Chủ Nhật, ngày 8 tháng 9 năm 2024

Báo cáo tình hình và nhiệm vụ tại đại hội đại biểu Đảng bộ quận Tân Bình lần thứ VI

Hơn hai năm qua, trong bối cảnh chung của cả nước và thành phố, quận ta cũng đứng trước nhiều khó khăn thử thách trên lĩnh vực kinh tế- xã hội. Trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới, toàn Đảng bộ đã bám sát Nghị quyết Đại hội VI, Đại hội VII, các Nghị quyết của Trung ương, của Thành ủy và căn cứ vào Nghị quyết lần thứ V của Đại hội đại biểu Đảng bộ quận, cố gắng vận dụng sát đúng, đã đạt được một số thành tích trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng Đảng, đoàn thể. Nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương Nghị quyết mới, chúng ta cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm. Tình hình kinh tế còn diễn biến không thuận lợi, giá cả tăng, thị trường chưa ổn định, sản xuất đời sống còn  khó khăn…

            Đánh giá trên các mặt hoạt động như sau:

PHẦN THỨ NHẤT

KIỂM ĐIỂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI

ĐẢNG BỘ LẦN THỨ V (1989-1991)

I. TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ :

1. Sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp:

Nhiệm kỳ qua gặp phải nhiều khó khăn kể cả trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Với sự nỗ lực của các ngành các cấp, bằng nhiều biện pháp chủ động tích cực, hoạt động công nghiệp TTCN đã dần đi vào ổn định. Giá trị tổng sản lượng năm 1990 tăng 10,6% so với năm 1989; 9 tháng năm 1991 tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 1990.

Khu vực quốc doanh thường xuyên được chấn chỉnh củng cố, năm 1989 đã giải thể các đơn vị làm ăn thua lỗ như Xí nghiệp chế biến lâm sản, Xí nghiệp thuỷ tinh, Công ty Taseico. Đến nay các xí nghiệp quốc doanh đã đi vào hoạt động tương đối khá. Toàn quận có 10 Xí nghiệp quốc doanh trong đó có 3 đơn vị hợp tác gia công là Xí nghiệp vớ, may Hyodong, Xí nghiệp tre, một Xí nghiệp hợp doanh chế biến da và các xí nghiệp khác gồm các ngành : cơ khí, dệt, may, nông sản thực phẩm, da giày và vật liệu xây dựng.

Ngoài ra các ngành cũng đã xây dựng một số đơn vị sản xuất như: Xí nghiệp cơ khí ô tô, xưởng dép Công ty vật tư, Xí nghiệp thuốc lá Anh Đào, đã góp phần phong phú cho hoạt động của khu vực quốc doanh trong quận.

Các xí nghiệp tư nhân, sản xuất cá thể đã phát triển nhanh về số lượng và quy mô hoạt động, toàn quận có 28 xí nghiệp tư doanh thu hút gần 3.000 lao động. Một số đơn vị đã đầu tư thêm thiết bị công nghệ mới và sản phẩm đã tìm được thị trường cả khu vực I và II.

Chủ trương khuyến khích phát triển sức sản xuất đã được nhân dân đồng tình ủng hộ, nhiều cơ sở sản xuất TTCN đã được thành lập và hoạt động linh hoạt phong phú hơn, tập trung là các ngành: da, may, cao su…quận đã giải thể 48 HTX và tổ sản xuất, chủ yếu là ngành dệt vì chỉ tồn tại hình thức, có trên 1400 xã viên đăng ký chuyển sang sản xuất cá thể.

Hằng năm số cơ sở sản xuất TTCN phát triển đã thu hút từ 3.500 đến 4.000 lao động. Việc thu hút đầu tư vào quận ngày càng tăng do có điều kiện về đất đai, lao động, lãnh đạo nhạy bén trong tiếp nhận đầu tư…Trong năm 1990 và 6 tháng đầu năm 1991 toàn ngành đã đầu tư được 36,5 tỷ đồng (khu vực quốc doanh, liên doanh: 5,8 tỷ, xí nghiệp tư doanh: 13 tỷ; cơ sở TTCN: 17,7 tỷ).

Ưu điểm của việc phát triển sản xuất CN-TTCN là đã phấn đấu đạt được giá trị tổng sản lượng hàng năm đều cao hơn năm trước bình quân gần 10%. Đã cố gắng hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch với tỷ lệ cao nhất trong điều kiện hết sức khó khăn.

Tồn tại trong sản xuất CN-TTCN hiện nay chủ yếu vẫn là khi chuyển sang kinh tế thị trường, các đơn vị quốc doanh đều thiếu vốn trầm trọng, thiết bị lạc hậu, cũ kỹ, bộ máy quản lý chưa được bồi dưỡng, sản phẩm nghèo nàn kém chất lượng… Ngoài ra còn bị tác động do cơ chế quản lý ở tầm vĩ mô như vấn đề diễn biến thị trường, thuế, ngân hàng đã phần nào kìm hãm sự phát triển sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến không thực hiện được cơ cấu kinh tế đề ra trong nhiệm kỳ Đại hội V.

2. Về sản xuất nông nghiệp:

So với nhiệm kỳ trước, sản xuất nông nghiệp có mức phát triển khá hơn, chủ trương khoán hộ và cấp giấy phép sử dụng đất được nông dân đồng tình, mạnh dạn đầu tư nâng cao năng suất hiệu quả của vật nuôi, cây trồng. Các cơ sở hạ tầng được chú trọng từng bước hoàn thiện hơn nhất là ở các phường 15, 16, 17, 18… Một số trường học, cơ sở y tế được nâng cấp, đường sá, cống rãnh được sửa chữa, điện cho sản xuất, sinh hoạt được bảo đảm. Đời sống một bộ phận nông dân so với những năm trước được cải thiện hơn.

Tốc độ đô thị hoá nhanh, giá trị đất đai tăng cao, phát sinh tranh chấp ruộng đất, một số nông dân sản xuất cầm chừng, vì vật tư phân bón cao, sản phẩm làm ra không có lãi. Có xu hướng chờ đợi quy hoạch hoạt sang nhượng đất để có thu nhập cao. Một số tổ chức xã hội được thành lập như Hội chăn nuôi bò sữa, Hội làm vườn nhưng hoạt động còn lúng túng, chưa hỗ trợ được cho sản xuất và chăn nuôi.

