Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ II Đảng bộ quận Tân Bình

Đảng Cộng Sản Việt Nam

Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí MinhTân Bình, ngày 21 tháng 12 năm 1979

Quận ủy Tân Bình

Số: 01/NQ-QU

Trong 3 ngày từ 19 đến 21 – 11 – 1979, Đại hội Đại biểu lần thứ IIĐảng bộ Quận Tân Bình đã họp và thành công tốt đẹp.

Đại hội đã kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Quận Đảng bộ; đề ra nhiệm vụ, mục tiêu cho 2 năm 1980 – 1981, bầu ban chấp hành Quận Đảng bộ mới gồm 34đ/c và bầu 16 đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Thành phố.

Đại hội làm việc với tinh thần đoàn kết, nhất trí cao, biểu thị lòng tin tưởng sâu sắc ở đường lối, chủ trương của Đảng, phấn khởi trước những thắng lợi to lớn mà chúng ta đã đạt được sau hơn 2 năm phấn đấu trong hoàn cảnh đất nước vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh, lại phải vượt qua những khó khăn lớn do thiên tai và hậu qủa chiến tranh để lại.

Đại hội biểu dương những cố gắng liên tục của Đảng bộ, đồng bào và chiến sĩ trong Quận, dánh gia cao tinh thần làm chủ tập thể của giai cấp công nhân – nông dân và các tầng lớp quần chúng đã phát huy truyền thống cách mạng, ra sức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Quận nhà.

PHẦN THỨ NHẤT

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH SAU HƠN 2 NĂM

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU QUẬN ĐẢNG BỘ LẦN THỨ NHẤT

1/ Dưới ánh sáng Nghị quyết của Đảng, bằng sự nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ – Chính quyền và đồng bào trong Quận, chúng ta đã giành được những thành tích đáng kể, làm biến đổi sâu sắc tình hình mọi mặt.

a) Công tác cải tạo và xây dựng được tiến hành đồng bộ, toàn diện xóa bỏ về cơ bản quan hệ sản xuất cũ, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Các hình thức làm ăn tập thể đang thay dần lối làm ăn cá thể. Đến nay về tiểu thủ công nghiệp, chúng ta đã xây dựng được 18 HTX, 28 xí nghiệp công tư hợp doanh, 1 xí nghiệp tập thể, gom trên 2000 cơ sở tư nhân thành lập hơn 900 tổ hợp sản xuất. Về nông nghiệp xây dựng được 26 tập đoàn và 1 HTX chuyên canh rau.

Qua cải tạo và xây dựng, chúng ta đã nắm chắc và khai thác tốt hơn tiềm năng tại chỗ, phát huy được tinh thần tự lực tự cường, tổ chức và qui hoạch lại sản xuất 1 cách hợp lý hơn, bước đầu hình thành một cơ cấu kinh tế có công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp, trong đó thế mạnh vẫn là tiểu thủ công nghiệp, ngành dệt là mũi nhọn, đồng thời đang đưa cơ khí lên thành ngành chủ lực và xuất khẩu cũng phát triển thành một ngành có một vị trí rất quan trọng. Trong nông nghiệp đang được chuyển dần sang chuyên canh rau màu, cây thực phẩm nhằm cung cấp cho chăn nuôi đẩy lên cân đối với trồng trọt.

So với những năm mới giải phóng, sản phẩm tăng rõ rệt, đưa vào phục vụ sản xuất và đời sống hiệu quả hơn. Khu vực tiểu thủ công nghiệp, 2 năm 78 – 79 đều vượt chỉ tiêu kế hoạch từ 20 đến 43% và giá trị tổng sản lượng so với hai năm 76 – 77 vượt 148,9% (244 triệu/98 triệu). Khu vực nông nghiệp do chuyển hướngnhanh sang chuyên canh rau nên sản lượng rau từ 4.000 tấn đầu năm 76 đã tăng lên 19.000 tấn cuối 78.

b) Hơn 2 năm qua, công tác chăm lo đời sống nhân dân là một cuộc vật lộn gay go nhằm giảm bớt những khó khăn chật vật cho quần chúng trong tình hình thị trường luôn biến động.

Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo xây dựng màng lưới lưu thông phân phối, từng lúc đấu tranh kéo giá xuống, tổ chức phân phối các mặt hàng thiết yếu, nhất là lương thực đến tay nhân dân, đặc biệt là khu vực sản xuất và hành chánh sự nghiệp.

Sau đợt cải tạo 23-03-78, giai cấp tư sản thương nghiệp bị xóa bỏ về cơ bản, 1 bộ phận tiểu thương, trung thương cũng được chuyển dần sang sản xuất hoặc được sắp xếp lại, mạng lưới thương nghiệp quốc doanh được xây dựng và phát triển, mỗi phường đều có tổ chức HTX tiêu thụ đáp ứng một phần nhu chầu tiêu dùng của nhân dân.

Đời sống văn hóa cũng được nâng lên một bước,màng lưới y tế, thể dục thể thao phát triển rộng, đã biết kết hợp điều trị giữa Đông và Tây y, tổ chức trồng và chế biến thuốc nam, tích cực ngăn chặn dịch bệnh. Công tác giáo dục có những tiến bộ rõ cả về nội dung giảng dạy lẫn việc thực hiện phương châm học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội.

c) Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được duy trì thường xuyên, có khí thế mới. Cả 2 năm 78-79, Quận ta đều vượt chỉ tiêu tuyển quân, đồng thời còn tổ chức nhiều lực lượng bộ đội,thanh niên xung phong trực tiếp lên tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu ở biên giới Tây – Nam, phát động quần chúng hưởng ứng sôi nổi phong trào ủng hộ đồng bào tuyến đầu Tổ quốc.

Mặc dù kẻ thù các loại, nhất là bọn phản động Bắc Kinh dùng mọi thủ đoạn chống phá, kể cả âm mưu gây bạo loạn, thường xuyên dùng chiến tranh tâm lý kích động, gây rối, song ta kịp thời ngăn chặn và dập tắt, đã bằng biện pháp tổng hợp trấn áp có hiệu quả bọn chúng, giữ vững được an ninh chính trị và trật tự xã hội, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao.

d) Trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, chúng ta đã kết hợp chặt chẽ với việc xây dựng củng cố bộ máy Đảng, chánh quyền, đoàn thể từng bước nâng cao được chất lượng, kiện toàn vững mạnh hơn về tổ chức và bước đầu các bộ máy đó hoạt động đã có hiệu lực.

Trọng tâm của công tác này là hướng về cơ sở.Đảng bộ đã dồn sức bám xuống phường, cùng với địa phương tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, đi vào quần chúng, phát động đồng bào các giới thực hiện quyền làm chủ tập thể, cùng với đồng bào vượt qua những khó khăn, làm cho bà con hiểu rõ hơn bản chất tốt đẹp của chế độ mới xã hội chủ nghĩa.

2/ Cũng trong hơn hai năm qua, chúng ta bộc lộ một số khuyết nhược điểm, có mặt còn lớn mà sắp tới phải khắc phục một cách có hiệu quả.

Tiếp thu đường lối chủ trương của Đảng chưa nhuần nhuyễn (nhất là ở cơ sở), tổ chức thực hiện chưa được linh hoạt, sáng tạo phù hợp với thực tế từng nơi. Trong các đợt công tác lớn, thường chỉ đạo tập trung lúc đầu, sau đó lơi dần, thiếu kiên quyết, triệt để nên thường dây dưa kéo dài, hạn chế kết quả.

Vừa qua ta còn nặng cải tạo, xây dựng chậm lại chưa phát huy tốt tác dụng thúc đẩy sản xuất và phục vụ đời sống. Trong nông nghiệp, việc xây dựng tập đoàn còn có phần gò ép, chưa chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết, nhất là về mặt tư tưởng, tổ chức.

Về lãnh đạo và quản lý kinh tế vẫn là một khâu yếu. Một mặt do trình độ có hạn, mặt khác do tổ chức thông tin kinh tế chưa chặt chẽ, chưa thành chế độ, do đó nắm không sát, chỉ đạo thiếu nhạy bén linh hoạt, chưa giải quyết kịp thời những vướng mắc làm cản trở sản xuất, có khi để kéo dài. Tinh thần hợp tác XHCN giữa các Ban, ngành, đoàn thể trên dưới… chưa đồng bộ, chưa thành ý thức tự giác.

Tình hình xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa còn xảy ra nhiều, có một số vụ nghiêm trọng, tập trung là ở các ngành kinh tế. Ta xử lý chậm vàít hiệu qủa, biện pháp ngăn chặn còn lỏng, các chế độ, nguyên tắc chưa được tôn trọng.

Việc giữ gìn an ninh trật tự thường ở thế đối phó (nhất là trong lĩnh vực chống chiến tranh tâm lý) ta chưa thật sự chủ động. Phạm pháp hình sự giảm ít, các khu vực chợ trời còn nhiều phức tạp. Việc xây dựng nội bộ trong ngành công an chưa làm thường xuyên và có hiệu quả, làm nảy sinh một số mặt tiêu cực, hạn chế lòng tin của quần chúng.

Trong phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động chưa tạo được nhiều điều kiện thiết thực để quần chúng thực hiện, còn ở mức độ phát động chung chung, do đó quần chúng chưa mạnh dạn. Thủ tục giấy tờ còn phiền phức, các đơn từ khiếu nại, khiếu tố giải quyết chậm và chưa đến nơi đến chốn. Vai trò của Hội đồng nhân dân và các đoàn thể chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ.

Công tác xây dựng nội bộ chưa được chặt chẽ và chú ý đúng mức sinh hoạt chi bộ nhìn chung không duy trì thường xuyên lại chưa mang tính chiến đấu cao, coi nhẹ công tác chính trị tư tưởng. Việc quản lý và giáo dục Đảng viên yếu, phê bình đấu tranh còn tình trạng e dè, nể nang, xuề xoà, một số nơi nội bộ đoàn kết kém. Tình hình này cộng với những tác động và môi trường khách quan dẫn đến một số không ít cán bộ, Đảngviên, chiến sĩ thoái hóa, biến chất sa vào tham ô, móc ngoặc, ăn hối lộ, ức hiếp dân, cá biệt có Đảng viên trốn ra nước ngoài, tự tử. Trong khi đó việc xử lý kỷ luật thiếu nghiêm minh, một số trường hợp để kéo dài ảnh hưởng đến nội bộ, đồng thời ta chưa có biện pháp tích cực giải quyết các loại tin đồn, nói xấu, vu cáo cán bộ Đảng viên.

Hiện nay công tác phát triển Đảng viên mới rất chậm do nhiều chi bộ ít quan tâm. Việc bồi dưỡng và nhân điển hình tiên tiến cũng không được chú ý. Công tác xây dựng lực lượng của các đoàn thể chậm và yếu, cơ sở nòng cốt mỏng, nhiều nơi còn trắng (nhất là ở khu vực người Việt gốc Hoa, một số khu Thiên chúa giáo).

