đã kiện toàn tổ chức, phát triển hội viên ở các Phường, tổ chức tốt các cuộc họp truyền thống nhân kỷ niệm 50 năm ngày TBLS và ngày Nam bộ kháng chiến 23/9, nhằm ôn lại truyền thống, giáo dục hội viên giữ vững ý chí cách mạng, cùng thế hệ mới tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

* Hội chữ thập đỏ:

Tiếp tục triển khai tốt công tác huấn luyện kỹ thuật sơ cấp cứu cho lực lượng Thanh thiếu niên xung kích chữ thập đỏ của Quận và các em học sinh ở các Phường. Duy trì, giữ vữg hoạt động của phòng khám bệnh miễn phí cho dân nghèo, vận động nhân dân làm tốt công tác nhân đạo, từ thiện xã hội, cưu mang người nghèo, neo đơn, già cả không nơi nương tựa, cứu trợ giúp các em ở mái ấm tình thương. Đến nay tổng số hội viên là 5.583, phát triển mới 70 hội viên, số hội viên xung kích là 142.

Bên cạnh những mặt hoạt động tích cực trên, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể cũng còn một số mặt tồn tại, hạn chế đáng lưu ý là: việc chỉ đạo triển khai cuộc vận động “Toàn dân xây dựng cuộc sống mới khu dân cư” chưa đồng bộ, liên tục và rộng khắp đến các tổ nhân dân, chưa thật sự sâu sát tìm hiểu nắm bắt tâm tư nguyện vọng của dân, thực hiện vai trò giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền còn hạn chế, một số đoàn viên, hội viên nhất là cơ sở chưa coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phong trào xây dựng tổ nhân dân tự quản chưa mạnh và đều khắp, mặt khác chất lượng đoàn viên, hội viên còn thấp, nhất là còn hạn chế lớn trong việc phát triển lực lượng trong khối DN ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong cộng đồng giáo dân.

VI. VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG:

09 tháng qua, tiếp tục thực hiện các chỉ thị Nghị quyết của TW, của Thành phố và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần VII, Quận Đảng bộ đã phấn đấu liên tục, nghiêm túc tổ chức triển khai công tác xây dựng đảng bằng những kế hoạch cụ thể và Nghị quyết chuyên đề, Đảng bộ đã tiếp tục xác định đúng mức tầm quan trọng có ý nghĩa quyết định đúng mức tầm quan trọng có ý nghĩa quyết định của công tác xây dựng Đảng, nhất là trong giai đoạn xây dựng từ một phần Huyện cũ nông thôn trước đây đi lên một Quận đô thị của Thành phố.

1/ Công tác chính trị tư tưởng:

Đây là mặt công tác luôn luôn được các cấp Uỷ Đảng từ Quận đến cơ sở thường xuyên coi trọng. Từ đó, trong 09 tháng qua, Đảng bộ đã tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc các chỉ thị, Nghị quyết của TW và Thành uỷ. Đặc biệt là nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Nghị quyết TW 2, TW 3, đồng thời bằng các hình thức tổ chức báo cáo chuyên đề, nói chuyện thời sự, trao đổi toạ đàm, hội thi, hội thảo và qua các lớp tập huấn ngắn ngày, trường lớp đào tạo dài hạn… đã không ngừng nâng cao nhận thức, trình độ chính trị cho cán bộ, đảng viên của Đảng bộ. Nhìn chung tư tưởng của cán bộ, đảng viên hiện nay của Đảng bộ hầu hết kiên định và tin tưởng tuyệt đối vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng, lực lượng Đảng viên trung kiên tiếp tục phát huy vai trò nồng cốt trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, nhiều đảng viên là cán bộ hưu trí, cựu chiến binh tiếp tục nêu gương tốt trong sinh hoạt, tích cực tham gia các công tác ở cơ sở, số đảng viên trẻ hăng hái công tác, học tập với ý chí vươn lên.

Song bên cạnh những mặt làm được nêu trên, công tác chính trị tư tưởng có lúc, có mặt chưa sắc bén, kịp thời, hình thức học tập quán triệt chỉ thị, nghị quyết đa phần còn dừng lại ở dạng truyền đạt là phổ biến, thiếu thảo luận và tiếp tục nghiên cứu, một số cấp uỷ Đảng cơ sở và đảng viên chưa thật sự coi trọng việc học tập, quán triệt Nghị quyết, chỉ thị, một số ít đảng viên đi học cũng thiếu tập trung và còn biểu hiện lơ là, chiếu lệ. Việc kiểm tra, nắm nhận thức qua học tập, quán triệt nghị quyết của cán bộ, đảng viên cũng còn nhiều hạn chế.

2/ Về công tác tổ chức cán bộ:

Sau khi chia tách, bàn giao tổ chức, đảng viên cho các Quận mới. Đến nay Đảng bộ Quận Thủ Đức có: 49 Chi Đảng bộ cơ sở với tổng số đảng viên là 1.483 đồng chí, đảng viên khối Phường là 1.116 đồng chí, trong đó 431 đảng viên nữ (chiếm 29%), lực lượng hưu trí 654 đảng viên (chiếm 44%), đảng viên dự bị có 48 đ/c.

Ngay từ đầu, sau khi thành lập Quận, Quận uỷ đã tập trung chỉ đạo củng cố Cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng, chú trọng công tác quản lý đảng viên, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng và quy chế làm việc của Cấp uỷ. Từ đó đã lãnh đạo thực hiện liên tục và xuyên suốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, đặc biệt tổ chức hiệp thương chặt chẽ về nhân sự và lãnh đạo thắng lợi cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và bầu cử bổ sung HĐND các cấp.

- Về phân loại đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng năm 1997: thực hiện kiểm điểm phân loại đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng hàng năm đồng thời phục vụ cho yêu cầu Đại hội Đảng cơ sở và Quận, các Chi Đảng bộ cơ sở đã tiến hành kiểm điểm phân loại đảng viên, phân loại tổ chức cơ sở Đảng năm 1997. Kết quả về phân loại đảng viên: Tổng số đảng viên dự kiểm điểm phân loại là 1.216/1.483, trong đó số đảng viên loại 1: 1.060 đ/c (87,17%), số đảng viên loại 2: 151 đ/c (12,41%), số đảng viên loại 3: 03 đ/c (,024%), và số đảng viên loại 4: 02 đ/c (0,16%).

Về phân loại tổ chức cơ sở đảng đến nay có 43/49 đơn vị đã tổ chức phân loại trong đó có 37/43 Chi Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh (86,04%), có 6/43 Chi Đảng bộ đạt loại khá (13,95%) và còn 06 đơn vị chưa báo cáo kết quả phân loại.

Về Đại hội Đảng cơ sở: gắn kiểm điểm phân loại đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng với tiến hành Đại hội Đảng cấp cơ sở, đến nay có 49/49 tổ chức cơ sở Đảng tiến hành xong Đại hội (100%), trong đó có 31/49 đơn vị Đại hội 4 nội dung, 18/49 đơn vị Đại hội 3 nội dung.

Đại hội đã đóng góp ý kiến vào dự thảo báo cáo tình hình và nhiệm vụ, Đại hội Đảng bộ Quận nhiệm kỳ I năm 1998-2000 và đóng góp kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kiểm điểm sự lãnh đạo của Cấp uỷ và đề ra phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 1998-2000 của Chi Đảng bộ cơ sở.

Đồng thời Đại hội Đảng cơ sở đã bầu đủ 165 đại biểu chính thức theo quyết định phân bổ của Quận uỷ để đi dự Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận nhiệm kỳ I (1998-2000) (trong đó có 23 đ/c uỷ viên BCH Lâm thời Đảng bộ Quận là đại biểu đương nhiên).

- 31/49 đơn vị Đại hội tiến hành bầu cấp uỷ mới, đã bầu 113 UV. BCH cơ sở đúng theo số lượng hướng dẫn và đủ số lượng theo quyết định của Đại hội Chi Đảng bộ.

- Số uỷ viên lâm thời không cấu tạo lại là 7 đ/c ở 6 đơn vị, có 01 đ/c đangchuẩn bị hưu, số đ/c khác do không cần cơ cấu.

Trong 113 uỷ viên BCH cơ sở được Đại hội tín nhiệm bầu vào Cấp uỷ lần này có 25 nữ, 20 hưu trí và 36 đ/c mới. Về trình độ văn hoá: cấp I: 03 đ/c, cấp II: 08 đ/c, cấp III: 102 đ/c. Về trình độ chuyên môn: trung cấp 17 đ/c, Đại học: 40 đ/c. Tuổi đời cao nhất: 76 đ/c, thấp nhất 27 đ/c, tuổi bình quân 40,77.

Nhìn chung Đại hội Đảng cơ sở đã tiến hành đúng theo qui trình, nguyên tắc quy định (thời gian) đạt được yêu cầu chất lượng về nội dung và nhân sự theo lãnh đạo của Thành uỷ và Quận uỷ.

Song song đó, đã tăng cường công tác quản lý đảng viên và công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đã thường xuyên xem xét, đánh giá bố trí đảng viên, đồng thời xây dựng quy hoạch cán bộ, đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng lực lượng kế thừa, công tác phát triển đảng viên cũng đã tiếp tục được quan tâm, đã mở 02 lớp bồi dưỡng cho 110 đối tượng và đã kết nạp được 24 đảng viên mới (riêng Quận Thủ Đức).

Tuy đã có nhiều cố gắng, song do tình hình mới thành lập Quận nên công tác tổ chức cán bộ còn nhiều việc phải làm để sớm thật sự ổn định và vững chắc, đảm bảo ngang tầm với yêu cầu của tình hình mới.

3. Về công tác kiểm tra:

Tuy cũng mới thành lập từ Quận đến cơ sở, song 09 tháng qua công tác kiểm tra cũng đã phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, góp phần tích cực vào việc sắp xếp bố trí cán bộ, thực hiện quy chế, nguyên tắc sinh hoạt Đảng, đảm bảo việc kiểm tra đóng Đảng phí và hoạt động tài chính Đảng.

Song, cũng cần quan tâm tập trung củng cố kiện toàn Uỷ ban Kiểm tra Đảng ở Quận và lực lượng cán bộ làm công tác kiểm tra Đảng ở cơ sở, đặc biệt chú trọng việc bồi dưỡng chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ Đảng viên làm công tác kiểm tra từ Quận đến các Chi Đảng bộ cơ sở.

Ưu khuyết điểm – Nguyên nhân – Bài học kinh nghiệm

A. NHỮNG ƯU ĐIỂM – NGUYÊN NHÂN:

1/ Những ưu điểm chủ yếu:

a. Ưu điểm nổi bật là Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo hình thành bộ máy Đảng, Chính quyền, Đoàn thể cho 3 Quận mới ngay từ lúc chia tách Huyện, nhất là việc ổn định và đi vào hoạt động nhanh bộ máy Đảng, Chính quyền, Đoàn thể ngay từ 01/04/97. Từ đó đã giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, đồng thời tạo điều kiện tốt thực hiện ngay các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết của Đảng bộ Huyện trước đây và các nhiệm vụ chỉ tiêu chủ yếu do Thành phố giao.

b. Trên lĩnh vực kinh tế tiếp tục ổn định phát triển và tăng trưởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, nhiều khu công nghiệp tập trung đang đi vào giai đoạn triển khai xây dựng, nhiều chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch Thành phố giao, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng được nhiều công trình cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội, các công trình mang ý nghĩa truyền thống. Thực hiện tốt luật ngân sách, đảm bảo cân đối thu, chi ngân sách Quận, chỉ tiêu thu ngân sách đạt và vượt kế hoạch giao (đạt 115 tỷ, trong đó, riêng Quận Thủ Đức là trên 94 tỷ bằng mức thu cả năm 1995 và 75% của năm 1996 của cả Huyện Thủ Đức cũ).

c. Tiếp tục đạt nhiều kết quả khả quan trong các lĩnh vực xã hội và chính sách xã hội, đặc biệt với diện chính sách, gia đình nghèo, phát triển giáo dục Văn hoá, Y tế… thông qua các chương trình xoá đói giảm nghèo, xây dựng Nhà tình nghĩa, Nhà tình thương, các công trình xây dựng sửa chữa trong Giáo dục, Y tế, Văn hoá.

d. Công tác vận động quần chúng đã được tập trung quan tâm và thực hiện với các phương thức hoạt động phù hợp đạt được nhiều kết quả thiết thực hơn. Hoạt động của HĐND các cấp, qua kết quả bầu cử bổ sung, đã nhanh chóng được ổn định, hoạt động của bộ máy chính quyền, đoàn thể các cấp, dù trong bước đầu có khó khăn do biên chế còn thiếu song có bước tinh gọn và năng lực quản lý điều hành từng bước có mặt được nâng lên trong quá trình thực hiện cơ chế “Một cửa một dấu”.

e. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ và đội ngũ cán bộ đảng viên nói chung, của từng tổ chức cơ sở Đảng nói riêng được nâng lên đáng kể, công tác chính trị tư tưởng, tổ chức, kiểm tra đều có những chuyển biến tiến bộ mới, nhất là trong lĩnh vực bồi dưỡng mới, nhất là trong lĩnh vực bồi dưỡng đào tạo cán bộ, kiểm tra giữ gìn tăng cường kỷ cương kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước.