Quận đã giải thể 2 nông trường Di Linh và La Ngà vì không có hiệu quả. Nông trường Duyên Hải đã chuyển đổi phương thức hoạt động, tinh gọn bộ máy, đã cố gắng cân đối được thu chi.

3.Về xây dựng cơ bản và sửa chữa:

Hơn 2 năm qua tốc độ xây dựng cơ bản nhanh và đạt nhiều hiệu quả, đã làm thay đổi phần nào cơ sở hạ tầng quận. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chửa hàng chục tỷ đồng. Song song với việc nâng cao đầu tư khu vực sản xuất vật chất, khu vực phi sản xuất cũng được quan tâm nhất là lĩnh vực y tế, giáo dục và nhà ở (chiếm tỷ trọng 63,5%).

- Một số công trình mới xây dựng đã phát huy được hiệu quả trong việc phục vụ nhân dân như: xây dựng mới trung tâm sức khoẻ quận, mở rộng trường học Đặng Trần Côn, nhà trẻ Phường 05, 12, 14…Bên cạnh đó khu vực sản xuất bằng những nguồn vốn ngoài ngân sách, đã đầu tư nhiều công trình thiết thực phục vụ sản xuất kinh doanh vừa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất vừa giải quyết một phần lao động chưa có việc làm.

- Đặc biệt ở khu vực các phường nông nghiệp nhiều cơ sở được nâng cấp như đường sá, trường học, trạm y tế phường 17, Phòng khám đa khoa khu vực I, giải quyết điện sinh hoạt và sản xuất cho các phường 14, 15, 16, 17, 18, 19. Nhằm giải quyết phần nào những khó khăn về nhà ở, quận đã cấp đất cho 1.056 hộ, xây dựng 330 căn nhà bán trả góp cho CBCNV và nhân dân. Đã thực hiện hoá giá nhà cấp 3, 4 được 1.633 căn, từng bước xoá bao cấp về nhà ở và giải quyết một phần về chính sách chế độ.

Tuy vậy do khó khăn về vốn nên đã ảnh hưởng đến tiến độ thi công và chất lượng, chậm đưa công trình vào sử dụng. Một số công trình chất lượng chưa cao, việc thanh quyết toán chưa đúng thời gian quy định, việc bố trí nhà cơ quan chưa hợp lý khiến phải dời đổi nhiều lần gây tình trạng lãng phí vốn sửa chữa nhà và chưa phát huy hiệu quả công trình.

4. Về giao thông vận tải:

Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, mỗi năm quận đã thực hiện giá trị sửa chữa các tuyến đường hàng trăm triệu đồng, các bến bãi xe đã được sắp xếp lại, đăng ký đủ các đầu xe, thực hiện thu lệ phí hàng năm đều đạt kế hoạch.

Một số công trình trọng điểm đã được thực hiện như mở rộng và nối dài đường Trương Công Định, mở rộng để lưu thông hai chiều đường Hoàng Văn Thụ, nâng cấp đường Hoàng Việt, đường Nguyễn Bá Tòng, nối dài Hương lộ 2 với đường số 1, mở rộng đường Bàu Cát…

Phối hợp cùng với thành phố sửa chữa lớn đường Phạm Văn Hai, Âu Cơ, Tân Kỳ Tân Quý, Hương lộ 14… xây dựng mới hệ thống thoát nước đường Cách mạng Tháng 8, đường Lạc Long Quân, Tân Kỳ Tân Quý.

Đã triển khai nạo vét kênh Nhiêu Lộc và kênh nước đen, hạn chế được một phần tình trạng ngập nước ở các khu vực này.

Tồn tại hiện nay trong công tác sửa chữa cầu đường là chất lượng và hiệu quả sử dụng các tuyến đường sau khi sửa chữa xong chưa cao, sự phối hợp giữa các ngành trong thi công  sửa chữa chưa đồng bộ, nhất là các tuyến đường do thành phố quản lý. Thời gian thi công một số tuyến đường còn kéo dài, chấp vá do không chủ động được nguồn kinh phí, vừa phát sinh trượt giá, vừa ảnh hưởng đến việc đi lại của nhân dân. Mặt khác việc quản lý các tuyến đường nội bộ phường chưa chặt để lượng xe trọng tải lớn hoạt động nhiều, làm đường xong lại xuống cấp nhanh chóng.

5. Về phân phối lưu thông:

Toàn ngành thương nghiệp XHCN trong nhiệm kỳ qua đã tập trung cho việc thực hiện 3 nhiệm vụ song song : đẩy mạnh kinh doanh, củng cố tổ chức và chuyển đổi phương thức kinh doanh nhằm hoà nhập vào nền kinh tế thị trường theo chủ trương đổi mới quản lý kinh tế.

Tốc độ phát triển về doanh số bán toàn ngành trong năm 1989 tăng 68% và năm 1990 tăng 44% so với năm 1989. Toàn ngành thương nghiệp đã đóng góp trên 80% số thu ngân sách khu vực quốc doanh và góp phần phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

Trên lĩnh vực ngoại thương, quận đã triển khai nhiều biện pháp nhằm mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại và xuất nhập khẩu. Hình thành các xí nghiệp gia công hàng nước ngoài như: vớ, tre, da giày, may…Liên hiệp sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu, đã được kịp thời củng cố, có hướng phát triển khá tốt. Liên hiệp đã đầu tư xây dựng các phân xưởng sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, song song với việc phát triển kinh doanh, tăng cường thu mua nắm hàng xuất khẩu góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng năm.

Hoạt động du lịch được triển khai kịp thời với chủ trương tổ chức năm du lịch 1990 của thành phố trên cơ sở vừa cải tạo, sửa chữa, hoán chuyển, xây dựng mới để hình thành và đưa vào hoạt động các công trình phục vụ du lịch với quy mô khá hoàn chỉnh, bước đầu tạo được vẻ mỹ quan trong khu vực trung tâm quận. Tuy nhiên công tác quản lý chưa chặt chẽ, đơn vị còn phải  được tiếp tục củng cố về tổ chức và phương thức kinh doanh nhằm phát triển hoạt động và nhanh chóng thu hồi nguồn vốn đã bỏ ra.