PHẦN THỨ HAI

NHIỆM VỤ MỤC TIÊU TRONG HAI NĂM 1980 – 1981

Bước vào hai năm 1980-1981 xác định thế mạnh của Quận ta vẫn là tiểu thủ công nghiệp, ngành dệt là mũi nhọn, đồng thời ngành cơ khí đang phát triển trở thành ngành chủ lực, ngành xuất khẩu cũng chiếm một vị trí quan trọng. Quận còn có trên 900 ha đất nông nghiệp, trong đó có 300 ha đã chuyển sang chuyên canh rau, có đàn heo (18.000 con), đàn gà (20.000 con) và 47 ha ao hồ nuôi cá.

Ta có lực lượng lao động dồi dào chiếm 43 % dân số, trong đó có trên 17.000 lao động tiểu thủ công nghiệp phần đông là thợ lành nghề.

Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, gần đây là Nghị quyết 6 của Trung ương và NQ 9 của Thành ủy, xuất phát từ thực tế của Quận nhà, trong 2 năm 1980 –1981 chúng ta phải thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ chính như sau:

1-Mở rộng và phát triển sản xuất mạnh mẽ, rộng khắp, từng bước tổ chức theo ngành, quản lý chặt sản phẩm, bảo đảm các yêu cầu lưu thông phân phối nhằm phục vụ và cải thiện đời sống nhân dân.

2-Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, sẵn sàng chiến đấu và phòng chống bạo loạn.

3-Tăng cường công tác xây dựng Đảng, Chánh quyền, đoàn thể. Trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, kiên quyết chống tiêu cực, nhất là tệ ăn cắp, hối lộ và ức hiếp quần chúng.

Yêu cầu cụ thể:

1/ Tiếp tục công tác cải tạo, tổ chức lại sản xuất theo hướng làm ăn tập thể vừa khẩn trương vừa vững chắc, vận dụng tốt 5 thành phần kinh tế, ra sức phát triển tiểu thủ công nghiệp làm ra nhiều hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu bằng nguyên vật liệu tại chỗ và trong nước. Nông nghiệp chuyển nhanh sang chuyên canh rau, từng bước đưa chăn nuôi cân đối với trồng trọt tạo ra một vành đai thực phẩm của thành phố. Phấn đấu giải quyết cơ bản lao động thất nghiệp trong Quận và đưa lên khu giãn dân. Từng bước ổn định và cải thiện đời sống cho quần chúng.

2/ Tập hợp toàn dân vào đội ngũ, củng cố và phát triển các lực lượng vũ trang và bán vũ trang, tổ chức tốt các bộ phận phục vụ chiến đấu.

3/ Phải làm cho hệ thống chuyên chính vô sản vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, bằng cách xây dựng cho được chế độ làm chủ tập thể toàn diện bao gồm sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực quản lý của Chánh quyền và năng lực làm chủ của quần chúng.

- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng phải nhằm phục vụ cuộc đấu tranh ai thắng ai giữa hai con đường XHCN và TBCN. Cán bộ Đảng viên phải dứt khoát với những tư tưởng phi vô sản để rèn luyện nâng cao năng lực trình độ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tăng cường giáo dục các tầng lớp nhân dân tập trung cho sản xuất đi vào làm ăn tập thể, chống tử tưởng ăn bám, bóc lột, chống tư tưởng tự do vô kỷ luật. Kiên quyết chống những biểu hiện suy thoái trong nội bộ, ngăn chặn và đấu tranh đẩy lùi hiện tượng tiêu cực.

- Công tác tổ chức phải xoáy sâu vào tổ chức chỉ đạo thực hiện đạt hiệu quả cao, quản lý và xây dựng nội bộ được chặt chẽ, có quy hoạch đào tạo cán bộ quản lý kinh tế.

I/ NHIỆM VỤ VÀ CHỈ TIÊU KINH TẾ:

A-Những chỉ tiêu chủ yếu:

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

1980

1981

Ghi chú

Giá trị tổng sản lượng trong đó:

- Giá trị hàng hóa xuất khẩu.

- Vải lụa các loại

- Nông cụ cầm tay

- May nội địa

- May xuất khẩu

- Thủy tinh

- Thuộc da

- Hài thêu xuất khẩu

- Đan len xuất khẩu

- Mây tre lá xuất khẩu

. . . .

- Diện tích chuyên canh rau

- Tổng đàn heo

- Giải quyết lao động

1.000 đ

1000 đ

1000 m

1000 cái

1000 sp

1000 sp

1000 đôi

1000 sp

1000 đ

120.000

20.000

15.000

250

500

650

300

200

150

100

1.000

300

20.000

14.900

130.000

20.000

15.000

350

600

800

350

500

200

50

1.000

500

25.000

7.000

- KH năm 81 chưa có số kiểm tra của TP, Quận tạm dự kiến.

Năm 79 còn khoảng 3000 người, chuyển tuổi lao động 4000 người) như vậy đến 81 căn bản giải quyết xong nạn thất nghiệp

B. Nhiệm vụ, biện pháp cụ thể để phát triển kinh tế trong 2 năm 1980 – 1981.

1) Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:

- Đẩy mạnh cải tạo XHCN đối với ngành tiểu thủ công nghiệp theo con đường làm ăn tập thể dưới các hình thức hợp tác xã, tổ hợp. Tiến hành quy hoạch theo ngành, theo nhóm sản phẩm, hình thành những vệ tinh cho các tổ hợp, HTX và những cơ sở gia công cho các xí nghiệp Trung ương và Thành phố, tạo điều kiện đi vào chuyên môn hóa một số ngành trọng điểm như dệt, sản xuất nông cụ, xe đạp, may, đan len, kim khí, tiêu dùng….

- Ngành dệt vẫn là mũi nhọn cần dồn sức tập trung chỉ đạo. Trước mắt ngành dệt có khó khăn về nguyên liệu nên cần khẩn trương chuẩn bị phương án chuyển sang mặt hàng mới khi không đủ nguyên liệu, đồng thời phải có kế hoạch để bảo quản các máy móc, trang thiết bị và tay nghề ngành dệt.

- Đẩy mạnh chế biến lương thực,thực phẩm cho người và thức ăn gia súc.

- Chú trọng phát triển những mặt hàng bằng nguyên liệu nội địa, những mặt hàng tận dụng từ phế liệu, phế thải như sắt vụn, vải vụn, sợi rối…

- Đặc biệt quan tâm đầu tư chiều sâu vào ngành cơ khí lên vị trí chủ lực phục vụ cho sửa chữa mà trọng tâm phục vụ cho nông nghiệp, chế biến lương thực thực phẩm, phụ tùng cho ngành dệt, đẩy mạnh việc tự trang tự chế các thiết bị chuyên dùng để sản xuất nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng phục vụ cho tiêu dùng, cần đảm bảo nông cụ cải tiến, nửa cơ giới cho các phường sản xuất nông nghiệp, cho vùng kinh tế mới Thái Mỹ, nông trường Duyên Hải và tiến tới cung cấp cho các nơi khác.

- Nhanh chóng hình thành cơ sở xi mạ, nhiệt luyện cho ngành cơ khí. Coi trọng phát triển ngành vật liệu xây dựng gạch, ngói để đáp ứng cho công tác kiến thiết, sửa chữa trong quận. Đẩy mạnh sản xuất đồ chơi trẻ em thành ngành mới. Khôi phục lại một số cơ sở sản xuất giấy đã có để đáp ứng một phần nhu cầu cho học sinh và các cơ quan trong quận.

- Quan hệ với các cơ quan thành phố, trung ương để khôi phục ngành da.

- Phát triển ngành thủy tinh sản xuất từ cát. Sản xuất thí nghiệm một số mặt hàng cao cấp.

- Cần duy trì sản xuất đồ mộc làm ra nhiều mặt hàng phục vụ trong nước và xuất khẩu.

- Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu nội địa và gia công từ nguyên liệu nhập nước ngoài như đan len, may mặc, thêu, mây tre lá, đồ chơi trẻ em, dao nhíp, thảm sơ dừa….

- Nhanh chóng thu gom và tổ chức tốt lực lượng thiết bị còn vắng chủ nằm phân tán trong quận, có biện pháp khôi phục ngay sản xuất, kiên quyết không để một cơ sở sản xuất nào ngưng hoạt động. Để đảm bảo sản xuất được liên tục, ổn định được công ăn việc làm của quần chúng, ổn định được đời sống nhân dân lao động, các cơ sở, các đơn vị sản xuất luôn luôn có phương án chuyển mặt hàng mới khi thiếu nguyên liệu mà các hợp đồng kinh tế không cung cấp đầy đủ.

- Coi trọng công tác quản lý kinh tế, áp dụng ngay, kịp thời, chặt chẽ các định mức kinh tế – kỹ thuật, phải quản lý cho được sản phẩm.

- Tiến hành sắp xếp, bố trí hợp lý lao động, thu hút thêm lao động đồng thời sử dụng hết lực lượng lao động có tay nghề, có kỹ thuật.

Biện pháp thực hiện:

- Giao Liên hiệp xã và các ngành có liên quan tổ chức hội nghị chuyên đề bàn về nguyên liệu, phế liệu phục vụ cho sản xuất.

- Quan hệ mật thiết với các xí nghiệp Trung ương và Thành phố đóng trong địa phương để trao đổi học tập về kinh nghiệm tổ chức sản xuất, quản lý kinh tế, đào tạo công nhân kỹ thuật giải quyết công ăn việc làm cho quần chúng lao động, hỗ trợ về nguyên liệu, phế liệu, phế thải.

- Đẩy mạnh quan hệ hợp tác XHCN giữa các cơ quan, ban ngành trong Quận, giữa các cơ quan xí nghiệp Trung ương, Thành phố với địa phương trên nguyên tắc bình đẳng, giúp đỡ nhau và cùng có lợi.

- Đẩy mạnh sự hoạt động của nhóm khoa học kỹ thuật của ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp quận, nghiên cứu các đề tài thiết thực phục vụ trước mắt cũng như lâu dài để đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp cũng như cho các nhu cầu khác. Coi trọng công tác phát minh sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm giải quyết những khó khăn về vật tư nguyên liệu phải nhập nước ngoài bằng nguyên liệu vật tư trong nước, đặc biệt nghiên cứu sử dụng tốt nguồn phế liệu, phế thải, nghiên cứ sản xuất các mặt hàng mới có giá trị phục vụ cho sản xuất, đời sống cho xuất khẩu.

- Có kế hoạch đào tạo công nhân kỹ thuật các bộ môn quản lý kinh tế như kế toán thống kê kế hoạch bằng nhiều hình thức, như chế độ kèm cặp, mở các lớp đào tạo ngắn hạn… để làm cho đội ngũ công nhân, cán bộ ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng.

- Hằng năm vào đầu qúy phải tổ chức cho được hội nghị khách hàng bao gồm các cơ quan Trung ương, Thành phố, các tỉnh bạn kí hợp đồng với địa phương để địa phương chủ động kế hoạch, đảm bảo thực hiện chỉ tiêu của Nhà nước.

- Về chỉ đạo lấy phường 1, phường 3 và phường 8 làm điểm chỉ đạo về tiểu thủ công nghiệp. Phường 1 chỉ đạo về công tác quy hoạch, tổ chức sản xuất ngành dệt và hàng tiêu dùng; Phường 3 chỉ đạo điểm về ngành cơ khí phục vụ cho tiêu dùng và sản xuất nông nghiệp; Phường 8 chỉ đạo điểm về phát triển các mặt hàng xuất khẩu và giải quyết công ăn việc làm cho quần chúng lao động.