2/ Nguyên nhân của ưu điểm:

Từ những mặt ưu điểm tiến bộ được phân tích đánh giá nêu trên, chúng ta có thể rút ra vấn đề vừa là nguyên nhân của thành tựu, vừa mang tình chất bài học thực tiễn sau đây:

a. Trước hết là xuất phát từ các Nghị quyết, Chỉ thị, chủ trương đúng đắn của Trung ương, sự vận dụng sáng tạo và chỉ đạo giúp đỡ kịp thời của Thành uỷ, UBND và các Sở, ban ngành Thành phố.

b. Kiên định niềm tin, đoàn kết quyết tâm là nhân tố quyết định những kết quả đạt được trong 09 tháng qua: với sự kiện chia tách, thành lập Quận diễn ra rất nhanh hầu như chưa kịp chuẩn bị, đồng thời lại phải bắt tay ngay vào một công tác lớn căng thẳng nhiều ngày là tổ chức bầu cử và phải phấn đấu giữ vững, nâng cao các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội đề ra từ đầu năm, nhưng chúng ta đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ trên giao. Kết quả đó là do chúng ta kiên định niềm tin đối với sự lãnh đạo của TW và Thành uỷ, đồng thời ngay từ đầu chúng ta đã thật sự quan tâm đến vấn đề phải nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, giữ vững sự đoàn kết thống nhất nội bộ trong Đảng, Chính quyền, Mặt trận, Đoàn thể và ra sức quyết tâm thực hiện đẩy mạnh các mặt hoạt động thực tiễn, chúng ta đã suy nghĩ và hành động đúng như vậy, nên kết quả đạt được là tất yếu.

c. Mọi suy nghĩ và hành động phải xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân: Thực tiễn những nội dung công việc chúng ta làm được đều nhằm phục vụ những yêu cầu bức xúc chính đáng của nhân dân, nên đã được nhân dân đồng tình ủng hộ. Bài học đó một lần nữa khẳng định, sáng tỏ như một chân lý.

d. Sự gắn bó tin tưởng giữa Đảng, Chính quyền, Mặt trận, Đoàn thể với nhân dân là sức mạnh của mọi thắng lợi: bài học này đã được đúc kết, nêu rõ ở Đại hội - Đại biểu Đảng bộ Huyện Thủ Đức lần thứ VII đến nay vẫn còn nguyên giá trị khi chúng ta áp dụng vào thực tiễn của Quận trong thời gian qua và có thể nói là mãi mãi sau này nếu thực hiện đúng mối quan hệ gắn bó hữu cơ đó đều sẽ tạo ra những động cơ, sức mạnh cho mọi thành quả đạt được.

B. NHỮNG TỒN TẠI KHUYẾT ĐIỂM – NGUYÊN NHÂN:

1/ Những tồn tại chủ yếu:

Trong quá trình hoạt động của Quận mới từ 01/4/97, tuy trong một thời gian ngắn, song cũng đã nổi lên nhiều vấn đề tồn tại lớn như sau:

a. SXKD phát triển, song so với tiềm năng và thế mạnh trên địa bàn thì tốc độ tăng trưởng chưa cao, nhiều khu công nghiệp và khu du dịch vụ tập trung đã được xác định và duyệt quy hoạch chung song chậm được triển khai.

- Công tác chỉnh sửa quy hoạch tổng thể và xác định khu trung tâm Quận mới chậm được hoàn chỉnh và pháp lý hoá, nhất là công tác triển khai quy hoạch chi tiết trên địa bàn chưa được triển khai đồng bộ và ở diện rộng.

- Cơ sở hạ tầng nhìn chung còn yếu kém so với yêu cầu của một Quận đô thị; việc đầu tư hàng năm từ nguồn ngân sách nhà nước (nhất là Thành phố) chưa đáp ứng và chưa tương xứng với yêu cầu mở rộng và phát triển đô thị hoá trên địa bàn.

- Nguồn thu ngân sách trên địa bàn Quận hàng năm đều tăng khá (bình quân 25%), nhưng về cơ chế hiện nay Thành phố vẫn chỉ bố trí trong kế hoạch chi ngân sách Quận, chủ yếu là chi quản lý Nhà nước, duy tu sửa chữa nhỏ, thiếu hẳn nguồn đầu tư phát triển.

b. Cơ sở vật chất cho các ngành giáo dục, Y tế còn hạn chế nhất là còn 4 Phường, chưa có trạm Y tế, một số Phường chưa có được trường THCS (Linh Trung, Linh Đông, Bình Chiểu, Linh Tây).

Việc gia tăng dân số cơ học nhanh, tình hình phát triển nhà trọ trên địa bàn phát triển nhanh song các biện pháp quản lý còn rất hạn chế.

c. Tình hình phạm pháp hình sự, trộm cắp, tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn và giải quyết triệt để. Trình trạng san lắp mặt bằng và xây dựng không phép, lấn chiếm lòng lề đường diễn ra khá phức tạp, cần có biện pháp chấn chỉnh mạnh trong thời gian tới.

2. Nguyên nhân của các tồn tại - khuyết điểm:

a. Về khách quan:

- Trong quá trình xây dựng và phát triển một Huyện chia tách, thành lập Quận mới, chỉ mới trong một khoảng thời gian ngắn (09 tháng), vì vậy các vấn đề tồn tại về cơ sở hạ tầng thấp kém, bộ máy quản lý chưa được hoàn thiện và chưa xoay chuyển kịp với tình hình quản lý một Quận đô thị, đó là tất yếu không tránh khỏi.

- Mặt khác khi thành lập Quận mới đi ngay vào thực hiện cơ chế “Một cửa, một dấu”, vì vậy trong thời gian ban đầu nhiều mặt về tổ chức thực hiện, quá trình giải quyết công cụ còn chưa được nhuần nhuyễn.

b. Về chủ quan:

- Nhiệm vụ xây dựng từ một Huyện thành một Quận rất nặng nề và đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, song về cơ chế hiện nay Thành phố cân đối mức độ đầu tư cũng như bố trí chi Ngân sách Quận, về cơ bản như Huyện cũ (qua kế hoạch chi ngân sách 09 tháng cuối năm 97 và dự toán chi 1998 được Thành phố giao).

- Bộ máy và biên chế cấp Quận còn thiếu so với yêu cầu và so với quy định, mô hình tổ chức điều hành ở cơ sở cấp Xã, Ấp chuyển sang cấp Phường, Khu phố còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế nhân sự, biên chế, mô hình tổ chức hoạt động.

Qua những ưu điểm thành tựu, những khuyết điểm tồn tại và nguyên nhân cùng với những bài học kinh nghiệm nêu trên trong quá trình hoạt động qua 09 tháng cuối năm 1997 của Quận mới, đó là những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đổi mới trong thời gian tới của Đảng bộ Quận. Với sự tập trung trí tuệ cao độ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận nhiệm kỳ I, chúng ta tin tưởng rằng, Đại hội sẽ tiếp tục đề ra những giải pháp tích cực phù hợp, khắc phục khó khăn và tận dụng thuận lợi, đưa quận Thủ Đức đi lên quá trình phát triển công nghiệp hóa hiện đại hoá một cách tích cực và vững chắc.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ NĂM 1998-2000

Trong 3 năm tới tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, các Nghị quyết của BCHTW (Khoá 8), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI và Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng bộ Huyện Thủ Đức trước đây với tinh thần kế thừa và phát triển phù hợp với đặc điểm tình hình và yêu cầu nhiệm vụ mới của Quận Thủ Đức hiện nay. Bên cạnh sự tác động sâu sắc bởi bối cảnh chung (Quốc tế và trong nước) như Trung ương và Thành uỷ đã nhận định, đánh giá Quận Thủ Đức còn có những thuận lợi cơ bản và những khó khăn chủ yếu như sau:

Về thuận lợi:

1. Theo quy hoạch tổng thể đến năm 2010 cua Thành phố: Quận Thủ Đức được xác định là địa bàn trọng điểm tập trung mở rộng đô thị, phát triển dân cư, công nghiệp, thương nghiệp, văn hoá, thể dục thể thao, đào tạo và dịch vụ du lịch, có hệ thống hạ tầng kỹ thuật đầu mối quan trọng về giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, điện nước… Trước mắt từ nay đến năm 2000, ngoài khu chế xuất Linh Trung, Khu công nghiệp Bình Chiểu (28 ha) và một phần Khu Đại học Quốc gia (800 ha) đã hình thành và đi vào hoạt động, sẽ tiếp tục triển khai các dự án xây dựng Khu công nghiệp Bắc Thủ Đức (quy mô đợt 1: 72 ha) ở Linh Xuân, Khu công nghiệp kho tàng và khu dân cư Hiệp Bình Phước (70 ha), 3 khu công nghiệp tập trung mỗi khu trên 60 ha ở Bình Chiểu, chợ đầu mối Tam Bình (24 ha), hoàn thành khu du lịch Bình Qưới Linh Đông, mở rộng xa lộ vành đai, xa lộ Hà Nội, nâng cấp đường sắt Quốc lộ 1, xây mới xa lộ vành đai trong từ ngã tư Gò Dưa Tam Bình qua xa lộ Hà Nội đến Quận 9, Quận 2, xây dựng các chung cư ở Trường Thọ, Linh Xuân, Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Bình Chiểu đã giãn dân ở các Quận nội thành ra (mỗi năm bình quân 4 vạn người) xây dựng mới trường Trung học Phổ thông Tam Phú và 05 Trường Trung học cơ sở ở 5 phường.

2. Là một Quận mới tách từ Huyện Thủ Đức anh hùng, Đảng bộ và nhân dân có truyền thống đấu tranh giành độc lập, đoàn kết nhất trí cao, có ý thức tự lực tự cường và chủ động sáng tạo, có sự kiên định niềm tin và quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng; đồng thời có kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng; đồng thời có kinh nghiệm thực tiễn để thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu của nhiệm kỳ I (1998-2000).