Về công tác quản lý hành chánh thương nghiệp, được tăng cường một số bước về nghiệp vụ kiểm tra, kiểm soát và đã góp phần đáng kể vào việc ổn định thị trường, chống đầu cơ buôn lậu, cũng như nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế.

Từ năm 1989 đến nay, lực lượng kiểm soát quản lý thị trường đã tiến hành 15.899 vụ kiểm tra giá cả và đăng ký kinh doanh, đồng thời xử lý 1.554 trường hợp vi phạm quản lý thị trường. Trong công tác đấu tranh chống buôn lậu, sản xuất và kinh doanh hàng gian, hàng giả, liên ngành công an-thương nghiệp-thuế đã cùng với UBND 20 phường xử lý 1.284 hộ, trong đó có 466 vụ mua bán thuốc lá ngoại, 33 vụ sản xuất hàng gian, hàng giả với trị giá hàng hoá trên 10 tỷ đồng.

Về quy hoạch ngành hàng, bước đầu quận đã hình thành được 2 khu trung tâm thương nghiệp lớn tại chợ Tân Bình và chợ Phạm Văn Hai, thu hút 2.500 tiểu thương kinh doanh, lập chợ mới Hoàng Hoa Thám với quy hoạch ngành hàng trên 200 sạp. Khu vực đường phố được tập trung quy hoạch trên 5 tuyến đường chính thu hút trên 2.500 hộ kinh doanh lớn, nhỏ, hình thành được một số khu vực tập trung theo ngành hàng như điện máy (P.4), đồng hồ (P.7 chợ Tân Bình), đồ sắt (đường Lý Thường Kiệt), vật liệu xây dựng (đường Lạc Long Quân), phụ tùng xe đạp (đường Phạm Văn Hai)…

6. Tài chính- Thuế- Ngân hàng:

Từ khi ngân hàng chuyển sang kinh doanh đã thu hút được số vốn nhàn rỗi  khá lớn trong nhân dân, có nguồn dự trữ tiền mặt khá, đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn, chi trả kịp thời cho khách hàng. Để tạo điều kiện cho các đơn vị hoạt động có hiệu quả, ngân hàng ưu tiên hỗ trợ các đơn vị kinh tế quốc doanh được chuyển vay quá hạn vào trong hạn, vay lãi suất thoả thuận sang lãi suất quy định, hỗ trợ các đơn vị hoạt động có hiệu quả được vay đầy đủ vốn.

Các nguồn thu quốc doanh và thuế công thương nghiệp luôn được thành phố giao chỉ tiêu quá cao, do đó hầu như không năm nào hoàn thành được kế hoạch mặc dù số thu năm sau cao hơn số thu năm trước trên 40%. Phần thu sự nghiệp và thu khác đã được tận thu quản lý chặt, kịp thời theo các chế độ quy định. Về chi trong xây dựng cơ bản hàng năm đều tăng nhưng vốn ngân sách chỉ đáp ứng được từ 10-15% tổng vốn đầu tư. Chi quản lý Nhà nước đã giảm hàng năm từ 18% năm 1989 xuống 10% trong năm 1991. Chi cho hoạt động văn xã nhất là khu vực giáo dục khá lớn (chiếm 40,6% tổng chi năm 1989 và 42,6% tổng chi năm 1990), nhưng vẫn không đáp ứng hết nhu cầu.

Từ khi hàng ngoại nhập tràn lan trên thị trường, sản xuất đình đốn dẫn đến nguồn vốn lớn nhưng nhu cầu vay hạn chế. Sự ra đời quá nhiều HTX tín dụng, cạnh tranh nhau về lãi suất đã phát sinh nợ khó đòi, không thể đòi quá lớn nên hàng loạt HTX bị phá sản. Hai năm qua quận đã giải thể 7 HTX tín dụng, hiện có 3 HTX hoạt động (Tabici, Thống Nhất, Thành Công). Mặc dù ban thu hồi nợ làm việc tích cực nhưng số nợ dây dưa vẫn chưa được thanh toán hết.

II. LĨNH VỰC VĂN HOÁ-XÃ HỘI:

Trong nhiệm kỳ qua, tuy điều kiện kinh tế còn khó khăn, nhưng đảng bộ đã chú trọng chăm lo lĩnh vực văn hoá-xã hội, thể hiện ở những kết quả sau:

1. Thường xuyên thực hiện tốt chính sách đối với hơn 10.000 đối tượng là cán bộ hưu trí, thương bệnh binh, gia đình có công với cách mạng, bộ đội phục viên. Vừa qua, đảng bộ chính quyền quận đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và nỗ lực cao trong lĩnh vực này, không chỉ chăm lo đầy đủ về chính sách, chế độ mà còn chăm lo về mặt tổ chức, củng cố Ban đại diện hưu trí, lập quỹ trợ táng, xây 46 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa 62 căn với trị giá gần 40 triệu đồng, xây dựng khu truyền thống văn hoá Phú Thọ Hoà, thường xuyên gặp gỡ, lắng nghe ý kiến của các đồng chí cán bộ cách mạng lão thành, cán bộ hưu trí, gia đình chính sách.

2. Vấn đề giải quyết lao động có việc làm luôn là vấn đề bức xúc. Hiện nay, vẫn còn 16.000 người thất nghiệp, đa số ở lứa tuổi thanh niên, hai năm qua chúng ta mới giải quyết được gần 8.000 lao động, đạt 60% so với nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần V đề ra (13.500). Trong đó tỷ lệ lao động thu hút vào khu vực ngoài quốc doanh gấp gần hai lần so với khu vực quốc doanh và đã giải quyết cho gần 1.000 bộ đội xuất ngũ có việc làm. Tuy nhiên việc giải quyết lao động chưa gắn với các cơ quan, xí nghiệp Trung ương, Thành phố trên địa bàn, thiếu kế hoạch giải quyết lao động căn cơ.

Việc dạy nghề cũng được chú ý, cơ sở vật chất được tăng cường đã đào tạo được 3.542 người có tay nghề phục vụ cho việc phát triển các thành phần kinh tế, đạt 156% kế hoạch. Đảm bảo giữa dạy nghề và giới thiệu việc làm nhất là số thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.