2) Nông nghiệp:

Từng bước quy hoạch quận trở thành vành đai thực phẩm của thành phố. Dựa vào thế mạnh của tiểu thủ công nghiệp, lao động thừa hiện nay mà tác động mạnh vào nông nghiệp, đầu tư thêm chiều sâu giống, phân, thủy lợi, công cụ sản xuất và các biện pháp kỹ thuật khác để thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, đưa dần nông nghiệp phát triển tử sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN có cơ cấu cây con hợp lý, không ngừng tăng năng suất cây trồng, tăng năng suất lao động.

Trong trồng trọt phải sử dụng triệt để hết diện tích đất đai để trồng hoa màu, không được để “một tấc đất hoang”. Đẩy mạnh phong trào trồng màu, thực hiện khẩu hiệu “người người trồng màu, nhà nhà trồng màu” đối với các vùng có đất nông nghiệp.

Tiến hành quy vùng cây trồng hợp lý: vùng cây thực phẩm, vùng hoa màu, vùng cây dược liệu… để đi vào chuyên canh, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng trên cơ sở đó mà cân đối lương thực cho nông nghiệp. Trước mắt trong năm 1980 coi trọng cả 3 loại cây trồng lúa, rau, hoa màu và trồng cây dược liệu, chú trọng cả 3 mặt: diện tích, năng suất, sản lượng, quy hoạch giành một diện tích thích đáng để trồng cây thức ăn gia súc, đẩy mạnh trồng cây sua đũa để chắn gió, cải tạo đất và sử dụng làm nấm xuất khẩu. Nghiên cứu chuyển dần diện tích trồng lúa sang trồng rau màu.

Trong chăn nuôi trước hết phải tập trung giải quyết thức ăn và giống gia súc, đây là vấn đề cơ bản. Đẩy mạnh sự hoạt động của trạm vật tư nông nghiệp, hướng dẫn các tập đoàn quy hoạch trồng cây thức ăn gia súc và tổ chức chế biến tại chỗ, quan hệ chặt chẽ với các xí nghiệp Trung ương, Thành phố (xí nghiệp đông lạnh)…đóng trong quận để hỗ trợ một phần thức ăn cho chăn nuôi, đồng thới trạm vật tư tiến hành quan hệ hợp đồng kinh tế các tỉnh để giải quyết thức ăn.

Phải tận dụng triệt để các cơ sở chuồng trại còn trống, kịp thời sữa chữa chuồng trại hư hỏng để tăng đầu gia súc, nếu phường nào còn để trống thì quận sẽ điều hòa cho các cơ quan, phường khác.

Kết hợp 3 hình thức chăn nuôi: Quốc doanh tập thể và chú trọng chăn nuôi gia đình. Củng cố và phát triển trại heo gà đã có,phấn đấu năm 80 đạt bình quân 4 đầu heo/ 1 ha gieo trồng (khu vực tập thể). Tận dụng triệt để những ao hồ để nuôi cá. Phải tạo nhanh heo giống theo phương hướng là thụ tinh nhân tạo. Trại heo quốc doanh cung cấp con giống, trước nhất là cơ sở chăn nuôi quốc doanh, HTX và một phần cho cán bộ công nhân viên có chăn nuôi, coi trọng phát triển đàn trâu bò, đặc biệt là trâu bò cày kéo để hỗ trợ sức kéo cho các tập đoàn sản xuất nông nghiệp, khôi phục lại nghề nuôi thỏ truyền thống ở phường 20. trong chăn nuôi lấy phường 15 và trại heo quốc doanh quận chỉ đạo điểm từ đó rút kinh nghiệm chỉ đạo ra diện.

Về biện pháp:

Có kế hoạch trồng hết diện tích đất nông nghiệp, đẩy mạnh các biện pháp thâm canh cây trồng, các biện pháp kỹ thuật trong chăn nuôi, trước hết là làm tốt các khâu: giải quyết giống cây trồng và thức ăn gia súc. Aùp dụng rộng rãi các giống kháng rầy, có năng suất cao ít sâu bệnh.

Tranh thủ mùa khô hàng năm mà phát động phong trào làm thủy lợi nhỏ, kết hợp xây dựng đồng ruộng với cải tạo đất. Thủy lợi là biện pháp hàng đầu đối với điều kiện đất đai của quận ta. Vì vậy phải có kế hoạch khai thác tốt nước ngầm, coi trọng đào giếng tay là chủ yếu để đảm bảo tưới nước trong mùa khô và đào đắp kinh mương thoát nước trong mùa mưa. Khẩn trương dưa điện nước vào các HTXvà các tập đoàn sản xuấttừ qúy 4/97.

Đẩy mạnh chế biến phân hữu cơ, tận dụng tốt nguồn phân rác hiện có, phấn đấu mỗi lao động nông nghiệp làm được 2 tấn phân hữu cơ trở lên. Ý thức cho cán bộ, công nhân viên, nhân dân và các đoàn thể quần chúng trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học, phong trào làm phân rác phân chuồng, phân xanh cho nông nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động của tổ bảo vệ thực vật, công tác thú y kịp thời phòng và trị bệnh cho gia súc.

Cần chỉ đạo tốt đưa những người không có công ăn việc làm nội thành tăng cường các phường nông nghiệp.

Việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể trong những năm tới theo phương châm khẩn trương nhưng vững chắc, trước mắt nhấn mạnh vững chắc. Khẩn trương củng cố các tập đoàn sản xuấtbảo đảm thu nhập của tập đoàn viên và gia đình ngày càng cao. Phải chuẩn bị thật tốt các điều kiện cần thiết mới xây dựng tập đoàn mới. Phải để cho nông dân tự nguyện, tuyệt đối không gò ép, cưỡng bức khi họ chưa muốn vào tập đoàn.

3) Ngành lương thực:

Thành lập tổ hợp và tiến lên hợp tác chế biến lương thực. Tiến hành công tư hợp doanh số lò bánh mì nhằm quản lý tốt khâu chế biến để không một cơ sở nào ngoài diện quản lý của Nhà nước. Đầu tư thêm một số cơ sở vật chất để nâng cao công suất máy móc và năng lực chế biến, tăng năng suất lao động.Điều tra cơ bản nắm cho được năng lực chế biến của quận, vận động một số cơ sở làm bún, bánh có trang thiết bị chuyển sang chế biến lương thực. Trên cơ sở hiện có mà xem xét đầu tư thêm máy móc thiết bị hoặc mở rộng mặt bằng cho phù hợp với yêu cầu chế biến hiện nay.Các cơ sở chế biến bột mì phải thông qua cấp phường quản lý về hợp đồng kinh tế, kiểm tra thực hiện các chế độ định mức, giao nộp, thanh toán… Phấn đấu hết năm 80 chế biến mì khô 100%.

Kiểm tra chặt chẽ các cửa hàng trung tâm khu vực, các tổ phục vụ về giá cả, tiêu chuẩn, định lượng phân phối, chất lượng thành phẩm chế biến, về thanh quyết toán….

Đồng thời ngành lương thực cùng với các cơ quan hữu quan, nắm chắc di biến động dân số, kiểm tra việc sử dụng lương thực ở các cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, tổ hợp, HTX tiểu thủ công nghiệp … theo chế độ chánh sách của Nhà nước. Tổ chức tốt màng lưới phân phối lương thực nhanh gọn, kịp thời đến tay người tiêu dùng.

Ngành lương thực cùng với nông nghiệp, nông hội, tài chánh… đẩy mạnh công tác thu mua lương thực đối với các phường có sản xuất lương thực giải quyết kịp thời lương thực cho các hộ nông nghiệp thiếu ăn, ưu tiên phân phối lương thực cho cán bộ, công nhân viên Nhà nước, cho khu vực sản xuất.

4) Cải tạo và xây dựng ngành thương nghiệp:

Đối với tư sản thương nghiệp chuyển sang sản xuất ra khỏi thành phố nay họ bỏ về, bằng mọi cách đưa họ trở lại nơi cũ tiếp tục sản xuất. Đến đầu năm 1980 phải giải quyết dứt điểm những mặt tồn đọng trong đợt cải tạo vừa qua,hoàn thành việc thanh lý, thanh toán nhà cửa, hàng hóa, vốn liếng.

Đối với tiểu thương mỗi phường nắm chắc yêu cầu trong phường để định tỷ lệ hợp lý, để lại bao nhiêu tiểu thương phục vụ thiết thực cho sinh hoạt, đời sống của nhân dân còn bao nhiêu dứt khoát chuyển sang sản xuất.

Đối với thương nghiệp XHCN: Nhiệm vụ chủ yếu là tiến hành tổ chức một cách hợp lý mạng lưới lưu thông, phân phối hàng hóa, phục vụ tốt đời sống quần chúng, thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng phân công lao động, chống quan điểm kinh doanh đơn thuần vì mục đích lợi nhuận.

Song song với việc hoàn thành công tác cải tạo thương nghiệp phải hình thành nhanh chóng mạng lưới thương nghiệp quốcdoanh theo ngành hàng, để đủ sức nắm trọn khâu bán buôn, đẩy mạnh vai trò đắc lực cải tạo giá cả thị trường,củng cố tốt hệ thống thương nghiệp HTX 26 phường chiếm đại bộ phận thị trường bán lẻ, nhất là những mặt hàng thiết yếu phục vụ trực tiếp đến đời sống và sản xuất. Các phường khẩn trương tiến hành quy hoạch tổ chức lại mạng lưới dịch vụ phục vụ cho địa phương. thương nghiệp quốc doanh phải đạt cho được 3 yêu cầu phục vụ tốt đời sống – sản xuất – cải tạo và quản lý thị trường.

Tổ chức thu mua nắm nguồn hàng vươn lên quản lý cho được thị trường 70%, ngăn chặn tận gốc bọn buôn lậu, làm và bán hàng giả, bọn đầu cơ tích trữ, trị thật nặng bọn này, sắp xếp ổn định lại các chợ.

Biện pháp thực hiện:

Tổ chức tốt mạng lưới thu mua, đẩy mạnh thu mua mặt hàng tự doanh hàng công nghệ phẩm, nhất là các mặt hàng ngoài tiêu chuẩn của Nhà nước, hàng tự sản tự tiêu, thu mua hàng nông sản thông qua hợp đồng kinh tế hai chiều với nông dân ở địa phương và các tỉnh khác trên cơ sở giá cả hợp lý. Phải dành một tỉ lệ hàng công nghệ phẩm thích đáng để trao đổi với nông dân, kích thích sản xuất. HTX Phường phải thực hiện cho được hậu cần cho phường.

Đẩy mạnh công tác chế biến thực phẩm tiêu dùng để tăng cường chất lượng hai bữa ăn cho cán bộ, công nhân viên và quần chúng.

Củng cố và tăng cường sự hoạt động của các cửa hàng rau quả, thực phẩm tươi sống, chất đốt, các cửa hàng ăn uống để phục vụ tốt hai bữa ăn cho cán bộ, công nhân viên và nhân dân lao động. Đối với công ty ăn uống phải tự túc về thực phẩm bằng cách đẩy mạnh chăn nuôi, tận dụng thức ăn thừa thãi của khách hàng, trồng cây thức ăn gia súc, quận sẽ xem xét giao một số cơ sở chăn nuôi còn trống chuồng ở các phường cho công ty.