2. Song song đó trên lĩnh vực công tác xây dựng Đảng cũng có nhiều thuận lợi cơ bản như Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, các NQ Hội nghị BCHTW (Khóa 8) và NQ Đại hội Đảng thành phố (khóa 6), NQ Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VII đã được Quận uỷ cụ thể hóa thành các chỉ thị, Nghị quyết chương trình hành động sát hợp với tình hình thực tiễn và nguyện vọng chính đáng của nhân dân,... từ đó Đảng bộ và nhân dân Quận đã khắc phục được nhiều khó khăn thử thách, qua gần một năm chỉ đạo tổ chức thực hiện tuy vẫn còn không ít mặt tồn tại thiếu sót nhưng đã tiếp tục tạo ra bước chuyển biến tích cực tạo ra bước chuyển biến tích cực trên từng lĩnh vực: Kinh tế ổn định và có mức tăng trưởng, sự nghiệp Giáo dục, Y tế, Văn hóa có nhiều tiến bộ, an ninh quốc phòng được giữ vững, hệ thống chính trị từng bước được củng cố kiện toàn, đời sống và lòng tin của nhân dân tiếp tục được nâng lên rõ rệt.

Về khó khăn

Song song với những thuận lợi cơ bản trên, Quận còn có những tồn tại khó khăn và những thách thức lớn phải nỗ lực vượt qua, nổi lên có những vấn đề sau:

1. Là một Quận được định hướng đến năm 2010 hình thành đô thị loại 2. Trong những năm trước mắt tập trung hình thành đô thị loại 3 là loại đô thị trung bình lớn, trung tâm văn hóa xã hội, là nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ du lịch, có vai trò thúc đẩy sự phát triển nhiều lĩnh vực quan trọng của Thành phố. Đối với những vùng lãnh thổ, dân số từ 20 vạn đến 35 vạn người, sản xuất hàng hóa tương đối phát triển, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên trong tổng số lao động, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng nhiều mặt, mật độ dân cư bình quân 10.000 người/km2. Nhìn vào thực trạng hiện nay, phần lớn các phường của Quận vẫn mang đậm nét nông thôn, nhà cửa rải rác, đường đất chật hẹp, có vùng thiếu điện nước sinh hoạt, trường lớp chưa đạt theo tiêu chuẩn quy định, chưa có các Trung tâm sinh hoạt văn hóa - thể dục thể thao lớn, mặt bằng dân trí còn thấp, lao động chủ yếu là nghề nông, buôn bán nhỏ, thủ công đơn giản. Ngay một số phường hình thành tự Thị trấn trước đây, ngoài 1 số xí nghiệp, nhà máy của Trung ương – Thành phố quản lý, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp có phát triển nhưng ở qui mô nhỏ và phân tán, các chợ ở trung tâm và một số đường chính vừa hẹp vừa xuống cấp nghiêm trọng và nhiều khu dân cư cây dựng tương đối khá nhưng lại thiếu triển khai các mặt quy hoạch đồng bộ. Với hiện trạng đó, muốn chỉnh trang lại các phường ở Trung tâm, xây dựng phát triển các phường bán nông bán đô thị và các phường hoàn toàn là nông thôn trở thành những phường của một Quận đạt các tiêu chuẩn của một đô thị loại 3 như trên là một thử thách, khó khăn không nhỏ của Đảng bộ và nhân dân Quận Thủ Đức hiện nay.

2. Quá trình triển khai thực hiện các dự án, công trình của Trung 0ơng, Thành phố là quá trình thay đổi bộ mặt nông thôn của Quận, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đi lên nhiều mặt của Quận và nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân, song trong từng công trình được triển khai cũng sẽ có những diễn biến phức tạp, nhất là trong việc giải tỏa đền bù, trong vấn đề di dời tái bố trí định cư, ổn định tâm tư tình cảm, cuộc sống và chuyển dịch cơ cấu lao động và ngành nghề, giải quyết việc làm cho nhân dân... đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền từ Quận đến các phường phải tập trung trí tuệ và công sức, thời gian khá lớn.

3. Để lãnh đạo, tổ chức thực hiện và quản lý tốt địa bàn Quận có nhiều mặt phát triển diễn ra sôi động với tốc độ khá nhanh chuyển đổi từ Huyện lên Quận; đồng thời để giữ vững sự ổn định chính trị, an ninh quốc phòng của Thành phố, đòi hỏi Đảng bộ, Chính quyền, Mặt trận đoàn thể các cấp và từng cán bộ Đảng viên, công nhân viên chức, đoàn viên, hội viên phải tiếp tục phấn đấu vươn lên nhiều mặt về phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo quản lý và tổ chức thực hiện.

Từ những thuận lợi, khó khăn và những dự đoán tình hình được phân tích, nhận định nêu trên, căn cứ vào những thành tựu, tồn tại trong thời gian qua và các Nghị quyết của Trung ương, Thành uỷ và Huyện uỷ Thủ Đức trước đây đề ra trong giai đoạn 5 năm (1996-2000), giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở kiểm điểm đánh giá ưu khuyết điểm thực hiện NQ Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ 7 trước đây với tinh thần kế thừa, đặc biệt là NQ năm 1997 của Quận uỷ Thủ Đức, trong 3 năm tới từ 1998 đến 2000; Đảng bộ và nhân dân Quận Thủ Đức nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu và cụ thể sau đây:

I. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT ĐẾN NĂM 2000

“Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, tập trung sức chỉ đạo huy động tốt mọi tiềm năng, nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, bước đầu hình thành các khu tái định cư, đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa phát triển kinh tế với các vấn đề văn hóa – xã hội, môi sinh môi trường, an ninh quốc phòng, nâng dần mức sống của nhân dân, xây dựng chính quyền vững mạnh, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chánh, nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ đảng viên, đảm bảo chỉ đạo thực hiện đạt và vượt các mục tiêu đề ra đến năm 2000, tạo tiền đề vững chắc cho các bước phát triển của Quận trong những năm đầu của thế kỷ 21”, các nhiệm vụ đó là:

1/ Trên lĩnh vực kinh tế:

Tạo ra sự chuyển dịch rõ rệt về cơ cấu kinh tế “Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Thương mại dịch vụ, du lịch và nông nghiệp”. Thực hiện tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 15-16%, thu nhập bình quân đầu người tăng 10% (720 USD/ người năm 2000); Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản 268-275 tỷ đồng; thu ngân sách đạt 154-160 tỳ đồng vào năm 2000.

2/ Về đời sống xã hội:

Nâng vốn “chống tái đói, giảm nghèo” đến năm 2000 lên 6 tỷ đồng (tăng 55%), phấn đấu đưa 50% số hộ được trợ vốn vươn lên mức sống khá, cơ bản các gia đình chính sách có mức sống bằng mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn và cơ bản đến năm 2000 chỉ còn 5% số hộ trong diện XĐGN theo chỉ đạo của Trung ương; hoàn thành điện khí hóa toàn Quận, đảm bảo đủ nước sạch phục vụ sinh hoạt của nhân dân; nhựa hóa các đường đất đỏ liên phường hiện nay, đổi mới bộ mặt trung tâm Quận, đảm bảo đủ trường lớp và hoàn thành phổ cập Trung học cơ sở, thực hiện giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới mức 1,4%, căn bản giải quyết tốt tình trạng ô nhiễm môi sinh, môi trường, từng bước xây dựng nếp sống văn minh đô thị.

3/ Về an ninh quốc phòng:

- Quán triệt các quan điểm của Đảng, tập trung mọi nỗ lực chăm lo, củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững sự ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Phát triển sâu rộng phong trào “Bảo vệ an ninh Tổ quốc” và xây dựng nền quốc phòng toàn dân”, giải quyết có hiệu quả việc truy quét các băng nhóm tội phạm chính trị, hình sự và đẩy lùi rõ rệt các tệ nạn xã hội.

4/ Về xây dựng hệ thống chính trị:

Xây dựng Đảng bộ Quận đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và đồng bộ của Đảng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đến năm 2000 cơ bản không còn chi, đảng bộ cơ sở yếu kém. Đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chánh của chính quyền các cấp ở Quận. Phấn đấu xây dựng tổ chức, bộ máy chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể từ Quận đến Phường vững mạnh, vươn lên ngang tầm tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

II. NHỮNG NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CỤ THỂ TRÊN TỪNG LĨNH VỰC:

1. Trên lĩnh vực kinh tế:

a/ Sản xuất công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp

Phấn đấu thực hiện giá trị tổng sản lượng toàn ngành hàng năm tăng bình quân 16,20% đến năm 2000 đạt mức 350 tỷ đồng (theo giá so sánh 94). Trong đó kinh tế quốc doanh tăng 5%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 16,5%.

Giải pháp chủ yếu

- Tập trung kêu gọi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn.

- Tập trung nâng cao năng lực quản lý và đầu tư trang bị kỹ thuật công nghệ mới cho các đơn vị Công nghiệp quốc doanh (Xí nghiệp Chế biến thực phẩm, Cty phát triển Nhà và Dịch vụ KCN...) Kiến nghị Thành phố chuyển Công ty Công trình giao thông và Đội Dịch vụ công cộng thành các đơn vị xí nghiệp công ích. Từng bước mở rộng tăng thêm năng lực, hiệu quả sản xuất cho kinh tế quốc doanh nhằm khai thác và phát huy tốt các tiềm năng thế mạnh (mặt bằng đất đai, dịch vụ san lấp, Dịch vụ du lịch).

- Song song đó không ngừng tăng cường công tác quản lý của nhà nước nhằm đưa các thành phần kinh tế phát triển đúng hướng, quy hoạch và đúng pháp luật.

- Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển theo định hướng quy hoạch đã xác định trên địa bàn Quận.

b/ Về Thương mại - Dịch vụ xuất nhập khẩu

Thực hiện tổng doanh thu toàn ngành thương mại, dịch vụ năm 2000 đạt 1800 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 30%. Trong đó Thương mại dịch vụ quốc doanh và thương nghiệp HTX đạt 90 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 5% trên doanh thu toàn ngành. Phấn đấu thực hiện tổng kim ngạch xuất khẩu và dịch vụ thu ngoại tệ năm 2000 đạt 12,55 triệu USD, tăng bình quân hàng năm 17%, trong đó khối doanh nghiệp nhà nước đạt 1 triệu USD.

Giải pháp chủ yếu:

- Kiến nghị Thành phố bổ sung thêm chức năng kinh doanh thương mại và xuất nhập khẩu cho Cty dịch vụ du lịch Quận, phát triển mở rộng các hoạt động của ngành dịch vụ du lịch.

- Tăng cường đầu tư hoạt động của Thương mại, dịch vụ nhà nước, đặc biệt chú trọng các ngành hàng đang có nhu cầu thị trường lớn trên địa bàn (sản phẩm VLXD, dịch vụ và sản phẩm phục vụ nông nghiệp, hàng tiêu dùng...).

- Tiếp tục tăng cường cán bộ, nâng cao trình độ điều hành quản lý đội ngũ Ban giám đốc đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ.

- Tập trung triển khai dự án chợ đầu mối của Thành phố (thuộc địa bàn phường Tam Bình (24 ha) xem xét hình thành 1-2 trung tâm siêu thị ở các khu dân cư tập trung, chỉnh trang nâng cấp chợ Thủ Đức B (đủ chỗ cho Chợ Thủ Đức A dời sang), mặt bằng nền chợ A sẽ tạo thành 1 khu công viên của Quận.

c/ Sản xuất nông nghiệp

Do đặc điểm về quy hoạch phát triển đô thị hóa, trước mắt vẫn duy trì sản xuất nông nghiệp nhưng có sự điều chỉnh và thay đổi về cơ cấu giữa chăn nuôi và trồng trọt, cũng như cơ cấu vật nuôi cây trồng. Giá trị sản lượng nông nghiệp đến năm 2000 đạt mức 40-41 tỷ đồng (giá cố định 94), giảm 2,5% so năm 1997, trong đó ngành chăn nuôi tăng 10%, trồng trọt giảm 10,47%, diện tích gieo trồng lúa còn 320 ha, sản lượng lúa 1025 tấn, diện tích gieo trồng lúa còn 50 ha trồng hoa kiểng, bò sữa 970-1000 con, đàn heo 7500-8000 con.