3. Về giáo dục, đảng bộ đã chủ trương phải khẩn trương nâng cao chất lượng dạy và học, thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường lớp, tăng thêm trường bán trú, trường dạng chương trình thực nghiệm và lớp chuyên. Đã thành lập 3 trường bán công, xây dựng mô hình nhà trẻ, mẫu giáo hợp nhất, mô hình trung tâm giáo dục bổ túc văn hoá, hình thành được nhiều nhóm trẻ gia đình. Đối với đội ngũ giáo viên đã thực hiện có hiệu quả cuộc vận động dân chủ hoá, tiêu chuẩn hoá về trình độ chuyên môn, bảo đảm đầy đủ các chế độ chính sách. Những cố gắng đó đã tác động tốt đến chất lượng giáo dục, đưa tỷ lệ học sinh yếu từ 19,5% năm học 1989 –1990 xuống còn 6% năm học 1990-1991. Ngành giáo dục đang tạo đà chuyển biến mới, thực hiện khá tích cực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đảng bộ lần V đã đề ra.

4. Về văn hoá thông tin, đã tổ chức lại bộ máy phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, không duy trì những thiết chế, những bộ phận mang nặng tính hình thức không có tác dụng thực chất. Từ đó tập trung đầu tư các mặt cho những trung tâm văn hoá của quận nhằm nâng cao chất lượng hoạt động, đủ sức thu hút quần chúng các giới đến tham gia các hoạt động văn hoá nghệ thuật. Quận vừa xây dựng khu truyền thống sinh hoạt văn hoá Phú Thọ Hoà thành một trung tâm giáo dục truyền thống cho đồng bào vùng địa hình cách mạng nổi tiếng. Nhờ vậy, trong điều kiện kinh tế-xã hội còn khó khăn, hoạt động văn hoá thông tin vẫn khá sôi nổi, nhất là năm 1990 năm có nhiều ngày kỷ niệm lớn. Công tác tuyên truyền cổ động được tiến hành thường xuyên, kể cả các buổi thời sự, nói chuyện chính trị. Mạng lưới phát hành sách được mở rộng, thư viện quận đưa sách luân chuyển đến những nhà máy, xí nghiệp, trường học. Các cơ sở dịch vụ văn hoá phát triển nhanh. Công tác quản lý kiểm tra văn hoá có nhiều cố gắng, hạn chế được sự bung ra ồ ạt của các loại văn hoá phẩm xấu, xử lý kịp thời hàng trăm vụ vi phạm không để xuất hiện những trung tâm buôn bán các sản phẩm văn hoá độc hại như một vài nơi trong thành phố.

5. Về y tế, hình thành được hệ thống chăm sóc sức khoẻ ban đầu, kịp thời phát hiện và dập tắt các ổ dịch bệnh, mở ra hệ nha học đường phục vụ khám và điều trị rộng rãi cho học sinh. Hai năm qua, quận đã xây dựng thêm một số cơ sở vật chất cho ngành y tế từ quận đến phường, hình thành khu trung tâm sức khoẻ với đủ các khoa. Việc mở rộng mạng lưới bán thuốc và cho phép mở các phòng mạch tư, thu một phần viện phí đã giải toả bớt khó khăn và sự xuống cấp của ngành y tế. Đáng chú ý là cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch đạt kết quả khả quan, tỷ lệ phát triển dân số còn 1,35%. Đồng thời việc tiêm chủng cho trẻ sơ sinh cũng được tuyên truyền, tác động rộng rãi, thu hút 87% trẻ đến tiêm chủng, làm giảm mạnh các bệnh hiểm nghèo.

6. Hội chữ thập đỏ, đã tổ chức được các hoạt động từ thiện có tác dụng tốt, thành lập một phòng khám miễn phí, phục vụ khám và điều trị cho dân nghèo. Phối hợp với y tế mở các lớp y học cộng đồng, xây dựng được phong trào rèn luyện, tự chăm sóc sức khoẻ trong nhân dân, nhất là đối với các cụ phụ lão và thiếu niên nhi đồng. Ngoài ra còn tổ chức các hoạt động cứu trợ cho các huyện ngoại thành và chăm sóc các gia đình neo đơn khó khăn.

7. Công tác thể dục thể thao, vẫn giữ được phong trào, nhất là một số bộ môn trước đây có thế mạnh như: đua xe đạp, bóng ném, võ thuật. Phát triển các hội thể thao quần chúng theo từng bộ môn, vừa giảm bớt được chi phí cho ngân sách, vừa duy trì và mở rộng phong trào, nâng cao thành tích luyện tập, thi đấu, rèn luyện sức khoẻ. Trước yêu cầu đổi mới hoạt động, ngành TDTT chia thành 5 cụm quản lý hướng dẫn phong trào và gắn với cơ quan, đoàn thể, nhất là trường học. Tuy nhiên do thiếu cơ sở vật chất và kinh phí nên các bộ môn phát triển không đều. Một số bộ môn mạnh trước đây đang yếu dần trong các cuộc thi đấu ở thành phố.

8. Việc chăm sóc, bảo vệ thiếu niên nhi đồng có tiến bộ hơn trước. Từ phong trào làm theo lời Bác, người lớn gương mẫu, trẻ em chăm ngoan đã thu  được kết quả tốt, làm giảm rõ rệt số trẻ em chưa ngoan. Quận đã cấp học bổng cho gần 100 em nghèo thất học, thành lập giải Lê Quý Đôn nhằm khuyến khích tài năng với kinh phí 50 triệu đồng. Chương trình chống suy dinh dưỡng trong trẻ em         được triển khai tích cực, kéo tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 42% xuống còn 29%. Đối với trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật đã có sự chăm lo đặc biệt, trợ cấp thường xuyên cho 23 trẻ khuyết tật, 247 trẻ mồ côi và tặng trên 4.000 phần quà cho trẻ em nghèo.

Tuy nhiên, lĩnh vực văn hoá-xã hội còn tồn tại nhiều vấn đề khá nan giải. Tiền lương thực tế đang giảm sút nhanh, đời sống khó khăn đang là nỗi lo thường nhật của người ăn lương, đặc biệt là cán bộ hưu trí, đối tượng chính sách, giáo viên, CBCNV trong khu vực hành chánh sự nghiệp, lực lượng vũ trang.