Thương nghiệp chỉ đạo tốt các cửa hàng ăn uống và xây dựng cửa hàng điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung toàn quận.

Làm kỹ, thường xuyên công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho anh chị em trong ngành về tinh thần, thái độ và quan điểm phục vụ khách hàng, xứng đáng là một nhân viên thương nghiệp XHCN, là người nội trợ “tận tụy của nhân dân lao động”.

5) Giải quyết công ăn việc làm – góp phần ổn định đời sống quần chúng lao động.

Giải quyết công ăn việc làm ổn định đời sống quần chúng là vấn đề cấp bách hiện nay. Trước hết thông qua công tác điều tra hộ khẩu, tổng điều tra dân số mà tổ lao động cùng với một số cơ quan chức năng nắm chắc lại toàn bộ lực lượng lao động và sức lao động, lao động thường và lao động có kỹ thuật trong quận đã được phân bố, sắp xếp cho các ngành, các cơ quan, xí nghiệp, các cơ sở sản xuất trong lãnh thổ địa phương, đồng thời qua việc xây dựng kế hoạch từ cơ sở mà thu hút thêm lao động cho các ngành để phát triển sản xuất giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đặc biệt nắm chắc, chính xác số lao động chưa có công ăn việc làm trên cơ sở đó mà có kế hoạch phân bổ lao động hợp lý, tạo điều kiện mở rộng sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, nông trường, xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 1981 giải quyết căn bản nạn thất nghiệp. Giải quyết công ăn việc làm cho quần chúng lao động phải thể hiện tính tích cực theo quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước ta, tránh mặc cảm quá khứ và phải ưu tiên trước cho những người trong diện chính sách như: gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có con em đi nghĩa vụ, thanh niên xung phong, gia đình có công cách mạng và quần chúng nghèo.

Cuối năm 1979 đầu 1980 tổ chức đưa hết số đồng bào các vùng kinh tế mới chạy về trở lại lập nghiệp sớm ổn định đời sống cho họ.

Hướng giải quyết lao động:

Tập trung thêm lao động cho ngành đan, thêu móc, các mặt hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu nội địa: chiếu cói, thảm sơ dừa, thảm bẹ dừa, mây tre lá… đẩy mạnh các mặt hàng tận dụng phế liệu phế thải…

Thu hút lao động thừa ở các phường nội thành phân bổ cho các tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Đưa lao động lên vùng kinh tế Thái Mỹ và các tỉnh bạn theo phương châm từng bước, đưa đến đâu ổn định đời sống đến đó. Đồng thời đưa lao động đi khai thác gạch ngói Bình Chánh, cho nông trường Duyên Hải, cho khai thác gỗ ở Long Hồ.

Bổ sung thêm lao động cho kiến thiết cơ bản, cho mạng lưới thương nghiệp, cho giao thông vận tải.

Đảm bảo cung cấp lao động theo chỉ tiêu lao động, tuyển sinh, nghĩa vụ quân sự, thanh niên xung phong…

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho quần chúng lao động để họ thấy rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động. Thực hiện cưỡng bức lao động đối với những người có sức lao động mà không chịu đi lao động.

6) Nhà đất và công trình công cộng:

Bố trí một cách hợp lý nhà làm việc cho các cơ quan trong quận, phục vụ yêu cầu tập trung chỉ đạo công tác. Ưu tiên giải quyết nhà cho nhà trẻ mẫu giáo, trường học, y tế, thương nghiệp, quan tâm chỉ đạo giải quyết nhà ở cho cán bộ công nhân viên và người lao động.

Hoàn thành công tác cải tạo nhà đất, nhà sĩ quan học tập cải tạo, nhà cho thuê, nhà vắng chủ đẩy mạnh công tác thu tiền nhà.

Phải có kế hoạch cân đối giữa hai nhiệm vụ vừa sửa chữa, vừa xây dựng mới. Tập trung vào những nhiệm vụ công trình trọng tâm để đáp ứng yêu cầu về chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương.

Nhanh chóng giải quyết điện nước cho nhân dân các phường chưa có hoặc có một phần (điện Hương lộ 14, 15; nước Phường 15,16 và một phần Phường 14, 17). Kiện toàn hệ thống đèn chiếu sáng nơi công cộng và tổ chức bảo vệ tốt hệ thống nhằm đảm bảo an ninh đi lại, góp phần bảo vệ trật tự trị an chung của thành phố.

Tăng cường sự hoạt động của Hội đồng xử lý nhà cửa của Quận, Hội đồng xét duyệt nhà cửa chẳng những cấp nhà mà còn xét duyệt sửa chữa nhà cho cán bộ, công nhân viên dựa trên nguyên tắc chế độ của Nhà nước, xử lý nghiêm minh những trường hợp chiếm nhà, chiếm tài sản bất hợp pháp.

Để chủ động vật tư nguyên liệu cho xây dựng và sửa chữa nhà cửa, Ban nhà đất tiến hành thành lập đội vật liệu xây dựng.

7) Giao thông vận tải:

Về giao thông:

Nhiệm vụ công tác giao thông của quận là: quản lý, duy tu, dậm vá, nạo vét thông cống rãnh, bảo đảm đường xá trong quận.

Tăng cường công tác kiểm tra nắm chắc tình hình cầu đường, cống rãnh…đề xuất với Sở Giao thông trong việc mở rộng theo phương hướng phát triển của Thành phố.

Hoàn thành quy hoạch, cải tạo và mở rộng các bến bãi xe, ở các tụ điểm giao thông quan trọng trong quận phải làm trước một bước, bảo đảm giao thông thông suốt phục vụ cho sản xuất, cho đời sống. Quan tâm thích đáng giao thông các phường sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là vùng rau Tân Thắng. Ngành giao thông phải tạo điều kiện thuận lợi nhất phục vụ cán bộ, công nhânviên, công nhân đi lại làm việc nhất là lúc giờ cao điểm, quản lý tốt giá cả.

Về vận tải:

Nắm, sắp xếp và quản lý chặt lực lượng vận tải của các HTX, tổ hợp và tư nhân để huy động hết năng lực vận tải hiện có, có sự phân công quản lý giữa quận và phường.

Đề nghị Sở phân cấp cho quận một đội vận tải chủ lực.

Ngoài ra nghiên cứu vận tải đường thủy từ thành phố đi nông trường Duyên Hải, Cù Lao Dung, Thuận Hải, Vũng Liêm kết nghĩa. Để đảm bảo các đầu xe hoạt động cần tiến hành tổ chức và quản lý các tổ hợp sản xuất và sửa chữa phương tiện vận tải quy mô vừa và nhỏ. Đồng thời tiến hành thành lập HTX cơ khí sửa chữa các loại xe tải trong quận.

8) Công tác tiền tệ: (bao gồm tài chánh – thuế – ngân hàng).

Nhiệm vụ của công tác tiền tệ là phải phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ sản xuất góp phần cải tạo thị trường phát triển kinh tế, góp phần ổn định đời sống cho nhân dân địa phương. Cải tiến một bước quan trọng về lề lối làm việc, giảm bớt thủ tục không cần thiết, tăng hiệu lực quản lý và phục vụ, giải quyết được nhanh chóng kịp thời tiền vốn cho công tác lưu thông phân phối. Đặc biệt ưu tiên cho vay những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đời sống nhân dân và xuất khẩu, nhưng phải đảm bảo hiệu quả kinh tế cho sản xuất và đời sống.

Với chức năng, nhiệm vụ của ngành mà đưa dần công tác quản lý kinh tế vàp nề nếp, tăng cường chế độ hoạch toán kinh tế bằng thông qua chế độ cấp vốn cho các cơ sở đơn vị kinh doanh.

Căn cứ tình hình và đặc điểm hiện nay, công tác tài chính phải phục vụ kịp thời, thiết thực, thúc đẩy được sản xuất, cân đối vốn đầu tư thích đáng cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

Đẩy mạnh hoạt động tín dụng thêm một bước đảm bảo hiệu quả của vòng quay đồng vốn.

Đảm bảo chỉ tiêu thu thuế hàng tháng, qúy kết hợp với phường làm tốt công tác đốc thu, có biện pháp tốt để đẩy mạnh nguồn thu đảm bảo chính sách thúc đẩy sản xuất.

Các Ban, Ngành, các đơn vị phải thực hiện nghiêm chỉnh về nguyên tắc chế độ thu chi tài chánh, thanh quyết toán kịp thời. Đồng thời phải quản lý chặt chẽ tiền mặt, tài sản, phân phối hợp lý và tiết kiệm.

Ngân hàng phải tổ chức tốt mạng lươiù tiết kiệm rộng rãi đều khắp trong nhân dân, trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học…

Đề nghị ngân hàng thành phố điều tiết cho các nơi khác, đảm nhiệm nguồn chi cho quân khu 7 để góp phần giải quyết khó khăn về tiền vốn cho sản xuất (tiền mặt). Đẩy mạnh hoạt động của công tác tín dụng của địa phương thêm một bước.

II/ CÔNGTÁC TƯ TƯỞNG VÀ VĂN HÓA:

A- Nhiệm vụ chung:

Nhiệm vụ chung của công tác tư tưởng và văn hóa là tạo nên chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước và giác ngộ XHCN trong cán bộ chiến sĩ và quần chúng nhân dân, nhằm phát động thành những phong trào hành động cách mạng sôi nổi, rộng lớn, liên tục và tự giác. Thông qua các phong trào mà phát huy các hoạt động văn hóa, thông tin, giáo dục và nhà trẻ, y tế và thể dục thể thao, thương binh xã hội, nhanh chóng giải quyết về cơ bản các tệ nạn xã hội, hình thành nền văn hóa mới, con người mới XHCN.

Khâu trung tâm của công tác tư tưởng và văn hóa là tiếp tục giáo dục cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân hiểu rõ và thực hiện tốt quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, lấy đó làm động lực thúc đẩy mọi mặt công tác và phong trào quần chúng tiến lên.

Đối tượng phục vụ chủ yếu của công tác tư tưởng và văn hóa vẫn là giai cấp công nhân (chú ý thợ thủ công) nông dân và tầng lớp trí thức yêu nước coi đây là chỗ dựa là nồng cốt của mọi hoạt động tư tưởng và văn hóa. mặt khác xuất phát từ đặc điểm của quận ta, cần chú trọng công tác tư tưởng và văn hóa đúng mức đối với quần chúng Thiên chúa giáo và người Hoa. Tuyệt đối không được buông lơi và xem nhẹ đối khu vực này.

Cần quán triệt cuộc đấu tranh trên các lĩnh vực thuộc mặt trận tư tưởng và văn hóa ở quận ta đã, đang và sẽ có diễn ra rất gay gắt, quyết liệt phức tạp. Kết quả cuộc đấu tranh này có ý nghĩa quyết định cho việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ ta trong những năm tới.