Giải pháp chủ yếu:

- Chuyển các vùng lúa năng suất thấp bấp bênh ở những khu vực theo quy hoạch là dân cư sang sản xuất cây ăn trái, cây hoa kiểng để làm cơ sở cho việc đầu tư thâm canh, đầu tư thuỷ lợi bờ bao kết hợp với giao thông nông thôn. Đồng thời, quan tâm phát triển các mảng xanh, các thảm thực vật kết hợp công viên, khu du lịch... đảm bảo cho việc phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái cho từng phường và khu vực. Mặt khác, tạo điều kiện thu hút và phát triển các cơ sở sản xuất và nhân giống mới.

Về chăn nuôi: Tiếp tục giải quyết tốt khâu giống, kỹ thuật và lưu ý yêu cầu bảo vệ môi sinh môi trường. Ngoài đàn heo, bò sữa, hướng dẫn khuyến khích đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản, cá kiểng, cá sấu... vừa có giá trị kinh tế cao vừa phù hợp với xu thế phát triển đô thị hóa trên địa bàn.

- Tiếp tục thực hiện tốt công tác thuỷ lợi bờ bao, thuỷ lợi nội đồng kết hợp với giao thông nông thôn, giải quyết vấn đề úng lụt và ô nhiễm trên địa bàn sản xuất nông nghiệp và khu dân cư, trước mắt năm 1998 tập trung triển khai dự án nạo vét thượng nguồn rạch Gò Dưa, thuỷ lợi nội đồng Cây sộp ấp 1 Hiệp Bình Phước, Khu Bình Phú, Tam Phú.

- Tiếp tục củng cố tạo điều kiện cho các HTX nông nghiệp hiện có nâng cao hiệu quả sản xuất, đồng thời thực hiện tốt hơn nữa các chương trình cho vay trợ vốn (từ ngân hàng, quỹ XĐGN, quỹ dự án nhỏ, 1 phần từ ngân sách...) cho việc nghiên cứu nhân giống, cải tạo vườn tạp, phát triển vườn hoa kiểng.

- Hoàn thành cơ bản cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân.

- Có kế hoạch và biện pháp tổ chức thực hiện về công tác phòng chống lụt bão.

d/ Về ngân sách tài chính

Trên cơ sở các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm, phấn đấu đạt tốc độ thu ngân sách nhà nước bình quân tăng 20-25% năm, đến năm 2000 đạt mức tối thiểu 160 tỷ đồng, đồng thời để đảm bảo cho các yêu cầu chi thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, bình quân mỗi năm ngân sách Quận phải đảm bảo mức chi tối thiểu là 30 tỷ đồng.

Giải pháp chủ yếu

- Thực hiện tốt các yêu cầu của Luật ngân sách, huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách, chống thất thu, chiếm dụng nguồn thu, các nợ tồn đọng ngân sách.

- Đẩy mạnh việc vận động sự đóng góp của các cơ sở kinh tế, nhân dân về xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn.

- Điều hành tốt chi ngân sách, quản lý chật chẽ và sử dụng hiệu quả các nguồn chi ngân sách Quận, tăng cường và củng cố bộ phận quản lý công sản, điều tra lại và quản lý đất công nhà nước chặt chẽ và hiệu quả nhất

- Tiếp tục thực hiện tiết kiệm 5% ngân sách nhà nước về chi hành chánh để điều tiết cho quỹ XĐGN và sửa chữa trường lớp.

e/ Đầu tư XDCB và kết cấu hạ tầng

Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu kinh tế - xã hội của Quận đề ra trong 3 năm 1998-2000, cần có tổng mức vốn đầu tư tối thiểu 268-275 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 30-40%. Trong đó vốn ngân sách Thành phố 149 tỷ đồng, vốn ngân sách Quận từ 25-27 tỷ đồng, vốn phụ thu tiền điện 25 tỷ đồng, vốn phụ thu nước 6-8 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp Nhà nước Quận và vay Ngân hàng, vay quỹ bán nhà sở hữu nhà nước 55-60 tỷ đồng.

Các công trình trọng điểm trong 3 năm 1998-2000

* 03 công trình chuyển tiếp: 2 đường giao thông Bình Chiểu, đường Khu làng Đại học (phường Bình Thọ) và Trường Mẫu giáo Vành Khuyên.

* Điện khí hóa 05 phường: Tam Phú, Hiệp Bình Chánh, Linh Trung, Linh Đông và Linh Xuân – hoàn thành điện khí hóa toàn quận.

* Phát triển mới 8-10 km đường ống dẫn nước máy phục vụ dân cư phường Linh Chiểu, Linh Trung ở dọc đường Hoàng Diệu II, đường Linh Đông, dọc trục quốc lộ 13 và quốc lộ 1, đường liên tỉnh lộ 43...

* Tiếp tục đầu tư cho công trình Trung tâm văn hóa Thanh thiếu niên, mở rộng xây thêm 1 số công trình mới cho trung tâm TDTT Quận.

* Xây dựng mới các trường PTTH Tam Phú, Trường Trung học cơ sở chất lượng cao, Trường Trung học cơ sở Từ Đức, Linh Trung, Linh Đông, Bình Chiểu, Linh Tây, đồng thời tiếp tục đầu tư trang bị cho TTDN và nâng lên thành Trung tâm đào tạo dạy nghề của khu vực với mức đầu tư 6-8 tỷ đồng.

* Xây dựng mới 04 trạm y tế cho 04 phường: Bình Thọ, Linh Chiểu, Linh Tây, Bình Chiểu.

Nâng cấp nhựa hóa phần lớn các đường liên phường (Tam Phú, Hiệp Bình Chánh, Linh trung, Linh Chiểu, Linh Tây, Trường Thọ...)

* Nạo vét rạch Gò Dưa.

* Mở rộng và nâng cấp chợ Thủ Đức B và xây dựng một công viên của Quận.

* Xây dựng mới thư viện Quận và một số khu sinh hoạt văn hóa ở các phường (đảm bảo 70-80% các phường lên quy hoạch chi tiết và xây dựng Khu sinh hoạt văn hóa cho thanh thiếu niên).

* San lấp mặt bằng và từng bước xây dựng Khu Trung tâm hành chánh mới và Thương mại dịch vụ của Quận (ở Linh Đông – Tam Phú).

* Bảo đảm từ nay đến năm 2000: đầu tư sửa chữa nâng cấp và xây dựng Hội trường cho trung tâm BDCT Quận.

2. Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội

Cùng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong 3 năm tới, Quận cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề văn hóa – xã hội theo tinh thần NQ.TW4 (khóa 7), đặc biệt thực hiện tốt hơn nữa tinh thần NQ.TW2 (khóa 8) và chương trình hành động của Thành uỷ về “Giáo dục đào tạo và khoa học Công nghệ”, trong đó tập trung đẩy mạnh giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo dạy nghề, giải quyết tốt việc làm cho người lao động và phấn đấu hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” “Xóa đói giảm nghèo” “Bảo trợ học đường”, giáo dục tuyên truyền sâu rộng nếp sống văn minh đô thị, bảo vệ môi sinh môi trường, tiếp tục nâng cao hiệu quả các hoạt động văiệt nam hoá thông tin –TDTT, các chương trình Y tế và Dân số KHHGĐ. Cụ thể đảm bảo thực hiện tốt các nội dung công việc sau đây:

a/ Về giáo dục đào tạo:

“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là nhằm đưa học vấn trong nhân dân ngày càng cao đồng thời nhằm xây dựng một lớp người quản lý và lãnh đạo, một đội ngũ chuyên viên khoa học giỏi, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để từng bước thực hiện tốt mục tiêu đó, cần tập trung thực hiện NQ.TW2 (khoá 8), chương trình hành động của Thành ủy, Quận ủy về “Giáo dục và đào tạo”, tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục, đa dạng hoá trường hợp, coi trọng cả 03 mặt: mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả xây dựng đủ trường lớp theo yêu cầu. Tiếp tục duy trì kết quả về hoàn thành xoá mù chữ và phổ cập tiểu học, phấn đấu đến năm 2000: 90% trẻ 5 tuổi được học mẫu giáo, 100% trẻ 6 tuổi vào lớp 1, 98% học sinh học hết lớp 5 vào học lớp 6. HIệu suất đào tạo tiểu học 90%. Trung học cơ sở 80%, phấn đấu đưa một số trường tiểu học có đủ điều kiện học 2 buổi/1 ngày, 100% được học đủ các môn theo qui định. Đạt chuẩn quốc gia về phổ cập Trung học cơ sở, phổ cập PTTH cho công nhân công nghiệp; đồng thời 100% giáo viên phổ thông đạt chuẩn. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của các loại trường điểm chất lượng cao.

Bồi dưỡng, đạo đức, xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ngành đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Tiếp tục huy động các nguồn lực để nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp các ngành học và chăm lo đời sống, ổn định đội ngũ giáo viên. Cùng với việc học tập văn hóa, từng lớp, từng trường phải coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện thân thể, giáo dục lòng yêu nước, giáo dục chính trị, nuôi dưỡng hoài bão lý tưởng vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,

- Đồng thời chú ý tỷ lệ phát triển hình thức bán công, dân lập, tư thục đối với giáo dục mầm non, tiểu học và THCS trên địa bàn.

Trung tâm dạy nghề của Quận: Trong 3 năm tới cần mở rộng phát triển đúng mức nhằm vươn tới là một Trung tâm dạy nghề của khu vực (gồm 03 Quận mới của Huyện Thủ Đức cũ và các Huyện thuộc tỉnh Bình Dương, Đồng Nai nơi che dấu đùm bọc cán bộ, Đảng viên của Thủ Đức trong 02 cuộc kháng chiến trước đây) để đủ sức đào tạo dạy nghề đáp ứng nhu cầu của Khu chế xuất và các Khu công nghiệp phát triển trên địa bàn Quận. Trong 3 năm 1998-2000 đầu tư thêm trang thiết bị dạy nghề với kinh phí từ 6-8 tỷ đồng. Đảm bảo mỗi năm đào tạo được tối thiểu 2000 công nhân có tay nghề bậc 3/7 với nhiều loại hình có nhu cầu trên địa bàn.

b/ Về chính sách xã hội và nâng cao đờì sống nhân dân

- Về dân số: Phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên trên địa bàn Quận đến năm 2000 còn dưới mức 1,4%. Để thực hiện được chỉ tiêu này cần tiếp tục đưa công tác giáo dục dân số đến tận tổ dân phố, từng gia đình và các Trường phổ thông, mặt khác cùng với nguồn kinh phí của Thành phố, nguồn tài trợ của các tổ chức nhân đạo, cá nhân hảo tâm, ngân sách Quận cần tăng mức đầu tư thỏa đáng. Đặc biệt cần tiếp tục giáo dục và xử lú đúng mức đối với cán bộ đảng viên, công nhân viên chức nhà nước vi phạm qui định đã ban hành.

- Về giải quyết việc làm: Với lợi thế là địa bàn phát triển nhiều khu công nghiệp tập trung, Quận phải là nơi cung ứng chủ yếu lực lượng lao động cho các đơn vị kinh tế hình thành trên địa bàn. Trên cơ sở tập trung đào tạo của Trung tâm dạy nghề Quận và các cơ sở dạy nghề của Trung ương, Thành phố, tư nhân nằm trong Quận, từ đó mỗi năm phấn đấu giải quyết 8000-10000 lao động có việc làm ổn định.

- Về chương trình nhà ở: Thực hiện xong cơ bản việc bán nhà thuộc sở hữu nhà nước (bán mỗi năm 250-300 căn); Cty phát triển nhà và dịch vụ khu CN Quận phấn đấu xây dựng mới đến năm 2000 từ 300-350 căn, hoàn thành cơ bản khu nhà ở: Linh Tây, Khu Trường An, Bình Chiểu, Hiệp Bình Chánh, Linh Trung, Linh Xuân... Bên cạnh đó, tiến hành xây dựng nhà cho thuê cho các đối tượng công nhân lao động, sinh viên học sinh (khu Đại học Quốc gia và các khu công nghiệp trên địa bàn) thuê.