Trong giáo dục, việc xoá nạn mù chữ, phổ cập cấp I chưa có sự quan tâm của toàn xã hội, thực hiện chậm, thiếu đồng bộ, kết quả thấp, chất lượng giáo dục ở các trường chưa chuyển biến đều, tỷ lệ giáo viên nghỉ  việc, học sinh bỏ học vẫn cao.

Lĩnh vực văn hoá-nghệ thuật có những biến động xấu, nhất là các loại văn hoá phẩm kém lành mạnh, thậm chí độc hại lưu hành tràn lan tác động xấu đến sinh hoạt và đạo đức xã hội. Nguyên nhân là do thiếu định hướng, thả nổi, lỏng lẻo trong công tác quản lý và kiểm tra từ các cấp, song cũng do ý thức đấu tranh ngăn chặn tại cơ sở còn yếu, thiếu kết hợp đồng bộ và làm thường xuyên. Những vấn đề về nếp sống, lối sống, về quan điểm thẩm mỹ,  về thị hiếu, đạo đức có nhiều lệch lạc đáng lo ngại. Trong khi đó các hoạt động văn hoá-nghệ thuật, thông tin tuyên truyền chưa đáp ứng được yêu cầu của quần chúng.

Lĩnh vực y tế và sức khoẻ, vấn đề đáng báo động là nạn ô nhiễm môi trường khá trầm trọng và tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em đang ở mức cao, công tác quản lý các phòng mạch tư các hiệu thuốc tư chưa tốt để nảy sinh một số hiện tượng tiêu cực. Mặt hạn chế của công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em là sự quan tâm chưa đều, phong trào chưa đi vào chiều sâu, nhiều nơi chưa thấy rõ trách nhiệm của mình.

III. LĨNH VỰC NỘI CHÍNH:

Trong nhiệm kỳ qua Quận ủy đã tiếp thu và triển khai đầy đủ các chỉ thị nghị quyết của cấp trên, các ngành trong khối nội chính phối hợp đồng bộ đề ra được các biện pháp đối phó với những âm mưu của địch nên tình hình an ninh chính trị trên địa bàn quận tương đối ổn định, lực lượng công an, quân sự từ quận đến phường đảm bảo được vai trò tham mưu cho các cấp ủy, nắm được tình hình hoạt động của các đối tượng và phe nhóm chính trị, kịp thời phát hiện và ngăn ngừa các hoạt động phá rối. Chỉ thị số 07/CT-QU, 08/CT-QU của Ban Thường vụ Quận ủy về đảm bảo an ninh quốc gia và kế hoạch phòng thủ trên địa bàn đã được các ngành chức năng và cấp ủy cơ sở tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.

Trên lĩnh vực trật tự xã hội, từ khi có chính sách mở cửa, chính sách kinh tế thị trường đã đặt lực lượng công an và quản lý thị trường một nhiệm vụ mới và khó khăn hơn, tình hình buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả, trộm, cướp, các vi phạm về trật tự xã hội vẫn gia tăng. Lực lượng công an cùng với các lực lượng khác phối hợp, tổ chức nhiều đợt tấn công chống tội phạm hình sự, phá 186 băng nhóm cướp giật, buôn lậu, tệ nạn xã hội, bắt 205 đối tượng truy nã, 453 tên trốn trường, gom 334 tên xì ke, 305 gái điếm, 573 thanh niên hư hỏng vào các trường lao động. Song song với việc vận động đối với đối tượng ra đầu thú, thực hiện chính sách khoan hồng đối với các đối tượng sống ngoài pháp luật đã góp phần tốt hơn trong việc quản lý trật tự xã hội trên địa bàn, hạn chế đáng kể việc phạm pháp.

Về chống tội phạm kinh tế hơn 2 năm qua công an Quận đã bắt được 3.000 vụ buôn lậu bao gồm chất chứa hoặc di chuyển hàng hoá trốn thuế, đôla, hàng ngoại qua cửa khẩu Tây Ninh và sân bay Tân Sơn Nhất, khởi tố 15 vụ làm hàng giả, phát hiện 06 vụ tham ô tài sản XHCN. Xử lý nhiều vụ tranh chấp trong nhân dân do hậu quả việc làm ăn kinh tế bất chấp pháp luật mang lại, tăng cường việc quản lý các trọng điểm và trật tự xã hội như bến xe, chợ, giải toả việc lấn chiếm lề đường… đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững bộ mặt của quận, giữ vững trật tự kỷ cương của xã hội.

Công tác xây dựng quốc phòng toàn dân cũng được đẩy mạnh. Lực lượng dự bị được tổ chức đăng ký, phúc tra định kỳ diễn tập đạt kết quả tốt. Công tác tuyển quân, khám tuyển NVQS ngày càng ổn định và đi vào nề nếp. Ba năm liền kể từ năm 1989 đều đạt và vượt chỉ tiêu tuyển quân. Công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ cũng có nhiều tiến bộ, tổ chức được hàng ngàn đội viên ở cấp phường và cơ quan xí nghiệp, chất lượng có được tăng cường hơn. Hai năm qua lực lượng dân quân tự vệ đã góp phần tốt hơn trong việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn quận.

Công tác xét xử các vụ án hình sự đã được giải quyết nhanh, đúng thủ tục tố tụng, cũng như việc đưa ra xử lưu động các vụ án điểm một cách kịp thời đã có tác dụng giáo dục ngăn ngừa, hạn chế các hoạt động phạm pháp. Trong hai năm 1989-1990 và 6 tháng đầu năm 1991 đã xét xử 519 vụ án hình sự trong đó có 60% can tội xâm phạm sở hữu công dân, 12% vi phạm sở hữu XHCN.

Riêng các vụ án dân sự đã tăng khá nhiều, năm sau cao hơn năm trước, phổ biến là giật hụi, vay nợ, tranh chấp nhà cửa, biểu hiện khá rõ tình hình phức tạp về kinh tế-xã hội.

Việc thi hành án cũng gặp khó khăn, số vụ án đã có hiệu lực pháp luật chưa được thi hành còn tồn động nhiều, nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật của những người phải thi hành án chưa cao, hoặc họ lợi dụng khe hở của luật pháp để tìm cách tránh né việc thi hành án.