B- Nội dung công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng:

Nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng:

1/ Giáo dục nâng cao về giác ngộ cho quần chúng hiểu về mục tiêu và con đường đi lên XHCN đầy tươi sáng của dân tộc ta, chỉ có Đảng, Nhà nước chuyên chính vô sản và chế độ làm chủ tập thể XHCH mới giải quyết tốt và triệt để đời sống của nhân dân lao động, động viên cổ vũ nhiệt tình cách mạng của quần chúng làm cho quần chúng tin tưởng vững chắc, nhìn thẳng và hăng hái vươn lên vượt những khó khăn trong công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXH. Nâng cao tinh thần cảnh giác âm mưu của kẻ thù bên ngoài câu kết với mọi lực lượng chống cách mạng còn ẩn nấp bên trong, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, nói xấu, đả kích, gieo rắc hoài nghi, làm xói mòn lòng tin của quần chúng vào chế độ XHCN và hệ thống chuyên chính vô sản.

Ra sức giáo dục bảo vệ CNXH đi đôi với xây dựng Tổ quốc XHCN.

2/ Giáo dục tinh thần làm chủ tập thể XHCN, pháp chế XHCN. Đề cao quan điểm sản xuất và lao động cần kiệm xây dựng đất nước. Phổ biến sâu rộng các chính sách mới của Đảng về phát triển sản xuất, cổ vũ quần chúng hưởng ứng công cuộc tổ chức lại sản xuất theo hướng đi lên tập thể hóa, xã hội hóa, chuyển một bộ phận các lao động dịch vụ và thương mại qua sản xuất.

Đấu tranh chống tư tưởng ngán lao động, ngại sản xuất, sống hưởng thụ và bóc lột, trốn tránh thực hiện 4 nghĩa vụ công dân: nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ trật tự trị an, nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước.

Chống lối làm ăn phi pháp, hối lộ làm hư hỏng cán bộ, buôn lậu buôn hàng ăn cắp của Nhà nước, chống lối làm ăn không ngay thiệt, làm dối, làm giả, cắt xén nguyên liệu, không bảo đảm chuẩn chất.

3/ Tuyên truyền giáo dục thực hiện nếp sống văn hóa mới, con người XHCN. Nêu cao người tốt việc tốt trong quận ta, xây dựng đơn vị điển hình tốt và động viên thi đua vươn lên thành đơn vị tiên tiến. Chống các tệ nạn xã hội cũ, rượu, cờ bạc, đĩ điếm…và tàn dư quan điểm cũ, tâm lý và thị hiếu cũ về lối sống và nền văn hóa của chế độ thực dân mới còn lưu lại.

4/ Tăng cường giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản. Thông qua giáo dục đường lối đối ngoại của Đảng và sinh hoạt chính trị thời sự. Giáo dục nghĩa vụ quốc tế đối với Campuchia và Lào, tinh thần hợp tác tương trợ quốc tế trong liên minh chiến lược với Liên Xô và các nước XHCN anh em, liên minh với phong trào cách mạng nhân dân tiến bộ thế giới chống đế quốc và bọn phản động Bắc Kinh. Chống tàn dư tư tưởng ca ngợi, sùng bái mức sống vật chất của xã hội tư bản.

Giáo dục chính sách đoàn kết Việt – Hoa, lương giáo, chống mọi thủ đoạn nói xấu, xuyên tạc chia rẽ của kẻ địch và đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế trong đường lối chính sách của Đảng.

Về hình thức tuyên truyền cổ động, ngoài việc nghiên cứu nâng cao chất lượng bề sâu, cần phát triển trên diện rộng. Chú trọng củng cố hệ thống truyền thanh quận và các phường, nhất là các phường nông nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động của các đội truyền thanh lưu động. Phát triển các hoạt động tuyên truyền trực quan như khẩu hiệu, panô, triển lãm, nâng cao chất lượng nhà thông tin triển lãm của quận nhằm thu hút đông đảo người xem, củng cố và xây dựng các trạm, bản dân tin các cơ sở, các phường xây dựng nhiều bản tin xuống tận tổ dân phố.

Về biện pháp:Cần khẩn trương xây dựng mạng lưới tuyên truyền quần chúng. Xây dựng phong trào quần chúng nắm thế chủ động trên mặt trận đấu tranh dư luận. Dập tắt kịp thời những tin đồn nhảm, đồng thời đấu tranh kiên quyết đối với các hiện tượng trốn tránh nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ lao động.

Cần bám sát phong trào, kịp thời phát hiện, bồi dưỡng các điển hình tiên tiến, cổ vũ mạnh mẽ phong trào học tập và thi đua với các điển hình tiên tiến.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức Nhà nước dù ở cương vị công tác nào, đều là một tuyên truyền viên tích cực trong quần chúng. Quận ủy khẩn trương chuẩn bị hệ thống báo cáo viên của quận (ít nhất khoảng 20 đ/c) và các đoàn thể ở cơ sở phải khẩn trương xây dựng và quản lý chặt chẽ mạng lưới tuyên truyền viên của đoàn thể mình, để đủ sức phục vụ mọi yêu cầu thường xuyên và trung tâm đột xuất. Ngoài ra, cần có kết hợp chặt chẽ mọi lực lượng tuyên truyền cổ động.

C- Công tác văn hóa văn nghệ:

Phát triển rộng khắp phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới. Mở rộng màng lưới nòng cốt trong công nhân, nông dân và trí thức yêu nước, cổ vũ những mặt tích cực trong đời sống xã hội, xây dựng tư tưởng mới, con người mới XHCN.

Khẩn trương xây dựng hoàn chỉnh trung tâm văn hóa của quận, làm mẫu hướng dẫn cho cở sở phát triển hoạt động này. Mặt khác phải khẩn trương hoàn thành công tác cải tạo đối với các cơ sở văn hóa tư nhân, xây dựng tốt mạng lưới phát hành quốc doanh, hiệu ảnh, cơ sở thâu băng…

Ban Văn hóa và thông tin phối hợp với Ban sưu tầm tài liệu lịch sử Đảng tiến hành xây dựng tương đối hoàn chỉnh Nhà truyền thống của Quận vào cuối năm 1980, xây dựng năm bia truyền thống của Quận.

Đẩy mạnh phong trào đọc sách trong nội bộ quần chúng, chú ý các xí nghiệp và các phường nông nghiệp, phát triển phòng đọc sách của Quận, thành lập mỗi xí nghiệp, phường, trường học một phòng đọc sách vào cuối năm 1980.

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng, không ngừng nâng cao chất lượng nghệ thuật, nội dung bám sát phục vụ các yêu cầu cụ thể từng lúc của địa phương. Phải chuyển mạnh phong trào văn nghệ quần chúng tại các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp. Luôn luôn đào tạo hạt nhân để nuôi dưỡng và phát triển phong trào. Đẩy mạnh phong trào thi đua tự biên, tự diễn. Mặt khác, cần tiếp tục phát triển các cơ sở vật chất như nhà đất, sân khấu lộ thiên để đưa các đoàn hát chuyên nghiệp về phục vụ quần chúng.

D- Công tác giáo dục nhà trẻ:

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt và học tốt. Phấn đấu đạt 1/3 số trường. Nhà trẻ tiên tiến vào cuối năm 1980 và nâng lên 1/2 vào cuối năm 1981. số học sinh lên lớp đạt 95 –97%, thi chuyển cấp đạt 95%. Phải chuyển hướng nhanh theo như nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục. Để đạt các yêu cầu trên vấn đề cấp bách trước mắt là phải tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo giáo dục chính trị, tư tưởng, chăm lo tốt đời sống vật chất đối với đội ngũ giáo viên. Thường xuyên củng cố các Ban Giám hiệu nhà trường đồng thời quan tâm đúng mức việc xây dựng vững mạnh các đoàn thể trong nhà trường, đặc biệt là đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và đội thiếu niên nhi đồng Hồ Chí Minh. Cần xây dựng 2 trường điểm phát triển toàn diện (trường phổ thông cấp 1,2 Nguyễn Gia Thiều và Trường Mẫu giáo Tuổi Xanh) để rút kinh nghiệm cho các trường khác.

Ưu tiên giải quyết cơ sở vật chất cho trường học, nhà trẻ. Tiếp tục vận động nhân dân tích cực bảo trợ từng trường, lớp, nhà trẻ để đảm bảo 100% con em đến tuổi được nhập học. Khẩn trương sửa chữa 20 trường hư hại nhiều, đóng mới 500 bộ bàn ghế phổ thông, 9000 chỗ ngồi mẫu giáo và xây dựng 10 phòng học mới. Mặt khác khẩn trương hoàn thành cải tạo trường còn lại vào cuối năm 1979.

Phát triển phong trào bổ túc văn hóa. thực hiện phổ cập đối tượng 1 và 2 trong năm 1979. Đưa 5.000 học viên cấp 1, 3.000 học viên cấp 2, 1.200 học viên cấp 3 và 200 học viên cho trường bổ túc văn hóa tập trung. Phát động phong trào thi đua học tập văn hóa trong cán bộ công nhân viên chiến sĩ, coi đây là một tiêu chuẩn xét đề bạt, khen thưởng.

Phối hợp với Hội phụ nữ Quận và các phường đẩy mạnh tuyên truyền thường xuyên về ý nghĩa tầm quan trọng của công tác nuôi dạy trẻ. Không ngừng giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng và nhiệt tình công tác trong đội ngũ cô nuôi dạy trẻ. Năm 1980 phát triển thêm 24 nhà trẻ, cộng chung là 58 nhà trẻ với 1.600 cháu. Cần quan tâm trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho các nhà trẻ phục vụ tốt nuôi dạy các cháu.

E- Công tác y tế và thể dục thể thao:

Phát triển phong trào chống dịch bệnh. Thường xuyên vận động nhân dân giữ gìn vệ sinh, chú trọng quản lý tốt phân, nước, rác và các nhà vệ sinh công cộng. Có kế hoạch ngăn chặn hiệu quả các dịch nguy hiểm. Đẩy mạnh phong trào sinh đẻ có kế hoạch. Mở rộng công tác quản lý thai sản tiến đến quản lý 100% về thai sản vào cuối năm 1980. Tiếp tục phát triển phong trào trồng và sử dụng thuốc Nam, chữa trị hiệu quả các bệnh thông thừơng.

Tăng cường công tác quản lý sức khỏe, chú trọng quản lý tốt sức khỏe cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ, học sinh và các diện ưu tiên khác. Đến cuối năm 1980, mỗi người dân đều có sổ sức khỏe riêng và được quản lý chăm sóc chu đáo.

Đẩy mạnh xây dựng mạng lưới y tếcơ sở, đưa việc phục vụ đến sát dân. Tiếp tục xây dựng tốt các trạm y tế phường, phòng khám khu vực.

Phát triển mạnh mẽ phong trào tập thể dục buổi sáng rèn luyện sức khỏe, chủ yếu là thể dục quốc phòng, thực hiện trước hết trong khu cực Nhà nước và học sinh. Phát động trong thanh niên phong trào khỏe để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mở rộng phong trào thể dục thể thao quần chúng, quy tụ mọi hoạt động thể dục thể thao ở các cơ sở và các phong trào thể dục thể thao yêu nước. Đẩy mạnh phong trào thể dục buổi sáng, giữa giờ với chỉ tiêu học sinh 100%, lực lượng vũ trang công an 100%, cơ quan xí nghiêp 50%, phường 50%.