- Về chương trình nước sinh hoạt: Xây dựng thêm giếng công nghiệp và hệ thống lắng lọc nước cho một số khu vực thuộc các phường Bình Chiểu, Hiệp Bình Chánh, Linh Đông và nước máy cho các trục giao thông chính và cơ bản ở các khu vực dân cư ở Linh Trung, Linh Chiểu, Linh Đông, Hiệp Bình Chánh, Trường Thọ...

- Về chương trình XĐGN: Tiếp tục phát huy thành quả 5 năm qua, trong 3 năm tới phấn đấu nâng quỹ vốn XĐGN lên 6 tỷ đồng và trợ vốn thêm cho 1000 hộ trong chương trình. Đặc biệt hoàn thành chương trình xoá vùng nghèo (ấp I Hiệp Bình Phước) và cơ bản nâng đời sống diện gia đình chính sách ở Bình Chiểu đạt và vượt mức kế hoạch đề ra; bằng nhiều biện pháp trợ giúp đảm bảo 50% các hộ trong chương trình được trợ vốn đến năm 2000 có mức sống khá và cơ bản đến năm 2000 chỉ còn 5% số hộ trong diện XĐGN theo chỉ đạo của TW; vận động xây dựng sửa chữa từ 120-150 căn nhà tình thương.

- Về môi sinh môi trường: Đây là vấn đề cần được quan tâm trong quá trình phát triển đô thị hóa trên địa bàn. Kiến nghị thành phố kiên quyết xử lý các cơ sở kinh tế gây ô nhiễm (hiện có trên 20 địa chỉ đen). Tập trung giải quyết triệt để các xí nghiệp, nhà máy hiện hữu gây ô nhiễm nghiêm trọng trên địa bàn (tập trung ở phường Trường Thọ, Bình Chiểu, Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Linh Xuân), đồng thời có kế hoạch giải quyết các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm (sản xuất bột mì, đúc gang) ở một số phường. Đặc biệt phát động liên tục và sâu rộng trong nhân dân phong trào làm sạch đẹp xóm phường, đường phố, tổ chức lực lượng trang bị phương tiện kỹ thuật để giải quyết tốt vấn đề rác (công nghiệp, dân cư, T tế) trên địa bàn. Đến năm 2000 cơ bản các hộ dân đăng ký đổ rác trong hệ thống thu gom rác dân lập.

- Thực hiện chính sách xã hội: Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt pháp lệnh “Về người có công với nước”, nâng cao chất lượng các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, chăm sóc các đối tượng chính sách. Phấn đấu đến năm 2000 vận động xây dựng 120-150 căn nhà tình nghĩa (diện mở rộng) sửa chữa 80-100 căn, trao tặng 150 sổ tiết kiệm, xây dựng quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, từ 1 đến 1,2 tỷ đồng để có điều kiện chăm lo thường xuyên cho các đối tượng chính sách, cơ bản vận động giúp đỡ con em gia đình chính sách được học chữ, học nghề và có việc làm.

c/ Về chăm sóc sức khỏe nhân dân:

Tiếp tục tăng cường chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe ban đầu. Đảm bảo 85% trẻ em được tiêm chủng 6 loại vắc-xin phòng bệnh, 100% trẻ từ 0-5 tuổi uống vắc-xin chống bại liệt, 90% phụ nữ có thai được tiêm ngừa uốn ván. Đẩy mạnh công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em, cơ bản loại trừ bệnh phong bại liệt, uốn ván, hạ thấp tỷ lệ sốt rét; tích cực tuyên truyền phòng chống HIV-AIDS, chống suy dinh dưỡng trong trẻ em, nâng cao tuổi thọ cho người già. Khuyến khích hoạt động đông y và kết hợp đông – tây y một cách phù hợp. Tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo nâng cao chất lượng chuyên môn và giáo dục Y đức cho cán bộ y tế; quy hoạch và quản lý chặt chẽ ngành Y - được trên địa bàn, đặc biệt là hoạt động của y tế tư nhân. Tiếp tục thực hiện chính sách miễn giảm việiệt nam phí cho các đối tượng bệnh nhân nghèo. Tăng cường trang thiết bị nâng cấp cơ sở, thêm giường cho bệnh viện Quận để đủ sức khám và điều trị bệnh cho 630-650 ngàn lượt người/ 1 năm, trong đó bệnh nhân nội trú từ 12-15 ngàn người/năm. Xây dựng và triển khai đề án xã hội hóa chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.

d/ Hoạt động VHTT – TDTT

Tiếp tục quan tâm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, kiến thức văiệt nam hóa, sức cảm thụ thẩm mỹ hướng vào mục tiêu xây dựng và bảo vệ Quận, bảo vệ thành phố và đất nước, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, chống văn hóa độc hại phải đi đôi với giữ gìn phát triển văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa phong trào văn nghệ quần chúng, xây dựng tổ chức hoạt động văn hóa cơ sở.

Tuyên truyền phổ biến kịp thời các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước đến các tầng lớp nhân dân, tuyên truyền nhân rộng các tập thể, ca 1nhân sản xuất có những việc làm tốt, bám sát triển khai tốt các nhiệm vụ của địa phương, phục vụ tốt các đợt sinh hoạt chính trị, các ngày lễ, kỷ niệm lớn hàng năm. Nhanh chóng sắp xếp kiện toàn bộ máy từ Phòng đến Trung tâm văiệt nam hóa, đề xuất phương án xây dựng Thư viện Quận và Trung tâm văn hóa liên phường, nhà văn hóa ở từng phường. Song song đó, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị định 87-88/CP, chỉ thị 814 của TT Chính phủ, tăng cường và phát huy hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ, kiểm tra quản lý tốt các hoạt động văn hóa trên địa bàn.

- Hoạt động thể dục thể thao: Hoạt động TDTT theo hướng đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia luyện tập, tiếp tục tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng và hiệu quả giáo dục thể chất trong trường học, góp phần tăng cường thể lực cho học sinh. Quan tâm tạo điều kiện phát triển các loại hình hoạt động thể thao trên địa bàn nhất là ở các phường. Cần phát triển đồng đều các bộ môn, chú trọng bồi dưỡng phát huy nhân tố mới để nâng cao tạo nòng cốt cho phong trào ở cơ sở, cấp Quận và Thành phố; tích cực tham gia quá trình thi công và quản lý các công trình mở rộng của Trung tâm TDTT. Trước mắt, có kế hoạch tích cực tham gia vào cuộc hành trình Thành phố 300 năm vào (năm 1998) và có chương trình với quy mô lớn, phục vụ cuộc mít tinh diễu hành mừng ngày lịch sử bước vào thế kỷ 21.

3. Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng

Nhiệm vụ chung về an ninh quốc phòng trong 3 năm tới là: tiếp tục giữ vững và tăng cường ổn định chính trị, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng trong cán bộ đảng viên và các tầng lớp nhân dân, tăng cường công tác an ninh trên lĩnh vực chính trị, văn hóa tư tưởng, kinh tế, xã hội, tiếp tục xây dựng khu vực phòng thủ và an ninh cơ sở đồng thời xây dựng cơ quan, khu phố an toàn; tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, kiện toàn phát huy tốt sức mạnh của lực lượng chính trị và các lực lượng vũ trang; tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc và xây dựng quốc phòng toàn dân, nâng cao hiệu lực pháp chế XHCN; đẩy mạnh thực hiện 4 cuộc vận động lớn của Đảng và nhà nước (chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm và giảm phiền hà nhân dân), kịp thời phát hiện và đập tan mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực; sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống phức tạp khác có thể xảy ra, ngăn chặn và trừng trị có hiệu quả các loại tội phạm, tiếp tục tạo ra những chuyển biến tích cực về trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quận.

a/ Nhiệm vụ an ninh chính trị

Phải tiếp tục tăng cường công tác bảo vệ nội bộ các cấp uỷ Đảng nhất là đồng chí Bí thư, Thủ trưởng đơn vị địa phương, tiến hành thường xuyên và sâu rộng công tác giáo dục nhằm làm cho cán bộ đảng viên, đoàn viên, hội viên trong hệ thống chính trị của mỗi cấp, mỗi đơn vị hiểu rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch hòng thực hiện “Diễn biến hòa bình” để lật đổ chế độ XHCN, từng nơi phải có kế hoạch, biện pháp phòng ngừa các thế lực thù địch mua chuộc lôi kéo khống chế làm tay sai cho chúng và đưa người cài cắm nội bộ.

Tập trung quán triệt cho đảng viên thực hiện đúng quy định của Đảng về tham gia các hoạt động kinh tế, không được làm kinh tế TBTN, đảng viên có con đi học nước ngoài cần kê khai và báo cáo đầy đủ với tổ chức. Song song đó chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả đối với các phần tử phản động đội lốt tôn giáo và các đảng phái chính trị phản động chống Đảng và Nhà nước, không để xảy ra biến động phức tạp về an ninh chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội.

Lực lượng công an, cảnh sát khu vực có chương trình - kết - hợp chặt chẽ với Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, thường xuyên kiểm tra nắm chắc đối tượng phần tử xấu trên địa bàn, quản lý chặt chẽ việc đăng chẽ việc đăng ký hộ khẩu tạm trú tạm vắng, nhất là đối với Việt kiều và người nước ngoài; tiếp tục kiện toàn phương án tác chiến bảo vệ tốt các khu vực địa bàn mục tiêu trọng yếu nhất là các trọng điểm và kinh tế (Nhà máy điện, Nhà máy nước Thủ Đức) và các đợt sinh hoạt chính trị lễ hội lớn hàng năm.

Đồng thời phối hợp với các ngành chức năng tăng cường các biện pháp hữu hiệu, vừa giáo dục động viên cảm hóa các phần tử xấu, thanh thiếu niên hư hỏng phạm pháp..., vừa tăng cường truy quét các loại tội phạm có biện pháp tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội trên địa bàn, tăng cường thực hiện tốt Nghị định 36-39-40 của Chính phủ; đồng thời chủ động ngăn ngừa và giải quyết tốt, kịp thời mọi vấn đề tranh chấp xã hội nếu có thể xảy ra.

Từng bước bổ sung các trang thiết bị kỹ thuật cấn thiết phục vụ cho chiến đấu và công tác đủ sức cơ động và trấn áp các loại đối tượng, đồng thời không ngừng nâng cao quan điểm lập trường, nghiệp vụ chuyên môn xây dựng lực lượng trong sạch vững mạnh, trung thành với Đảng và nhà nước, có bản lĩnh chính trị có trình độ năng lực, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.

b/ Nhiệm vụ công tác quốc phòng:

Đảng bộ chính quyền thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục ý thức quốc phòng toàn dân cho toàn thể cán bộ đảng viên, lực lượng vũ trang và toàn dân, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng ở địa phương.

- Ra sức xây dựng củng cố lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Lực lượng DQTV phải được xây dựng đúng pháp lệnh DQTV đạt tỷ lệ từ 1 – 3% dân số. Lực lượng DQTV phải được các tổ chức Đảng quan tâm sâu sát về mọi mặt, đồng thời trong xây dựng lực lượng DQTV chú trọng chất lượng, nhất là chất lượng chính trị và độ tin cậy. Kiên quyết không đưa những người không đủ tiêu chuẩn chính trị vào lực lượng DQTV. Kết hợp chặt chẽ giữa củng cố hệ thống chính trị với củng cố lực lượng DQTV.

- Thực hiện tốt công tác tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ hàng năm đảm bảo đủ số lượng và chất lượng theo chỉ tiêu được giao. Đăng ký quản lý chặt chẽ quân nhân hoàn thành NVQS trở về địa phương. Sắp xếp biên chế tổ chức các đơn vị dự bị động viên. Thực hiện tốt chương trình huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị đối với lực lượng vũ trang, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương. Phúc tra nắm chắc phương tiện kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân để sẵn sàng huy động khi có yêu cầu quốc phòng.

- Tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ cho phù hợp với quá trình đô thị hóa trên địa bàn Quận và âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch trong từng giai đoạn. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ để từng bước hoàn thiện cơ chế lãnh đạo điều hành của Đảng và nhà nước trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị bảo vệ địa phương nhằm nâng cao cảnh giác chủ động tiến công ngăn chặn, đẩy lùi và chiến thắng các loại nguy cơ “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ làm chuyển hóa chế độ XHCN.

c/ Cơ quan bảo vệ pháp luật

Hoạt động của các cơ quan Viện kiểm sát, Toà án, Thanh tra, Tư pháp, tiếp tục phối hợp tốt với Mặt trận và các thể đấu tranh phòng ngừa các loại tội phạm, tập trung phổ biến tuyên truyền sâu rộng luật pháp trong nội bộ và các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thực tôn trọng và chấp hành luật pháp nhà nước. Đẩy mạnh đào tạo bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp vụ chuyên môn, pháp luật cho cán bộ nhân viên các cơ quan bảo vệ luật pháp, cơ quan chính quyền. Trên cơ sở đó tiếp tục thực hiện tốt các khâu của công tác điều tra xét hỏi, giải quyết nhanh, kịp thời chính xác các vụ việc xảy ra và các vụ án tồn đọng, thực hiện tốt việc tiếp dân, xét giải quyết đơn từ khiếu tố đúng theo thời gian luật định.

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia 04 cuộc vận động đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống lãng phí và ra sức thực hành tiết kiệm, giảm phiền hà cho nhân dân, đặc biệt có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chỉ đạo chống tham nhũng từ Quận đến cơ sở.

4/ Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước

Trong hệ thống chính trị, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, nhà nước quản lý, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, từ đó không ngừng nâng cao hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp vừa là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của các cấp uỷ Đảng vừa là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng.

Để khắc phục những mặt tồn tại yếu kém trong thời gian qua và không ngừng phát huy vai trò nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền, trước hết từng cấp uỷ Đảng căn cứ vào các quy định của Trung ương và Điều lệ Đảng về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của từng loại hình chi Đảng bộ cơ sở, có sơ kết rút kinh nghiệm lãnh đạo thời gian qua và tiếp tục bổ sung quy chế hoạt động của cấp uỷ, trong đó làm rõ hơn nữa sự lãnh đạo và mối quan hệ của Đảng với các cơ quan chính quyền, đồng thời không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Ngay sau Đại hội phải thảo luận xây dựng bổ sung cụ thể nội dung quy chế làm việc của các cấp uỷ Đảng phù hợp với chỉ đạo của Trung ương, Thành phố và thực tiễn của từng cấp uỷ, đơn vị.

Song song đó tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý nhà nước theo cơ chế “Một cửa một dấu”, nâng cao năng lực trình độ quản lý ở các ngành, các phường, đặc biệt quán triệt và thực hiện chương trình hành động của Quận uỷ, Thành uỷ thực hiện NQ.TW3 (khóa 8) “về xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và chiến lược cán bộ trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa”. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện 4 cuộc vận động về chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, giảm phiền hà nhân dân. Nói chung, khắc phục yếu kém, phát huy vai trò và hiệu lực của chính quyền các cấp, vừa là nhiệm vụ trọng tâm, vừa là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và ổn định chính trị trên địa bàn Quận trong những năm tới.

Đối với việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, trước hết là tập trung cải cách một bước nền hành chánh nhà nước ở Quận. Trong những năm trước mắt phải tập trung vào vấn đề chủ yếu sau:

- Xây dựng mối quan hệ đúng đắn, chặt chẽ trên cơ sở phân công trách nhiệm thực hiện công vụ cụ thể giữa các cơ quan chính quyền với nhau và giữa cấp trên với cấp dưới, bảo đảm hoạt động nhà nước được thống nhất, liên tục và có hiệu quả.

- Tiếp tục củng cố kiện toàn bộ máy hành chính từ Quận đến các phường, xác định nội dung theo hướng tinh gọn, tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác, nâng cao trách nhiệm trước công việc được giao, thực hiện chế độ uỷ nhiệm công việc thích hợp, để giảm số lượng các cơ quan hành chính và giảm bớt đầu mối.

- Tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính ở các lĩnh vực có yêu cầu cấp bách và liên quan nhiều nhất đến đời sống của nhân dân mà Quận đang tiến hành theo mô hình “Một cử một dấu”.

- Xây dựng tiêu chuẩn thực hiện chế độ trách nhiệm công vụ để tuyển dụng và quản lý tốt hoạt động của đội ngũ công chức.

- Từng bước chuẩn bị thực hiện chương trình nối mạng thông tin giữa các cơ quan phòng ban thuộc Quận, đến các phường trên địa bàn Quận.

* Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND:

Nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng, trước hết Nghị quyết của Đảng thông qua Đảng – Đoàn, thể chế hóa cụ thể thành nghị quyết HĐND. Muốn vậy phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và các đại biểu, trên cơ sở nâng cao nhận thức trách nhiệm của từng đại biểu, tiếp tục thực hiện tốt chế độ tiếp dân, lắng nghe và tập trung giải quyết những nguyện vọng chính đáng của cử tri, nâng cao chất lượng các kỳ họp, thực hiện tốt chức năng kiểm tra, giám sát các ngành và UBND trong việc thực hiện Nghị quyết HĐND, tăng cường hoạt động của đại biểu HĐND các cấp, đề ra những nghị quyết phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Đảng và thực tiễn của tình hình, có khả năng thực thi giải quyết mọi vấn đề vì lợi ích của nhân dân, phải thể hiện rõ những việc làm của HĐND theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

5. Đổi mới tổ chức - hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể:

Trên cơ sở quán triệt 04 quan điểm Nghị quyết Trung ương 8B (khóa 6) và các chỉ thị nghị quyết tiếp theo của Trung ương và Thành uỷ về đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng. Từ nay đến năm 2000 nhiệm vụ công tác quần chúng của Đảng bộ là mở rộng củng cố Mặt trận đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh Công – Nông – Trí làm nền tảng nhằm phát huy dân chủ XHCN, khơi dậy và khai thác tốt mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận nhiệm kỳ I.

Để tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ trên, các cấp uỷ Đảng phải có chương trình hành động cụ thể, đổi mới công tác vận động quần chúng tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, thường xuyên quan tâm chỉ đạo tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể.

Song song đó Mặt trận và các đoàn thể tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đầu tư thời gian chỉ đạo hướng dẫn cơ sở và xây dựng điều hành về tổ chức vận động quần chúng ở phường, khu phố, tổ nhân dân, phân xưởng, tổ sản xuất để phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, góp phần chăm lo đời sống nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ, hăng hái thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tập hợp quần chúng củng cố kiện toàn tổ chức, đẩy mạnh phát triển hội viên đoàn viên, chú ý xây dựng lực lượng nòng cốt chính trị, đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở và đội ngũ đoàn viên, hội viên.

NHỮNG MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CHUNG CỦA MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ ĐƯỢC XÁC ĐỊNH TỪ NAY ĐẾN NĂM 2000 NHƯ SAU

* Mặt trận Tổ quốc

Không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ chính trị (khóa 7) và trên cơ sở thực hiện mục tiêu “Vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văiệt nam minh”, tập hợp đông đảo các tầng lớp xã hội với các nội dung hình thức thích hợp với từng ngành, từng giới trên địa bàn, phối hợp với các đoàn thể và chính quyền.

Tiếp tục động viên các tầng lớp nhân dân trên địa bàn phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ổn định chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi nhằm triệt để giải phóng sức sản xuất, khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế phát huy cao độ nguồn lực và tài năng sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh làm giàu hợp pháp, cần kiệm xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Song song với đẩy mạnh phong trào XĐGN, “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm lo đến đời sống của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là diện gia đình chính sách, đẩy mạnh các hoạt động từ thiện, nhân đạo.

Thông qua các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển lực lượng nòng cốt, đi đôi với việc củng cố tổ chức, kiện toàn hoạt động tổ tự quản ở tổ nhân dân, khu phố, duy trì sinh hoạt đều đặn ở cơ sở.

Tiếp tục triển khai có hiệu quả thiết thực cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” gắn liền với phong trào xây dựng gương “người tốt việc tốt” và phong trào “xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa” ở từng cơ sở.

* Liên đoàn lao động

Là tổ chức chính trị rộng lớn của giai cấp công nhân và những người lao động. Trong 03 năm tới hoạt động công đoàn phải góp phần đáp ứng những yêu cầu lợíich của giai cấp, của dân tộc và của người lao động trong xu thế phát triển của những năm đầu thế kỷ 21. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW7 (khóa 7) “Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” nhằm xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở địa phương, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với chính quyền chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động, bám sát mục tiêu nhiệm vụ kinh tế do Đại hội Đảng lần thứ VIII và Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI đề ra.

Tăng cường giáo dục công nhân lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh nắm vững Luật công đoàn và Bộ Luật lao động, động viên công nhân – lao động tự phấn đấu nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, nghề nghiệp chuyên môn, từ đó không ngừng nêu cao ý thức trách nhiệm, vai trò làm chủ, phục vụ sản xuất ngày một chất lượng hiệu quả. Duy trì thường xuyên phong trào thi đua lao động giỏi thông qua hình thức luyện tay nghề thi thợ giỏi, phát huy sáng kiến, sáng tạo trong lao động, thực hành tiết kiệm.

Song song đó tập trung kiện toàn bộ máy hoạt động của công đoàn từ Quận đến cơ sở, phấn đấu đến năm 2000 xây dựng 80% công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh, phát triển đoàn viên đạt 100% trong các doanh nghiệp quốc doanh, 80-90% đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đủ điều kiện tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn.

Đồng thời vận động công nhân viên chức và lao động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy chính quyền ngày một trong sạch, vững mạnh. Từ các kết quả hoạt động phong trào của công nhân – lao động, tổ chức công đoàn phải ý thức tốt trong việc phát hiện bồi dưỡng đoàn viên – công nhân ưu tú giới thiệu cho Đảng.

* Hội Liên hiệp Phụ nữ

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 04 của Bộ chính trị (khóa 7) về công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới, tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của phụ nữ “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”, từ đó phát huy vai trò làm chủ của phụ nữ tham gia trên mọi lĩnh vực công tác xã hội. Phấn đấu tự rèn luyện vì sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ. Tích cực tham gia phòng chống các tệ nạn xã hội, bảo tồn đạo đức, truyền thống văn hóa dân tộc, bảo vệ nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em. Đẩy mạnh phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi con khỏe, dạy con ngoan. Mở rộng mặt trận đoàn kết trong các tầng lớp Phụ nữ để trên cơ sở đó phát triển hội viên ở độ tuổi từ 15 – 49, phấn đấu đến năm 2000 có 80% phụ nữ trên địa bàn vào Hội.

Song song đó xây dựng cơ sở hội ngày càng vững mạnh góp phần thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh” theo định hướng XHCN.

* Hội Nông dân Việt Nam

Dựa vào đặc điểm về quy hoạch phát triển đô thị hóa trên địa bàn, xác định và chuyển dịch kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn cho phù hợp với yêu cầu mới nhằm phát triển sản xuất, xây dựng nông thôn theo hướng CNH-HĐH đất nước. Do đó sắp tới tổ chức Hội cần phối hợp các ngành chức năng của Quận điều tra nắm lại số lao động ở các khu vực nông nghiệp chuyển dịch sang khu vực công nghiệp để có kế hoạch hướng dẫn, đào tạo nâng cao tay nghề nhằm giúp số lao động ở các khu vực này sớm chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, có việc làm ổn định, đảm bảo cuộc sống lâu dài.