Công tác tuyên truyền về pháp luật chủ yếu là tổ chức học tập cho CBCNV những luật mới ban hành như luật đầu tư, dự thảo pháp lệnh thuế thu nhập, thuế nhà đất, luật công đoàn, pháp lệnh thanh tra, luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, pháp lệnh thi hành án dân sự…Số người tham dự chưa đông, công tác tuyên truyền học tập chưa sâu, chưa thu hút được đông đảo quần chúng tham gia.

Do những biến động về kinh tế-xã hội, hoạt động thanh tra trong nhiệm kỳ cũng tăng lên, việc khiếu nại, tố cáo nhiều hơn, nhưng kết quả giải quyết còn chậm do thiếu sự phối hợp giữa các ngành liên quan.

Mặt mạnh của công tác nội chính là tình hình an ninh chính trị được giữ vững, các hoạt động của đối tượng bị hạn chế. Tình hình trật tự an toàn xã hội được duy trì ở mức bình thường, không để xẩy ra những vụ lộn xộn lớn. Công tác tổ chức lực lượng, xây dựng quốc phòng toàn dân được tăng cường. Công tác thanh tra, giải quyết các khiếu nại tố cáo, đã được quan tâm, đáp ứng một phần quan trọng trong việc giải quyết xử lý những mâu thuẫn, tiêu cực phát sinh trong nội bộ cơ quan và ngoài xã hội.

Tuy nhiên, mức độ hoạt động phạm pháp giảm không đáng kể, chưa làm cho quần chúng có sự an tâm thật sự. Trật tự kỷ cương pháp luật còn lỏng lẻo. Ý thức tôn trọng pháp luật ở một bộ phận nhân dân chưa cao biểu hiện qua việc trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ, lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân hoặc XHCN, dùng vũ lực để giải quyết các mâu thuẫn, chống người thi hành công vụ, coi thường các quyết định của chính quyền và các cơ quan luật pháp, cố ý làm trái nguyên tắc quy định… Chính vì thế trật tự xã hội vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, các mối quan hệ xã hội chưa được củng cố lành mạnh.

IV. VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG-CHÍNH QUYỀN VÀ CÔNG TÁC

       VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG :

Công tác chính trị tư tưởng đã có nhiều cố gắng trong việc tiếp tục làm rõ các quan điểm đổi mới của Đảng, các nguyên tắc tiến hành đổi mới, nhận định đúng bản chất, nguyên nhân khủng hoảng ở các nước XHCN nhất là làm rõ nguyên nhân sụp đổ ở Liên Xô. Quán triệt lại quan điểm quần chúng trong điều kiện Đảng cầm quyền, củng cố thêm nhận thức của đảng viên về lý luận và thực tiễn của việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời giúp cho đảng viên thấy cả các mặt hạn chế của nền kinh tế thị trường để chủ động ngăn ngừa đối phó. Kịp thời thông tin về các quan điểm nhận thức mới của Đảng, những âm mưu mới của kẻ thù. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng nhất là đợt góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện của Đại hội VII. Qua đó góp phần tạo nên những chuyển biến khá tích cực trong nhận thức tư tưởng của đông đảo đảng viên, đại đa số đảng viên vẫn giữ vững lòng tin và phát huy tốt vai trò của mình, góp phần ổn định được tư tưởng, hạn chế mặt hoài nghi dao động, khẳng định lại lập trường kiên trì mục tiêu XHCN trong mọi tình huống, hiểu sâu sắc hơn bài học đổi mới của cách mạng Việt Nam, rút được nhiều kinh nghiệm quý báu về cảnh giác cách mạng và cảnh giác với chủ nghĩa cơ hội , khơi dậy tinh thần trách nhiệm, tính tích cực của đông đảo đảng viên tham gia thực hiện thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng bộ đã đề ra.

Bên cạnh đó, công tác giáo dục chính trị tư tưởng vẫn còn bị động và lúng túng chưa nhạy bén trước những vấn đề tư tưởng đặt ra trong cuộc sống. Hệ thống thông tin không kịp thời, hình thức đơn điệu, chưa phát hiện, động viên những nhân tố tích cực, những mô hình mới phù hợp quan điểm đổi mới. Việc nắm bắt tư tưởng đảng viên chưa sát, công tác giáo dục lập trường giai cấp, lý tưởng còn khó khăn nhất là trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Việc giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong tư tưởng đảng viên còn lúng túng. Chất lượng sinh hoạt và số đảng viên tham gia sinh hoạt ở nhiều chi bộ còn thấp, thiếu tính chiến đấu, ngại đấu tranh đúng sai, sợ mất lòng. Số đảng viên xin ra khỏi đảng, bỏ sinh hoạt Đảng có tăng hơn trước, chủ yếu là do nghỉ việc, đời sống khó khăn phải chật vật lo cuộc sống trước mắt cho bản thân và gia đình không sinh hoạt Đảng được nhưng Đảng bộ chưa có những biện pháp tích cực để củng cố và ổn định tư tưởng đảng viên.

Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục đổi mới theo hướng tinh gọn, coi trọng chất lượng giảm được số lượng ban ngành trực thuộc. Đội ngũ cán bộ được bố trí lại chủ yếu theo hướng lấy hiệu quả công việc làm thước đo để đánh giá và bố trí cán bộ. Cán bộ đảng viên đã phải nỗ lực phấn đấu nhiều hơn với bản thân để nâng cao trình độ, nhất là trình độ nghiệp vụ nhằm thích nghi với nhiệm vụ mới, quan điểm mới.

Tuy nhiên công tác tổ chức cán bộ vẫn chưa thoát khỏi tình trạng chấp vá, bị động, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ đổi mới, thiếu hụt lớp cán bộ lãnh đạo và quản lý đủ phẩm chất năng lực về sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, vai trò của bí thư trong khu vực sản xuất kinh doanh, hành chính sự nghiệp còn lúng túng, nhiều nơi không phát huy được tác dụng, thậm chí không kịp thời kiểm tra, phát hiện ngăn chặn các hoạt động phức tạp trong sản xuất kinh doanh dẫn đến hậu quả xấu cho Đảng bộ và ảnh hưởng không tốt về dư luận xã hội.