H- Công tác Thương binh xã hội:

Ngành Thương binh xã hội cần kết kợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể ở phường nắm chắc tình hình đời sống nhân dân, nhất là diện thực hiện chính sách hậu phương để giải quyết chu đáo. Đối với các gia đình có công với cách mạng phải giải quyết chế độ chính sách chính xác và kịp thời. Nỗ lực ổn định căn bản vào cuối năn 1980 những tệ nạn xã hội như xì ke ma túy, cướp giật, mãi dâm…các yêu cầu và biện pháp cụ thể của công tác này là:

- Hoàn thành tốt điều tra cơ bản vào đầu năm 1980 nhằm phân loại chính xác đối tượng để quản lý, chăm sóc một cách chủ động và chu đáo. Riêng đối với quân nhân phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành, phải hoàn thành điều tra cơ bản trong qúy II/1980.

- Phát triển mạnh và rộng khắc phong trào quần chúng thực hiện chính sách hậu phương quân đội. Đặc biệt chú ý phát huy vai trò của đoàn thể phụ nữ trong phong trào này. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động chính trị trong thương binh và gia đình liệt sĩ, vận động nhân dân tích cực tham gia xác nhận gia đình gương mẫu.

- Tăng cường săn sóc con em liệt sĩ, phấn đấu đạt yêu cầu 100% vào cuối năm 1980.

- Quan tâm hơn nữa đối với số cán bộ hưu trí. Đến cuối năm 1980 xây dựng 70-75% hưu trí khá theo 4 tiêu chuẩn qui định và đến cuối năm 1981 nâng lên 95-100%. Vận động khoảng 80% hưu trí thường xuyên tham gia công tác tại địa phương.

III/ RA SỨC CỦNG CỐ VÀ ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ, TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI, QUÂN SỰ HÓA TOÀN DÂN, SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN ĐẤU.

Yêu cầu nhiệm vụ công tác nội chính là: “Trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể XHCN của nhân dân và tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao tinh thàn cách mạng tiến công, tích cực, chủ động và kiên quyết tấn công, trấn áp các thế lực phản động, ngăn chặn tội phạm hình sự, bài trừ tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ thật tốt tài sản của Nhà nước. Chống trộm cắp thất thoát, ổn định vững chắc hậu phương, ngăn ngừa dập tắt mọi âm mưu gây bạo loạn, sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc”.

Cụ thể có 4 nhiệm vụ chính sau đây:

1- Đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc đều khắp cơ quan, xí nghiệp, trường học, phố, phường; Kết hợp tấn công chính trị, cải tạo tại chỗ với cưỡng bức lao động tập trung và truy quét bọn tội phạm chính trị và trị an xã hội; Củng cố, phát triển lực lượng chuyên nghiệp và nửa chuyên nghiệp, kết hợp với phong trào quần chúng tạo thành thế áp đảo tại cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội và luôn chủ động trong mọi tình huống.

2- Tăng cường công tác quân sự địa phương, hoàn thành chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự; xây dựng lực lượng vũ trang, nửa vũ trang. Lực lượng dân quân tự vệ đều khắp; thực hiện đầy đủ chính sách hậu phương quân đội; xây dựng kế hoạch vật chất bảo đảm cho kế hoạch phòng thủ.

3- Bảo vệ và phát huy quyền làm chủ tập thể XHCN của nhân dân lao động; tăng cường công tác bảo vệ tài sản XHCN; đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động nhằm ngăn chặn triệt để, có hiệu quả tệ tham ô, lãng phí, trộm cắp tài sản XHCN và tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, ức hiếp và làm phiền hà nhân dân.

4- Tăng cường pháp chế XHCN, thi hành triệt để pháp luật trong mọi lĩnh vực, trên cơ sở đó củng cố tổ chức kỷ luật, giữ vững trật tự an ninh, ổn định hậu phương, nâng cao năng suất lao động, hiệu suất công tác và hiệu quả chiến đấu.

Để hoàn thành các nhiệm vụ trên biện pháp chủ yếu là:

1/ Giữ vững an ninh chính trị, phòng chống bạo loạn: thường xuyên phát động toàn dân tham gia làm công tác trật tự an ninh và sẵn sàng chiến đấu, đưa phong trào an ninh Tổ quốc vào chiều sâu có tổ chức có chất lượng… mở rộng màng lưới cộng tác viên, cơ sở mật, tiến hành chặt chẽ quản lý hộ khẩu thường trú, tạm trú, nắm chắc tình hình chính trị tư tưởng đời sống của từng hộ, từng gia đình từng người.

- Nắm chắc âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các loại đối tượng tình báo, gián điệp, phản động; phá án kịp thời, chủ động, chính xác, thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng trong các lực lượng chuyên chính và trong quần chúng, hết sức chú ý kiểm tra và thực tập phương án và chống bạo loạn.

2/ Giữ gìn trật tự an toàn xã hội: Trên cơ sở giáo dục chính trị, chăm lo đời sống quần chúng, giải quyết việc làm mà từng bước hạn chế, đẩy lùi đi đến xóa bỏ nguyên nhân phát sinh tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội.

Kết hợp phong trào quần chúng kịp thời phát hiện truy bắt bọn lưu manh chuyên nghiệp hoạt động hiện hành nghiêm trị trước pháp luật; Đồng thời đẩy mạnh cải tạo tại chỗ, kết hợp với tập trung cưỡng bức lao động, học tập ở các trường, trại “xây dựng cuộc sống mới”, “phục hồi nhân phẩm”.

3/ Bảo vệ nội bộ, bảo vệ kinh tế, văn hóa: Xây dựng cơ quan xí nghiệp an toàn; thẩm tra xác minh những cán bộ, công nhân viên lai lịch không rõ ràng, kiên quyết không để cho kẻ địch, bọn xấu chui vào nội bộ, củng cố, kiện toàn các tổ chức, lực lượng bảo vệ cơ quan, xí nghiệp, trường học và thường xuyên kiểm tra, thực tập phương án bảo vệ.

Đặc biệt tăng cường công tác bảo vệ tài sản XHCN, chống tham ô lãng phí, thất thoát, trộm cắp.

4/ Về quân sự: Giáo dục truyền thống anh hùng và bản chất tốt đẹp của quân đội ta, làm cho toàn dân nhận rõ tình hình và nhiệm vụ trước mắt, qua đó tổ chức quần chúng vào đội ngũ. Tùy theo mức độ tin cậy về chính trị mà trang bị vũ khí hoặc thành lập các đội chuyên môn phục vụ chiến đấu. Củng cố cả về số lượng và chất lượng các đơn vị bộ đội quận, các đội tự vệ tập trung 26 phường và các đơn vị tự vệ cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện…Đồng thời tổ chức và xây dựng tốt lực lượng dân quân tự vệ rộng rãi, đặc biệt chú ý bảo đảm chất lượng và số lượng, mỗi phường có đại đội.

Thông qua việc giáo dục thường xuyên về công tác nghĩa vụ quân sự làm cho nhân dân nhận thức được đầy đủ về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là nhiệm chung của toàn dân, kết hợp với việc tổ chức xây dựng lực lượng mà thực hiện nghiêm túc và vượt chỉ tiêu tuyển nghĩa vụ quân sự của từng năm.

Phải làm tốt chính sách hậu phương quân đội. Đây là chính sách lớn của Đảng và nghĩa vụ chúng ta đối với những gia đình, những người có công đối với Tổ quốc, dân tộc.

Phải huấn luyện cho bộ đội và tự vệ võ trang thành thạo về kỹ thuật, chiến thuật, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu cao.

5/ Tăng cường pháp chế XHCN; Đẩy mạnh công tác điều tra, truy tố xét xử hpục vụ kịp thời yêu cầu chính trị của địa phương.

- Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật XHCN,chú ý các pháp quy về quyền làm chủ tập thể XHCN của nhân dân lao động và quy chế về trách nhiệm, kỷ luật, bảo vệ của công và phục vụ nhân dân của Hội đồng Chính phủ, coi đây là một nội dung sinh hoạt thường xuyên trong cơ quan chính quyền, trong toàn thể quần chúng, trong tổ chức Đảng và là một môn học trong các trường.

- Phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong quản lý Nhà nước, kinh tế, xã hội và trong việc thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

- Đẩy mạnh công tác xét xử hình sự. Các ngành công an, kiểm sát, tòa án, thanh tra, tích cực thực hiện tinh thần, nội dung hội nghị 4 ngành thống nhất về công tác xét xử hình sự, nhằm phục vụ kịp yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Nhân tố có tính chất quyết định nhất cho việc hoàn thành các nhiệm vụ công tác chính trên đây là khâu xây dựng lực lượng, tổ chức thực hiện chỉ đạo, chỉ huy. Vì vậy phải đặc biệt chú ý:

Kiện toàn tổ chức nội chính quận, phường đủ sức làm tham mưu cho cấp ủy về công tác nội chính. Thành phần ban nội chính quận và khối nội chính phường phải đủ đại diện của lực lượng chuyên chính vô sản (quân sự, công an, kiểm sát, tòa án, thanh tra, pháp chế và các đoàn thể quần chúng). Mỗi thành viên trong ban, khốí nội chính phải xác định vai trò và chức năng, nhiệm vụ của mình để góp phần tích cực vào công tác nội chính, nhất là vai trò của các đoàn thể quần chúng. Khẩn trương xây dựng 3 tổ chức thanh tra nhân dân, tổ hòa giải, kiểm sát cơ sở và tích cực bồi dưỡng nghiệp vụ để các tổ chức này thực hiện sự hoạt động có hiệu lực ở địa phương. Tăng cường sự chỉ đạo của cấp ủy quận, phường đối với tổ chức, sinh hoạt của các ban, ngành, khối nội chính.

Đối với ngành công an, cần phải tiến hành song song, vừa bổ sung lực lượng, vừa trong sạch hóa nội bộ, đào tạo huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn, giáo dục kỹ về chính trị, tư tưởng, tổ chức kỷ luật, cảnh giác cách mạng, chống thoái hóa, nâng cao chất lượng ngành công an của quận và phường.

Bổ sung cán bộ có năng lực cho ngành Thanh tra, cán bộ thẩm phán, kiểm soát viên xét xử và kiểm sát để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Trong 2 năm tới, làm tốt công tác nội chính sẽ có tác dụng quan trọng thúc đẩy công cuộc xây dựng kinh tế, ổn định, cải thiện đời sống của toàn quận, vì vậy cần có sự tập trung lãnh đạo của Đảng đối với công tác nội chính, từ cấp uỷ viên có năng lực, nhiệt tình trực tiếp phụ trách ban, khối nội chính và các ngành chủ lực trong khối nội chính làm tham mưu đắc lực cho quận ủy, phường ủy. Hàng tháng ban chấp hành phải nghe báo cáo các tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội, phòng thủ bảo vệ trong toàn quận và hoạt động của khối nội chính.

IV/ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, CỦNG CỐ CHÁNH QUYỀN VÔ SẢN, ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN – MẶT TRẬN.