- Tăng cường giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, tình làng nghĩa xóm, đoàn kết giúp nhau trong sản xuất, đời sống, xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là các chương trình phục vụ nông nghiệp nhằm hỗ trợ bà con nông dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, tích cực tham gia vào tổ chức Hội, phấn đấu phát triển 100% số hộ nông nghiệp, (đảm bảo mỗi hộ ít nhất có một hội viên là lao động chủ chốt trong hộ) và đạt 80% số lao động nông nghiệp là hội viên. Song song đó kế hoạch nâng cao chất lượng hội viên, trong đó xây dựng lực lượng nòng cốt đạt từ 30-40% trở lên.

- Phát động hội viên nông dân tiếp tục tham gia thực hiện tốt 04 cuộc vận động do Thành phố đề ra, đồng thời cổ vũ nông dân hưởng ứng tốt phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa ở từng xóm phường.

- Tập trung vận động quỹ trợ vốn cho nông dân đến năm 2000 là 300 triệu đồng và phong trào mô hình VAC tình nghĩa là 150 hộ.

* Hội Cựu chiến binh:

Không ngừng phát huy bản chất, truyền thống của “Anh Bộ đội Cụ Hồ”. Ra sức phát triển và củng cố Hội vững mạnh toàn diện ngang tầm với nhiệm vụ hoạt động chính trị xã hội của Cựu chiến binh, xứng đáng là “cơ sở chính trị vững chắc của chính quyền và nhân dân, chỗ dựa tin cậy của Đảng”.

Phấn đấu nâng hiệu quả thiết thực của các hoạt động chính trị, xã hội. Tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, góp phần ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng an ninh, bảo vệ môi trường văn hóa đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, làm tốt việc giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ trẻ.

Phải quan tâm tạo điều kiện để có quỹ hoạt động, chăm lo hỗ trợ vận động hội viên giúp nhau vượt khó trong sản xuất ổn định kinh tế gia đình phấn đấu không để trở lại hiện tượng CCB tái đói, giảm tỷ lệ nghèo, tiến tới đa số hội viên CCB có ngang mức sống trung bình và khá giả ở địa phương, các gia đình hội viên CCB đều là gia đình tiến bộ.

* Lực lượng hưu trí, CLB truyền thống kháng chiến và cựu tù chính trị yêu nước:

Quan tâm động viên lực lượng hưu trí, kháng chiến, cựu tù chính trị với trí lực còn lại của mình tham gia đóng góp vào các công việc cần thiết ở địa phương. Phát huy bản chất và kinh nghiệm sẵn có góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho thế hệ trẻ.

Tham gia thường xuyên các buổi báo cáo thời sự trong và ngoài nước, đồng thời tạo điều kiện thăm hỏi, giúp đỡ các đồng chí ốm đau, bệnh tật, gia đình còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.

- Phối hợp cùng các ngành chức năng của Đảng, chính quyền và MTTQ chăm lo hỗ trợ điều kiện ổn định và phát triển kinh tế gia đình, cùng nhau vượt khó để có ít nhất cuộc sống trung bình của người dân tại nơi cư trú.

* Hội Chữ Thập Đỏ

Là một tổ chức từ thiện, nhân đạo của xã hội, Hội phải phát huy tính năng động, sáng tạo, tuyên truyền vận động quần chúng với lòng nhân ái của mình ra sức góp phần cùng chính quyền chăm lo cho các gia đình nghèo khó, cơ nhỡ, cô đơn sớm có cuộc sống ổn định trên tinh thần “thương người như thể thương thân”. Động viên mọi người phát huy tình hữu ái giai cấp đóng góp vào quỹ từ thiện xã hội cứu trợ cho những nơi đồng bào bị thiên tai lũ lụt.

Quan tâm kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng cán bộ có đủ năng lực phục vụ cho Hội trước yêu cầu đổi mới, đồng thời thường xuyên trang bị phương tiện kỹ thuật sơ cấp cứu cho lực lượng xung kích Chữ thập đỏ và hội viên để sẵn sàng phục vụ cấp cứu tại chỗ khi cần thiết.

PHẦN THỨ BA

XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ LÃNH ĐẠO ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

1. Xây dựng Đảng:

Trên cơ sở đánh giá thực trạng mặt mạnh và mặt yếu của công tác xây dựng Đảng từ Đại hội đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ 7, nhất là từ khi chia tách Huyện thành lập Quận Thủ Đức đến nay.

Trên cở sở quán triệt Đại hội toàn quốc lần thứ 8 của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 6 đồng thời xuất phát từ thực tế hoạt động gần 1 năm qua, và yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Quận trong nhiệm kỳ I (1998-2000), công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Quận phải phấn đấu đạt được mục tiêu, yêu cầu như sau:

1. Công tác xây dựng Đảng phải đáp ứng các nhiệm vụ chính trị của Đảng là đẩy mạnh CHN-HĐH đất nước và tích cực thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu cụ thể của Đảng bộ Quận từ 1998-2000 và những năm đầu thế kỷ 21

2. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị, quyết định mọi thành bại cuộc cách mạng phân biệt rõ bạn thù. Đồng thời ngăn ngừa hiện tượng cán bộ lãnh đạo quản lý quan liêu, thoái hóa, xa rời bản chất cách mạng của Đảng.

3. Gắn công tác xây dựng Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của cấp uỷ Đảng từng đơn vị.

4. Tăng cường nâng cao tính chiến đấu của Chi Đảng bộ cơ sở và chất lượng cán bộ Đảng viên đặc biệt là nâng cao năng lực lãnh đạo chi bộ ấp, khu phố là nơi trực tiếp lãnh đạo địa bàn dân cư và là nơi thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước.

5. Nhanh chóng nâng cao trình độ năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị đạo đức cách mạng. Khắc phục tình trạng đảng viên phai mờ lý tưởng, giảm s1ut ý chí chiến đấu, Đảng viên tham nhũng sống xa hoa lãng phí, tách biệt với cuộc sống của người dân.

* Mục tiêu:

- Đến năm 2000 Đảng bộ Quận phải vững mạnh cả về 3 mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho Đảng bộ đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận nhiệm kỳ I và các chỉthị, nghị quyết của Trung ương và Thành uỷ, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ tăng về số lượng, nâng cao về chất lượng với ba độ tuổi để đảm bảo tính kế thừa và phát triển liên tục, khắc phục tình trạng bộ máy thiếu ổn định và hẫng hụt.

- Chủ động ngăn ngừa và đẩy lùi tiêu cực trong đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền củng cố hơn nữa lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền các cấp.

- Nâng cao chất lượng Đảng viên đi đôi với kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng, thực hiện định kỳ phân loại Đảng viên hàng năm, phấn đấu đưa tỷ lệ Đảng viên loại I hàng năm, phấn đấu đưa tỷ lệ Đảng viên loại I hàng năm đều tăng.

- Phấn đấu xây dựng từ 60-70% chi Đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh, trong đó chi bộ ấp, khu dân cư đạt từ 70-80% vững mạnh.

- Đẩy mạnh phát triển Đảng viên mới nhằm tăng nguồn Đảng viên trẻ, bổ sung nguồn lực mới cho Đảng, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của Đảng bộ.

a/ Công tác chính trị tư tưởng

Trong bối cảnh chung có nhiều thuận lợi cho công tác chính trị tư tưởng như Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, các Nghị quyết hội nghị lần thứ 2, 3 BCHTW (khoá 8) các chỉ thị, Nghị quyết của Thành uỷ, nhất là Nghị quyết hội nghị Thành uỷ lần thứ 5 (Khoá 6) về công tác tư tưởng văn hoá, bên cạnh cũng có nhiều khó khăn thử thách mới của đất nước hiện nay mà đáng quan tâm là các hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, nhất là trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Trong bối cảnh đó công tác chính trị tư tưởng cần tập trung thực hiện tốt những nội dung chủ yếu và cụ thể sau đây:

- Tiếp tục tổ chức cho toàn thể đảng viên của Đảng bộ học tập nghiên cứu quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ VI, các Nghị quyết hội nghị lần thứ 2, 3 của BCHTW (khoá 8), các Nghị quyết hội nghị thành uỷ lần thứ 5 (khoá 6) và NQ.07 của Thành uỷ về công tác bảo vệ chính trị nội bộ... gắn với việc triển khai thực hiện NQ Đại hội Đảng bộ Quận nhiệm kỳ I (1998-2000); chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng có kế hoạch triển khai quán triệt các Nghị quyết nêu trên đối với cán bộ và quần chúng thuộc ngành và giới của mình, đồng thời xây dựng chương trình hành động và phát động các phong trào quần chúng thi đua thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp, cụ thể là các nhiệm vụ và chỉ tiêu về phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng lực lượng và hệ thống chính trị của Đảng bộ Quận trong 3 năm 1998-2000.

- Tiếp tục bổ sung chương trình hành động thực hiện NQ.09 của Bộ chính trị (khóa 7) về một số định hướng lớn trong công tác chính trị tư tưởng hiện nay “đặc biệt là NQ hội nghị Thành uỷ lần thứ 5 (khoá 6) về công tác tư tưởng văn hoá, đồng thời tăng cường tổ chức báo cáo thời sự trong nước và quốc tế, gắn với việc mở các lớp tại Quận, đưa đi đào tạo ở các Trường của Trung ương và Thành phố nhằm nâng cao nhận thức tư tưởng tính kiên định lập trường, năng lực công tác cho các cán bộ Đảng viên trước yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, giáo dục bồi dưỡng cho cán bộ Đảng viên thấm nhuần bản chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng và của từng Đảng viên; trên cơ sở đó không ngừng nâng cao tinh thần tự giác, ý chí tiền công, dấy lên phong trào học tập, rèn luyện vươn lên mọi mặt để hoàn thành trọng trách được Đảng và nhân dân giao phó, tiếp tục nâng cao phẩm chất đạo đức, gắn bó mặt thiết với nhân dân, để từ đó kiên định niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên quyết đập tan mọi thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trên địa bàn Quận.

- Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục truyền thống cách mạng của dân tộc cũng như truyền thống anh hùng của Quân dân chính Đảng Thủ Đức, giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng, xây dựng nhân cách người cộng sản cho cán bộ đảng viên; đồng thời tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực sáng tạo của nhân dân hăng hái lao động sản xuất tham gia tích cực vào phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc và quốc phòng toàn dân, phong trào đấu tranh thiết lập lại trật tự xã hội như: bài trừ các tệ nạn xã hội (mại dâm, xì ke, ma tuý, cờ bạc...) các loại hình văn hoá xấu không lành mạnh, có nội dung phản động chống lại chế độ XHCN, xây dựng nền văn hoá văn nghệ mang đậm đà bản sắc dân tộc... song song đó tiếp tục phát huy và sử dụng có hiệu quả các công trình có ý nghĩa giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ trên địa bàn: Nhà truyền thống Quận, Nhà truyền thống Tam Bình, Tượng đài Bắc Thủ Đức, Nhà bia ghi danh liệt sĩ Thủ Đức...

- Tổ chức học tập bồi dưỡng về lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm không ngừng nâng cao năng lực sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bản lĩnh chính trị của đội ngũ Đảng viên trong toàn Đảng bộ.

- Có kế hoạch củng cố Tổ Nghiên cứu Lịch sử Truyền thống của Đảng bộ, song song đó kiện toàn nâng cao chất lượng công tác của Ban Tuyên giáo, Trung tâm BDCT Quận, mạng lưới báo cáo viên – tuyên truyền viên, cũng như các cấp uỷ Đảng, Mặt trận và đoàn thể làm công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng.