Qua đợt phân loại tổ chức cơ sở Đảng hiện có 39,7% cơ sở Đảng được công nhận vững mạnh, 52,5% khá, còn lại yếu kém. Trong đợt củng cố một bước tổ chức cơ sở Đảng theo Nghị quyết 11 ở các đơn vị có 95% đủ tư cách, 5% phải xem xét tư cách và xử lý kỷ luật. Kết quả phân loại có ý nghĩa tương đối chưa phản ánh đúng thực chất, chất lượng đảng viên do nội bộ một số nơi còn nể nang, xuê xoa ngại đụng chạm…

Công tác phát triển Đảng được quan tâm với phương châm coi trọng chất lượng, chú ý đến trình độ văn hoá, nhận thức và năng lực tổ chức thực tiễn, quá trình thử thách, qua đó đã phát triển được 163 đảng viên mới, trong đó chủ yếu là khu vực lực lượng vũ trang và hành chính sự nghiệp.

Nguyên nhân chủ yếu của những khuyết điểm trên là chưa thật quán triệt quan điểm đánh giá và bố trí cán bộ, chưa thực hiện được đầy đủ các khâu của quá trình này. Việc đánh giá xem xét kỹ hiệu quả công tác, lấy ý kiến cán bộ và ý kiến quần chúng, tham khảo dư luận, thực hiện phương thức công khai dân chủ tập thể còn hạn chế. Chưa cụ thể hoá được tiêu chuẩn cán bộ theo từng loại hình hoạt động, các qui định về nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức Đảng trong khu vực sản xuất kinh doanh chưa rõ.v.v… Công tác phát triển đảng viên mới còn yếu chưa đảm bảo được yêu cầu xây dựng lực lượng nhất là ở các phường và đơn vị sản xuất, kinh doanh.

Công tác kiểm tra Đảng được tiến hành tập trung thực hiện chủ trương củng cố Đảng, xây dựng Đảng ở cơ sở vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ với thanh tra, đã phát hiện xử lý nghiêm khắc đảng viên vi phạm kể cả đảng viên là cán bộ chủ chốt, góp phần ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng. Công tác kiểm tra việc chấp hành các chỉ thị, nghị quyết, kiểm tra tài chính, kiểm tra thu nộp đảng phí được chú trọng hơn trước. Các trường hợp tiêu cực trong cán bộ đảng viên và kết quả xử lý kỷ luật đảng viên đều được báo cáo công khai định kỳ trong toàn đảng bộ. Việc giải quyết khiếu tố được coi trọng góp phần ngăn chặn phát sinh tiêu cực, bảo đảm việc xử lý được chính xác, công minh.

Tuy nhiên tình trạng vi phạm kỷ luật trong đảng viên còn nhiều, trong đó tỷ lệ đảng viên là cán bộ chủ chốt có tăng hơn trước. Nguyên nhân là do năng lực quản lý còn yếu kém, thiếu đấu tranh nội bộ, thiếu rèn luyện bản thân, tình trạng chấp hành nghị quyết, chế độ, báo cáo thỉnh thị của một số cấp ủy đảng cơ sở chưa nghiêm túc, xem nhẹ việc kiểm tra thực hiện nghị quyết.

Hoạt động của HĐND quận và phường tuy có đổi mới hơn trước nhưng thực chất vẫn còn nặng về hình thức. Đa số đại biểu là kiêm nhiệm nên xem trọng nhiệm vụ chuyên môn hơn nhiệm vụ đại biểu của dân. Vả lại việc giải quyết các nguyện vọng của dân thuộc về các cơ quan chính quyền, đại biểu chỉ làm chức năng phản ánh, nên thực chất HĐND chưa thể hiện là cơ quan quyền lực của dân. Tuy vậy, HĐND các cấp trong phạm vi quyền hạn của mình đã tăng cường giám sát hoạt động của UBND cùng các ngành giải quyết khiếu tố của công dân, thẩm định các hoạt động của UBND, tập hợp kiến nghị của quần chúng và của đại biểu đề đạt với cấp trên…đạt kết quả tích cực.

- UBND  các cấp có nhiều cố gắng trong việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật, thực hiện khá sáng tạo các chủ trương, nghị quyết của đảng bộ nhất là trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chăm lo giải quyết các quyền lợi bức thiết của nhân dân về nhà ở, điện, nước, đường sá, cống rãnh, các công trình phúc lợi xã hội, khiếu tố của dân… đã đạt được nhiều kết quả tiến bộ hơn trước. Đội ngũ cán bộ chính quyền được nâng cao về trình độ năng lực quản lý, được bồi dưỡng về chính trị cơ bản, kiến thức quản lý Nhà nước, quản lý đô thị.

Tuy nhiên, nhìn chung bộ máy còn cồng kềnh, hoạt động chưa đồng bộ và hiệu lực quản lý còn thấp. Nhiều cơ quan chính quyền chưa thực sự tôn trọng pháp luật trong quản lý xã hội mà còn có phần nể nang. Việc dự báo tình hình biến động kinh tế-xã hội thiếu kịp thời. Hoạt động của tổ dân phố không đều, nhiều nơi lơi lỏng thậm chí bỏ hẳn sinh hoạt.

Mặt trận và các đoàn thể  đã góp tích cực vào thành quả chung của Đảng bộ, nhất là trên lĩnh vực tuyên truyền pháp luật, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện 4 cuộc vận động. Phong trào quần chúng được duy trì khá liên tục với quy mô vừa và nhỏ. Nổi bật nhất là các hoạt động phát huy và mở rộng dân chủ XHCN trong các tầng lớp nhân dân, các hoạt động dân sinh như chăm lo đời sống trên địa bàn dân cư, khuyến khích học sinh giỏi, học sinh nghèo hiếu học, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, lớp học tình thương, tương trợ nhau trong lúc ốm đau, mai táng, hoà giải mâu thuẫn trong nhân dân .v.v…được quần chúng hưởng ứng tích cực.