Để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Quận Đảng bộ, trong 2 năm 1980 – 1981 cần phải xây dựng củng cố hệ thống chuyên chính vô sản vững mạnh đủ sức tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng mà yêu cầu cấp bách trước mắt là tập trung mọi cố gắng để phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh trật tự trong toàn quận, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, phải nâng cao sức chiến đấu của toàn Đảng bộ trong vai trò lãnh đạo toàn diện của mình. Nhất là phải chuyển hướng công tác tổ chức cán bộ, tổ chức chỉ đạo thực hiện nhằm vào quản lý kinh tế, quản lý thị trường. Phải bồi dưỡng phát huy cao độ năng lực làm chủ tập thể toàn diện của quần chúng và phải đề cao đúng mức hiệu lực quản lý chánh quyền từ quận đến phường, nhằm thực hiện được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, trên cả hai mặt nghĩa vụ và quyền lợi.

1- Đẩy mạnh công tác Dân vận – Mặt trận:

a. Nhiệm vụ chung của Mặt trận và các đoàn thể:

Trong hai năm 1980 – 1981 công tác Dân vận – Mặt trận phải thường xuyên giáo dục tập hợp quần chúng các ngành, các giới, các tầng lớp, giai cấp thành một khối đoàn kết toàn dân vững chắc. Phải làm cho mỗi người dân trong quận là một chiến sĩ trên mặt trận kinh tế, mặt trận sản xuất, cũng như trên mặt trận chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Đặc biệt phải dày công giáo dục, tập hợp quần chúng lao động các tôn giáo, chú ý tranh thủ tầng lớp trên, phải dần dần tách ảnh hưởng của tôn giáo ra khỏi thanh niên và nhi đồng.

Cùng với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động chủ yếu bằng Nhà nước, phải thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà chỗ dựa là các đoàn thể quần chúng. Các đoàn thể quần chúng là nền tảng cơ bản để thực hiện các phong trào cách mạng, là trường học giáo dục nâng cao trình độ giác ngộ XHCNcho quần chúng.

Thành lập ban Dân vận Mặt trận của quận uỷ đồng thời củng cố các BCHcủa đoàn thể công đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông hội, các tiểu ban của Mặt trận đủ sức hoạt động làm theo chương trình kế hoạch. Hàng tuần, hàng tháng có sơ tổng kết, rút kinh nghiệm báo cáo thỉnh thị quận ủy kịp thời.

Tăng cường công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ các đoàn thể quần chúng, cán bộ mặt trận, nhằm vừa bảo đảm công tác dân vận – mặt trận, vừa là nguồn bổ sung cán bộ cho các ngành, các cấp trong quận. Chú trọng đào tạo cán bộ trẻ, nữ, thành phần cơ bản cách mạng trưởng thành qua các phong trào cách mạng quần chúng. Vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng, chánh quyền, kiểm tra việc thực hiện chủ trương chánh sách của Đảng và Nhà nước. Bồi dưỡng điển hình, phát động phong trào thi đua sản xuất, từ đó mà nhân điển hình tiên tiến. Chọn lọc những quần chúng cơ bản, có đủ chuẩn chất giới thiệu phát triển Đảng.

Đoàn thể phải phát triển tổ chức của mình trong các cơ sở sản xuất , trong hoạt động phải gắn chặt với sản xuất, phải giáo dục, xây dựng trong giai cấp công nhân, nông dân và bà con lao động một tư tưởng chỉ đạo là đi vào con đường làm ăn tập thể.

- Công tác công đoàn:

Kiện toàn ban tổ chức công đoàn các cấp, các đơn vị thông qua bằng đại hội công đoàn dân chủ. Các cấp uỷ chọn cử cấp ủy viên, đảng viên ưu tú phụ trách công đoàn. Hàng tháng cấp ủy phải báo cáo tình hình công tác công đoàn và có nghị quyết về công tác công đoàn kịp thời. Đối với cán bộ công đoàn, Hội lao động hợp tác không nên thuyên chuyển hoặc kiêm nhiệm công tác (trường hợp đặc biệt phải xin ý kiến cấp ủy và công đoàn ngành dọc).

Phải lãnh đạo tốt việc mở đại hội công nhân viên chức, thực hiện ký kết hợp đồng giữa chánh quyền và công đoàn một cách thực sự vì quyền lợi chung. Mở rộng dân chủ trong việc xây dựng kế hoạch sản xuấttừ tổ công đoàn với tinh thần làm chủ, tự lực, tự cường.

Phải ưu tiên phục cho sản xuất, cho đời sống của cán bộ , công nhân viên, không để sản xuất ngưng trệ, không buộc thôi việc vô cớ. Quan tâm xét cấp nhà ở, phương tiện đi lại, hàng hoá, lươngthực, phục vụ ăn sáng ăn trưa cho công nhân. Phải chi hết qũy phúc lợi công cộng và giải quyết kịp thời đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động cho công nhân viên chức Nhà nước.

Ban Tuyên Huấn Quận ủy cùng với Công đoàn có kế hoạch huấn luyện chính trị cơ bản giác ngộ về giai cấp và tình hình, nhiệm vụ mới. Tổ chức nắm tình hình tư tưởng trong công nhân viên chức và trong thợ thủ công toàn quận. Xây dựng điển hình tiên tiến, những tập thể và cá nhân mới XHCN.

- Công tác Nông hội:

Củng cố tổ chức Nông hội từ quận đến phường đủ sức hoạt động, đồng thời củng cố các ban sản xuấtnông nghiệp phường và các ban quản lý tập đoàn bao gồm những nông dân tiên tiến đã được học tập và bồi dưỡng kỹ về công tác quản lý tập đoàn và đạt được trình độ quản lý nhất định. Đưa công tác đào tạo cán bộ quản lý tập đoàn HTX nông nghiệp thành nề nếp. Chánh quyền và Nông hội phải có mối quan hệ công tác thống nhất chặt chẽ, kể cả các đoàn thể thanh niên, phụ nữ.

Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nông dân hơn nữa, nhằm làm cho nông dân thấy được sự cần thiết cải tạo và xây dựng ngành nông nghiệp đi theo con đường làm ăn tập thể sản xuấtđi vào chuyên canh hóa, cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, để nâng cao đời sống nhân dân, sản xuất tập thể phải hơn cá thể.

- Công tác đoàn Thanh niên – đội Thiếu niên và Nhi đồng:

Trong hai năm tới phải tập trung hơn lãnh đạo công tác đoàn, đội, tập hợp giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng với những hình thức phù hợp sinh động.

Lực lượng thanh thiếu niên phải xung kích trong đấu tranh cho con đường làm ăn tập thể, sản xuất lớn XHCN; xung kích trong việc phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuấtvà xung kích đi đầu trong việc đào tạo, xây dựng con người mới có ý thức kỷ luật tốt, có sức khỏe tốt, có văn hóa cao và tâm hồn trong sáng lành mạnh.

Phải làm cho thanh thiếu nhi tăng thêm lòng yêu nước, yêu CNXH. Từ đó mà phấn đấu trở thành người chủ nhân đất nước XHCN. Trong độ tuổi thanh niên phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động thật tốt. Thiếu nhi thì chủ yếu phải học tập tốt, lao động tốt, tham gia tích cực phong trào “Trần Quốc Toản” và phong trào “kế hoạch nhỏ”.

Củng cố đội ngũ cán bộ hiện có tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ đoàn đội, phụ trách thiếu nhi nhất là trong công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và trường học. Quận đoàn phải tổ chức đủ các bộ phận giúp việc. Nắm chắc phong trào thanh niên toàn quận, đủ sức tập hợp giáo dục, rèn luyện thanh thiếu niên, kết nạp Đoàn theo Thông tri 100-TT-TV của Ban Thường vụ Thành ủy.

Cải tiến mối quan hệ giữa đoàn, chánh quyền, địa phương và nhà trường. Hết sức tráng huy động chồng chéo, kém linh hoạt, kém sinh động không phù hợp với tâm sinh lý tuổi trẻ, ảnh hưởng nhiều đế sức khoẻ, học tập và đời sống của các em. Tăng cường hoạt động câu lạc bộ thanh thiếu nhi, tổ chức diễn đàn khoa học, kỹ thuật, nếp sống mới, thể dục thể thao quốc phòng.

- Công tác Hội liên hiệp phụ nữ:

Tập hợp, tuyên truyền giáo dục phụ nữ trong quận, không phân biệt quá khứ, đóng góp hơn nữa vào công tác cải tạo, xây dựng các ngành kinh tế, đời sống, xã hội, công tác bảo vệ an ninh trật tự, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hội liên hiệp phụ nữ phải vừa động viên lực lượng, vừa tổ chức chỉ đạo chị em tham gia các phong trào, các mặt công tác và đồng thời phải đấu tranh bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Chị em phải được lao động sản xuất , học tập, phải được nghỉ ngơi giải trí, phải được bình đẳng với nam giới về mọi phương diện. Tích cực xây dựng mô hình người phụ nữ mới “đảm việc nước, giỏi việc nhà”. Vận động phần lớn tiểu thương chuyển sang sản xuất tiểu thủ công nghiệphoặc nông nghiệp.

2- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng chánh quyền vô sản chuyên chính:

Đảng bộ ta phải vươn lên thật mạnh mẽ cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phải nâng cao chất lượng của cán bộ Đảng viên ngang tầm với nhiệm vụ chính trị trong 2 năm tới.

Thông qua các trường huấn luyện chính trị cơ bản, các lớp tập huấn và học tập chủ trương đường lối của Đảng qua các cuộc hội nghị tổng kết từng mặt công tác, từng phong trào mà nâng cao trình độ chính trị, năng lực công tác của cán bộ Đảng viên, từ đó mà từng cán bộ Đảng viên xác định tinh thần trách nhiệm phấn đấu thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và lãnh đạo quần chúng thực hiện. Trong 2 năm tới phải nâng trình độ chính trị của Đảng viên lên một cấp.

Chi bộ là gốc, là nơi quản lý, rèn luyện, phấn đấu của Đảng viên. Sinh hoạt chi bộ phải đảm bảo 3 tính chất: chiến đấu, xây dựng và giáo dục, đấu tranh với mọi biểu hiện tư tưởng và hành động đi ngược lại lý tưởng, chủ trương đường lối của Đảng, cho bộ phải làm tốt công tác 5 quản.

Trong 2 năm tới, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng xoay quanh những nội dung và yêu cầu sau đây:

- Từng bước nâng cao trình độ nhận thức lý luận cơ bản, trước mắt nhận thức về thời kỳ quá độ, bước đi ban đầu tử sản xuất nhỏ tiến lên CNXH.

- Phát động trong Đảng bộ phong trào học tập lý luận và đường lối chánh sách của Đảng (nhất là những nghị quyết, chánh sách mới ban hành). Tích cực học tập văn hóa, tìm hiểu khoa học kỹ thuật, trau dồi năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện, nâng cao năng lực quản lý, nhất là quản lý kinh tế.

- Giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, bồi dưỡng tính kiên định lập trường giai cấp công nhân. Đề cao cảnh giác cách mạng trước tình hình địch trực tiếp và thường xuyên đe dọa chiến tranh từ bên ngoài, gây bạo loạn bên trong, trước âm mưu chống phá ta, đục khoét về tổ chức, làm xói mòn lòng tin quần chúng, đả kích chế độ ta.

Rèn luyện cho Đảng viên, cán bộ vững vàng trong công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXHchống mọi biểu hiện bi quan, tiêu cực, hoài nghi, dao động trước tình hình khó khăn của công cuộc xây dựng CNXH ở thời kỳ đầu và qúa độ từ sản xuất nhỏ lên CNXH.