- Về công tác huấn học: Ban tuyên giáo, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị phối hợp với Ban Tổ chức Quận uỷ mở các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ Đảng viên như sau:

* Hoàn thành 1 lớp cửa nhân Luật: 69 1đ/c

* 01 lớp cử nhân chính trị: 60-70 đ/c

* 02 lớp Trung cấp lý luận chính trị: 130-150 đ/c

* 01 lớp Trung cấp quản lý nhà nước: 50-70 đ/c

* 06 lớp lý luận chính trị phổ thông: 250-300 đ/c

* 10 lớp đối tượng Đảng: 600 đ/c

* 01 lớp Tin học (hoặc QLHC) dành cho cán bộ lãnh đạo quản lý: 150-200 đ/c

b/ Công tác tổ chức và cán bộ

Tiến hành thường xuyên việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo nội dung NQ.TW3 (khoá 7), qua đó không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, củng cố cấp uỷ các Chi Đảng bộ cơ sở, nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng nhất là chất lượng hoạt động các chi bộ ấp, khu dân cư, các tổ chức Đảng thuộc khối cơ quan, hành chánh sự nghiệp. Phấn đấu đạt chỉ tiêu 60-70% Chi Đảng bộ trong sạch vững mạnh, trong đó chi bộ ấp khu dân cư đạt 70-80% vững mạnh, Đảng bộ Quận đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh từ 1998 trở đi.

- Triển khai thực hiện nghị quyết 13/NQ-TU của Ban thường vụ Thành uỷ về quy hoạch cán bộ và chương trình hành động của Thành uỷ, Quận uỷ thực hiện NQ.TW3 (khoá 8) “Về chiến lược cán bộ thời kỳ CNH-HĐH”; trên cơ sở có kế hoạch quy hoạch cán bộ của Quận uỷ năm 1998 và quy hoạch cán bộ dài hạn sau năm 2000. Từng bước hoàn chỉnh quy hoạch, đội ngũ cán bộ cấp Phường, Quận, kể cả cán bộ thuộc các doanh nghiệp nhà nước. Song song đó, đẩy mạnh việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ theo quy hoạch với định hướng như sau:

- Phấn đấu đến năm 2000: 100% cán bộ chủ chốt cấp Quận phải có trình độ cử nhân chính trị hoặc đại học chuyên ngành, có trình độ 1 ngoại ngữ tương đương bằng B trở lên.

- Hầu hết cán bộ chủ chốt của cơ sở có trình độ trung cấp chính trị, Trung cấp chuyên ngành.

- 100% cán bộ viên chức nhà nước đều qua lớp lý luận chính trị phổ thông, phải có trình độ một ngoại ngữ tương đương bằng A.

- UV.BCH Đảng bộ và thành viên UBND Quận nói chung có trình độ ngoại ngữ bằng A, riêng các đ/c dưới 50 tuổi phải có bằng B.

- Trong 3 năm dành từ 1 đến 1,2 tỷ đồng đào tạo nâng cao trình độ cho CB-CNV, bồi dưỡng văn hoá và dạy nghề cho con em gia đình chính sách và dân nghèo.

- Đồng thời trên cơ sở đó đánh giá, sắp xếp bố trí lại cán bộ, Đảng viên đúng với trình độ, năng lực sở trường nhắm phát huy tối đa mặt mạnh của cán bộ. Định kỳ 06 tháng, năm có xem xét đánh giá cán bộ đi đôi với tăng cường công tác quản lý cán bộ, tiếp tục có chính sách đãi ngộ phù hợp đối với cán bộ đi học, chăm lo đội ngũ cán bộ cơ sở, cán bộ nữ... nhằm khuyến khích tạo điều kiện cho cán bộ không ngừng nâng cao trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ bảo đảm tiêu chuẩn là chính kết hợp với cơ cấu hợp lý, cố gắng xây dựng cán bộ có 03 độ tuổi để đảm bảo tính kế thừa và phát triển liên tục tránh làm cho bộ máy thiếu ổn định, hụt hẫng.

- Trong công tác đào tạo cần coi trọng chất lượng và phải đảm bảo đúng theo quy hoạch để khi bố trí cán bộ phát huy tốt hiệu quả, đáp ứng và phục vụ kịp thời yêu cầu lãnh đạo của Đảng. Đồng thời kiên quyết không sử dụng đối với những cán bộ giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng tiêu cực, kém phẩm chất đạo đức, kém uy tín, quần chúng không tín nhiệm.

- Trên cơ sở quy hoạch, bồi dưỡng tạo nguồn đối tượng Đảng của từng tổ chức cơ sở Đảng, hàng năm mỗi Chi Đảng bộ phải tăng cường các biện pháp đẩy mạnh thực hiện công tác phát triển Đảng. Phấn đấu trong 03 năm 1998-2000 phát triển được 150-180 Đảng viên mới, tập trung phát triển Đảng trong công nhân sản xuất, ở khối Phường, khu vực trường học, trong đoàn viên thanh niên và những cơ sở chưa có hoặc có ít đảng viên

- Xây dựng quy chế làm việc của Quận uỷ và chỉ đạo các Chi, Đảng bộ cơ sở rà soát củng cố xây dựng quy chế làm việc của cấp uỷ cơ sở, từ đó thực hiện làm việc theo quy chế và trên cơ sở đó đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, đoàn thể và hiệu lực của nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng ngành, đơn vị, địa phương đạt kết quả tốt hơn.

- Tăng cường cán bộ, nâng cao chất lượng hoạt động của các Ban tham mưu của Đảng (tổ chức, kiểm tra, tuyên giáo BVCTNB) tiếp tục đầu tư các trang thiết bị cần thiết nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng công tác, quản lý hồ sơ, quản lý cán bộ.

- Tập trung kiện toàn bộ máy Ban bảo vệ chính trị nội bộ Quận, tiếp tục có kế hoạch giải quyết tốt những trường hợp tồn đọng, giải quyết nhanh những vấnđề mới phát sinh trong công tác bảo vệ Đảng. Phấn đấu đến cuối năm 2000 thực hiện xong việc rà soát, nắm chắc tình hình chính trị nội bộ từ Quận đến cơ sở theo tinh thần nghị quyết 07 của Ban Thường vụ Thành uỷ. Đối với các cấp uỷ Đảng phải có kế hoạch rà soát xác minh những trường hợp lý lịch chưa rõ ràng, làm rõ và giải toả công khai các trường hợp có dư luận không đúng.

c/ Công tác Uỷ ban Kiểm tra

- Công tác kiểm tra Đảng phải được tiến hành thường xuyên nhằm giáo dục ngăn ngừa, đảm bảo nghiêm minh triệt để và thể hiện được tính giáo dục thuyết phục, chính xác và kịp thời.

- Từng cấp uỷ Đảng phải nhận thức đúng và quan tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác kiểm tra. Xem đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cấp uỷ, tổ chức Đảng và của từng Đảng viên.

- Cấp uỷ Đảng, các chi Đảng bộ cơ sở cần có chương trình kế hoạch kiểm tra định kỳ, đột xuất nhằm giáo dục, ngăn ngừa tổ chức Đảng, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng, nhắc nhở Đảng viên thường xuyên rèn luyện giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, tích cực tham gia 4 cuộc vận động, nêu cao ý thức xây dựng đoàn kết thống nhất bội bộ, góp phần xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh.

- Công tác kiểm tra phải chủ động ngăn ngừa sai phạm trong nội bộ, đồng thời kiênq uyết xử lý nghiêm minh kịp thời các trường hợp cán bộ đảng viên cố tình vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật nhà nước, đảm bảo tính chính xác đúng người đúng tội; mặt khác có sự phản hồi để cơ sở biết những kết quả giải quyết khiếu nại tố cáo đối với Đảng viên.

- Tiếp tục nângcao nhận thức và nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kiểm tra từ Quận đến cơ sở đủ sức tham mưu cho cấp uỷ trong việc xây dựng chương trình và triển khai thực hiện công tác kiểm tra theo chỉ đạo của cấp uỷ và cấp trên.

- Định kỳ sơ, tổng kết rút kinh nghiệm công tác kiểm tra, biểu dương kịp thời các tổ chức Đảng, đảng viên phấn đấu tốt và giúp đỡ số cán bộ đảng viên bị kỷ luật khuyết điểm có hướng phấn đấu khắc phục vươn lên.

2. Lãnh đạo Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là lực lượng dự bị tin cậy và là đội xung kích của Đảng; trên cơ sở triển khai thực hiện NQ.25 của Bộ Chính trị (khoá 6) và NQTW4 (khóa 7) “Về công tác Thanh niên trong tình hình mới”, trong 03 năm tới (1998-2000) Đoàn thanh niên cộng sản Quận phải kiên trì thực hiện mục tiêu “tạo mạch nối giữa tổ chức đoàn với thanh niên” ra sức tăng cường công tác giáo dục đào tạo rèn luyện một đội ngũ xung kích của Thanh niên biết kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng của Đảng bộ và nhân dân Thủ Đức.

- Đặc biệt các cấp uỷ Đảng cần tập trung chỉ đạo, quan tâm tạo điều kiện kinh phí, chế độ chính sách cho tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội LHTN Việt Nam các cấp, đồng thời tăng cường hơn nữa công tác giáo dục mục tiêu lý tưởng đối với đoàn viên thanh niên nhằm không ngừng nâng cao niềm tự hào tin tưởng và ý chí vươn lên của thế hệ làm chủ tương lại của đất nước, hăng hái học tập và xung phong đi đầu trong các phong trào, các cuộc vận động do Đảng và nhà nước đề ra.

- Tiếp tục đẩy mạnh hai phong trào “Thanh niên lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước” do Trung ương đoàn phát động mà cụ thể là 7 chương trình hành động và công tác xây dựng đoàn do Thành đoàn đề ra, hướng các hoạt động của Đoàn và Hội LHTN về cơ sở với những nội dung thiết thực và hình thức thích hợp để tập hợp đông đảo thanh niên vào các đội nhóm (lao động sản xuất, học tập, sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể thao). Tập trung củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn, chi hội thanh niên, nhất là ở phường, địa bàn dân cư và trường học. Phấn đấu đến năm 2000 nâng số đoàn viên, hội viên lên gấp 2 lần hiện nay, trong đó có 40-50% là lực lượng nòng cốt. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh phát triển đoàn viên hội viên và phát hiện bồi dưỡng giới thiệu những đoàn viên ưu tú cho Đảng. Đặc biệt từng tổ chức cơ sở Đoàn cần quan tâm tập trung công tác chăm sóc thiếu niên nhi đồng và Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh. Phấn đấu 100% cơ sở đoàn chăm lo cho thiếu nhi và 100% cơ sở Đoàn có liên đội thiếu nhi và đội phụ trách tình nguyện hướng dẫn các em sinh hoạt.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận Thủ Đức nhiệm kỳ I (1998-2000) khẳng định niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, ý thức sâu sắc trọng trách được giao ở một địa bàn có vai trò quan trọng về nhiều mặt của Thành phố, có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn phức tạp mới phát sinh từ khi chia tách Huyện hình thành Quận mới. Song với truyền thống đoàn kết nhất trí kiên định con đường XHCN mà Bác Hồ, Đảng ta, nhân dân ta đã chọn, gắn bó trong sự nghiệp “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đảng bộ và nhân dân Quận Thủ Đức sẽ tiếp tục phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, ý thức tự lực tự cường, quyết tâm khắc phục mọi tồn tại yếu kém, vượt qua mọi khó khăn thử thách thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mục tiêu do Đại hội đề ra, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của Đảng trên địa bàn Quận Thủ Đức tiến lên những bước mới toàn diện, vững chắc hơn; góp phần tích cực cùng với Thành phố và cả nước tạo ra bước chuyển biến quan trọng của thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mục tiêu do Đại hội Đảng bộ Thành phố lần 6 và Đại hội toàn quốc lần thứ 8 của Đảng đề ra. Phấn khởi tự hào bước vào thế kỷ 21 với niềm tin mãnh liệt về triển vọng phát triển của đất nước cao hơn, toàn diện hơn của giai đoạn biến nước ta thành một nước công nghiệp.

Thông báo