Bồi dưỡng và không ngừng nâng cao quan điểm làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa đề cao dân chủ nội bộ, tăng cường ý thức tuân thủ theo pháp chế XHCN, chống quan liêu, cửa quyền, bao che, hối lộ, ăn cắp của công, ức hiếp quần chúng.

Đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, bảo vệ đoàn kết nội bộ, tinh thần quản lý chặt chẽ tổ chức và sinh họat Đảng viên, chống tư tưởng bè phái, phát ngôn gây mất đoàn kết nội bộ, chống cục bộ, bản vị, vô trách nhiệm thiếu tinh thần hợp tác XHCN. Tổ chức thực hiện nghiêm túc và thường xuyên 4 chế độ trách nhiệm đã ban hành.

Xây dựng tác phong làm việc sát quần chúng, sát cơ sở, thường xuyên kiểm tra chất lượng và hiệu quả công tác, nếp sống và làm việc cần kiệm, giản dị, chống xa rời quần chúng, lãng phí của công, tự tư tự lợi, tính toán cá nhân, chống sinh hoạt tự do vô kỷ luật, rượu chè bê tha, quan hệ bừa bãi để bị kẻ xấu lợi dụng.

- Ban Tuyên huấn tập trung xây dựng mô hình con người mới XHCN trên các lĩnh vực hoạt động của các cấp các ngành trong quận, cả Đảng viên và quần chúng, có đúc kết và tổ chức nhân điển hình tốt. Đi đôi cần tổ chức nắm tình hình diễn biến tư tưởng trong nội bộ và quần chúng nhân dân để lãnh đạo được kịp thời.

- Ban Tổ chức nghiên cứu phát triển tổ chức chi bộ, tổ Đảng trong các HTX, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Từ nay đến năm 1980 tiến hành tổ chức tổ Đảng cho những cơ sở sản xuất có đủ điều kiện, còn những cơ sở chưa đủ điều kiện thì xây dựng nhóm Trung Kiên.

- Tổ chức sinh hoạt chi bộ đều đặn nâng cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình. Quan tâm đến đời sống cán bộ công nhân viên, chiến sĩ, cả tinh thần và vật chất. Tạo mọi điều kiện để cán bộ công nhân viên, chiến sĩ cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp cách mạng.

- Để đảm bảo trình độ chính trị của Đảng viên, cần củng cố tốt trường Đảng của quận cả cơ sở vật chất, cán bộ phục vụ và nâng cao chất lượng các bài giảng. Mạnh dạn gởi cán bộ, Đảng viên đi học dài hạn về lý luận chính trị và nghiệp vụ chuyên môn.

- Đẩy mạnh hoạt động của bộ môn nghiên cứu lịch sử Đảng. Hai năm tới phải sưu tầm xong tài liệu về lịch sử Đảng bộ và truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào quận nhà.

b. Tăng cường công tác phát triển Đảng:

Trong những năm qua, tiến độ kết nạp Đảng viên mới phát triển chậm, có năm số phát triển Đảng viên ngang bằng số Đảng viên hư hỏng bị đưa ra khỏi Đảng. Sự có mặt của Đảng viện tại cơ sở, nhất là các đơn vị sản xuất lưu thông phân phối rất mỏng. Chất lượng của Đảng viên từng lúc, từng nơi có bị sa sút làlàm ảnh hưởng đến chất lượng của tổ chức và chất lượng lãnh đạo của Đảng.

Từ tình hình trên đặt cho Đảng bộ một yêu cầu hết sức bức bách là phải tăng cường đẩy mạnh công tác phát triển Đảng viên mới, nhất là các đơn vị cơ sở. Nhiệm vụ này phải do đ/c Bí thư trực tiếp làm và các Đảng viên quan tâm thực hiện. Hướng phát triển nhằm vào các cơ quan, khu vực sản xuất tập thể là chính.

Đồng thời cũng kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những Đảng viên không còn đủ tư cách Đảng viên.

Chi bộ phải có quy họach 37 về công tác phát triển đảng viên mới, cũng cố các nhóm trung kiên, thông qua việc xây dựng điển hình mà phân lọai quần chúng cảm tình, thử thách quần chúng và hàng tháng phải có kiểm điểm về công tác này.

Trong 2 năm 1980 – 1981 Đảng bộ phấn đấu kết nạp được 528 Đảng viên mới.

Ra sức củng cố và phát huy cao hiệu lực của chánh quyền quận, phường xây dựng một lề lối làm việc khoa học, hợp lý để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và chức năng của Chánh quyền. Hết sức tôn trọng và thực hiện đầy đủ chức năng của Hội đồng nhân dân.

V/ TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN:

Chuyển hướng công tác tổ chức và tổ chức chỉ đạo thực hiện đi vào đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chính trị của quận Đảng bộ. Tăng cường sự kiểm tra của cấp ủy đối với chánh quyền trong quản lý kinh tế, quản lý thị trường nắm nguồn hàng, lưu thông phân phối, quản lý an ninh.

Phải tăng cường công tác quản lý nội bộ, kể cả quần chúng là cán bộ nhân viên chiến sĩ, quản lý về phẩm chất chính trị, tư tưởng, năng suất lao động, hiệu suất công tác, quản lý về ý thức tổ chức kỷ luật trong chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước nói chung. Nhất là chấp hành chỉ thị nghị quyết, nguyên tắc của Đảng và các quy định trong quản lý kinh tế.

Chống thoái hóa biến chất trong cán bộ Đảng viên, cán bộ công nhân viên, đặc biệt là cán bộ Đảng viên có chức có quyền và cán bộ Đảng viên hoạt động trong các ngành kinh tế, lưu thông phân phối.

Củng cố Ban Tổ chức Quận ủy, Tổ chức Chánh quyền đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng. Ban Tổ chức phải có kế hoạch về quy hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ đoàn thể. Trước mắt lo tập trung ổn định đội ngũ cán bộ chủ chốt của các ngành kinh tế, lưu thông phân phối quận, phường, xí nghiệp.Mạnh dạn đào tạo và giao trọng trách cho cán bộ trẻ, có năng lực, có phẩm chất, đạo đức theo tinh thần Chỉ thị 55/TW. Việc thuyên chuyển, đào tạo, đề bạt cán bộ chủ chốt quận và phường phải được tập thể Ban Thường vụ bàn bạc quyết định.

Tiếp tục củng cố kiện toàn cơ sở cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nhất là sau khi thực hiện Chỉ thị 72 của Trung ương và Chỉ thị 39 của Thường vụ Thành ủy và thực hiện các Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 28 – 29 của Thường vụ Thành ủy kết hợp vừa phải bồi dưỡng xây dựng điển hình tiên tiến, vừa phải xem xét, giải quyết tư cách Đảng viên của cán bộ. Đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật nguyên tắc cơ bản của Đảng. Nếu nghiêm trọng thì xử lý trước pháp luật.

Các cấp cần duy trì sinh hoạt thường kỳ 1 tháng 1 lần có kiểm điểm đưa ra nghị quyết của tháng trước và đề ra nghị quyết của tháng tới, có đấu tranh phê bình, tự phê bình hết sức dân chủ nội bộ. Phải bảo đảm sự đoàn kết nhất trí thành sức mạnh tập thể, bảo đảm chấp hành tổ chức kỷ luật nghiêm minh, có nghị quyết phải thực hiện bằng được nghị quyết.

Đối với các ngành chỉ đạo kinh tế, lưu thông phân phối của Quận hàng tháng phải dựa vào chỉ thị nghị quyết của Quận ủy, Ủy ban Quận mà kiểm điểm cùng với Ban Thống kê kế họach tổ chức nắm tình hình sản xuất và báo cáo kịp thời cho Thường vụ và thường trực Ủy ban.

Cần cách mạng lề lối làm việc và tác phongcông tác mới chạy kịp với tình hình cấp bách hiện nay. Phải xây dựng thành chế độ bám sát cơ sở thiết thực cùng cơ sở tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hội họp báo cáo.

Phải cải tiến và tăng cường công tác kế hoạch hóa vừa phải có kế hoạch, quy hoạch tổng thể, toàn diện, vừa phải có kế hoạch, quy hoạch từng vùng. Kế hoạch phải làm từ cơ sở, phải nắm cho được tiềm năng và năng lực tại chỗ để từ đó mà khai thác, thúc đẩy sản xuất phát triển, phục vụ tốt đời sống.

Phải tổ chức và động viên khả năng sáng tạo vô tận của quần chúng, trong đó biện pháp chủ yếu là phát động liên tục phong trào đồng khởi thi đua trên tinh thần tự lực, tự cường, ý thức làm chủ tập thể.

Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ. Tránh việc Đảng bao biện làm thay chánh quyền hoặc ngược lại.

Hết sức đề cao vai trò tập thể lãnh đạo, song cũng tăng cường làm tốt vai trò cá nhân phụ trách. Chống tư tưởng sợ trách nhiệm và thiếu kiên quyết, thiếu sáng tạo trong chỉ đạo và trong giải quyết những vướng mắc khó khăn. Mọi sự chậm trễ buông trôi, thả nổi, không cộng tác XHCN, không sát thực tế là tiêu biểu cho sự quan liêu, cửa quyền. Cán bộ Đảng viên phải dành nhiều thời gian đi xuống cơ sở để chỉ đạo cơ sở và giúp cho cơ sở kịp thời rút kinh nghiệm từ thực tế khách quan, bổ sung cho đường lối chủ trương.

Đưa việc kiểm điểm Đảng viên theo Chỉ thị 39 của Thành ủy việc thực hiện các Chỉ thị 228/TW, Thông tri 22, 46/TW và Nghị quyết 28 – 29 và Chỉ thị 83 vào nề nếp để vừa nâng cao chất lượng Đảng viên, vừa đấu tranh xem xét những Đảng viên không còn đủ tư cách Đảng viên, đưa ra khỏi Đảng. Đồng thời lãnh đạo chặt việc phát thẻ đảng viên trong năm 1980, bảo đảm chính xác, đạt chất lượng cao.

Phải tăng cường sự kiểm tra của cấp ủy và của cơ quan kiểm tra đối với các cấp bộ Đảng trong việc thực hiện chủ trương đường lối, việc chấp hành điều lệ Đảng, các quy định, các nguyên tắc chỉ thị và nghị quyết của Đảng, đảm bảo dân chủ và kỷ luật trong Đảng. Phải kịp thời biểu dương những mặt tốt và kịp thời ngăn chặn những mặt tiêu cực.

Ban Kiểm tra có kế hoạch cùng với các cơ quan chuyên môn Đảng và Ban Thanh tra chánh quyền giúp cấp ủy lãnh đạo thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới này.

Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong hai năm 1980 – 1981 đã được xác định. Đòi hỏi công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải vươn lên hơn nữa. Tập trung vào phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh trật tự xã hội, xây dựng Đảng, chánh quyền, đoàn thể vững mạnh.

Trước mắt chúng ta còn nhiều khó khăn phức tạp, đây là bước thử thách mới, song chúng ta tin vào sức mình, tin vào quần chúng cách mạng, biết phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những thiếu sót tồn tại một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ giành được thắng lợi to lớn hơn trong hai năm 1980 – 1981.

TM. BCN Quận Đảng bộ

Bí thư

Phan Tấn Thành

Thông báo