Nội dung phong trào chuyển mạnh theo hướng chăm lo thiết thực đến đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng, nhất là tập trung lo bộ phận quần chúng còn khó khăn, thông qua đó mà tập hợp thêm lực lượng, mở rộng thêm được mặt trận đoàn kết toàn dân, thu hút đông đảo cưụ chiến binh, một bộ phận trí thức, nhà sản xuất kinh doanh dịch vụ, những sĩ quan học tập về…tham gia vào các hội nghề nghiệp hoặc các sinh hoạt của giới. Đồng bào có đạo và đồng bào người Hoa tiếp tục yên tâm hoà nhập vào cuộc sống mới nhờ những chính sách mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và dân tộc ngày càng phù hợp với tình hình mới.

Tuy nhiên, hoạt động của các tổ chức quần chúng còn nhiều khó khăn vừa do quần chúng phải tập trung lo đời sống hằng ngày, vừa do phương thức hoạt động của các tổ chức quần chúng chưa chuyển kịp với tình hình, lề lối làm việc còn hành chánh, công sức nhiều nhưng hiệu quả chưa cao. Ở nhiều cơ sở điều kiện hoạt động còn thiếu thốn, chưa được sự lãnh đạo tập trung của cấp ủy, sự hỗ trợ giúp đỡ về phương tiện tài chính của chính quyền, của đảng bộ. Quan điểm “dân là gốc” chưa thực sự được quán triệt trong Đảng, trong các cơ quan chính quyền, còn khoán trắng cho các đoàn thể, cho các đảng viên làm công tác quần chúng. Hệ thống chân rết của đoàn thể mặt trận ở khu phố, tổ dân phố còn yếu, nhiều nơi thiếu cán bộ phụ trách kéo dài. Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, nhất là khắc phục những mặt yếu kém nói trên là điều cần thiết cấp bách để có thể đưa phong trào quần chúng đi lên, đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới.

V. MỘT SỐ NHẬN XÉT CHUNG VÀ CÁC BÀI HỌC

     KINH NGHIỆM:

Đánh giá tổng quát trong nhiệm kỳ qua đã nỗi rõ những ưu, khuyết điểm sau:

1. Ưu điểm:

- Trong tất cả các lĩnh vực đều được đầu tư phát triển theo các quan điểm của sự nghiệp đổi mới, các điều kiện để thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ V rất khó khăn nhưng đảng bộ và nhân dân trong quận đã cố gắng vươn lên, hoàn thành khá toàn diện các nhiệm vụ chỉ tiêu kinh tế-xã hội. Đã có nhiều chủ trương sáng tạo, đúng đắn tạo tiền đề cho các thành phần kinh tế phát triển với quan điểm giải phóng mọi sức sản xuất. Tăng cường có hiệu quả các hoạt động y tế, văn hoá, giáo dục. Bảo đảm được an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể có bước trưởng thành mới phù hợp với yêu cầu khách quan của tình hình. Rõ nét nhất là đảm bảo được tốc độ phát triển sản xuất hàng năm, xây dựng được một bước cơ sở hạ tầng và cố gắng thực hiện được các vấn đề xã hội.

2. Nguyên nhân ưu điểm :

- Trong đảng bộ hoàn toàn nhất trí với các quan điểm và nguyên tắc trong quá trình đổi mới, Ban chấp hành đảng bộ có khả năng quán triệt và vận dụng khá nhanh nhạy đường lối, quan điểm và các bài học kinh nghiệm của Đảng, nắm được tình hình thực tế ở cơ sở và đề ra được nhiều chủ trương sát đúng, kịp thời, thể hiện được tinh thần cách mạng tiến công; trong điều hành công việc biết dựa vào nghị quyết và quy chế, có kiểm tra chặt chẽ, nhờ đó đã tạo điều kiện cho các ngành và cơ sở phát triển.

- Đảng bộ và nhân dân Tân Bình có truyền thống đoàn kết. Các cơ sở đảng và đảng viên có nhiều cố gắng giữ vững vị trí công tác, nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ có mức trưởng thành, tiếp thu được kinh nghiệm cả thành công và thất bại. Ngoài ra còn được sự chỉ đạo chặt chẽ của Thành ủy, UBND thành phố và sự hỗ trợ của các cơ sở, ban, ngành, của trung ương và thành phố trong tất cả các hoạt động đã giúp cho quận thực hiện được nhiều công việc có hiệu quả.

3. Khuyết điểm :

- Quy mô và tốc độ phát triển kinh tế-xã hội chưa tương xứng với thế mạnh và tiềm năng của một quận có điều kiện phát triển, hiệu quả sản xuất, kinh doanh chưa cao.

- Công tác tư tưởng và tổ chức còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng tốt cho yêu cầu xây dựng Đảng trong tình hình mới.

Quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu, bộ máy tổ chức còn nặng nề, đào tạo bố trí cán bộ còn bị động đối phó, chưa làm được theo quy hoạch. Nhận thức về lý tưởng và quan điểm lập trường giai cấp công nhân của một bộ phận đảng viên có bị lu mờ, dao động trước các diễn biến phức tạp của các tổ chức cộng sản thế giới.

- Sự chuyển biến về phương thức hoạt động, nhất là tập hợp, giáo dực quần chúng còn yếu. Khá đông cán bộ đoàn thể chưa yên tâm với nhiệm vụ, nhất là ở cơ sở.

4. Nguyên nhân khuyết điểm:

- Trong chỉ đạo điều hành thực hiện các nhiệm vụ của Quận ủy có lúc chưa sát thực tế, chưa giải quyết kịp thời và có hiệu quả những khó khăn phát sinh ở cơ sở. Một số chỉ thị, nghị quyết của Quận ủy triển khai thiếu nghiêm túc ở cơ sở nhưng thiếu biện pháp kiểm tra uốn nắn kịp thời.

- Vai trò một số tổ chức cơ sở Đảng còn yếu, nhất là ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, chức năng nhiệm vụ ở các đơn vị này bị lưu mờ nhưng chưa kịp thời củng cố.

- Trình độ nhận thức và năng lực của cán bộ đảng viên nói chung chưa theo kịp với yêu cầu phát triển kinh tế và đổi mới quản lý kinh tế-xã hội trước các quy luật khách quan của cơ chế thị trường.

Những ưu khuyết điểm trên đều có ý nghĩa là những bài học trong toàn Đảng bộ để có kinh nghiệm hoạt động trong những năm tới. Từ thực tiễn trong nhiệm kỳ qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

1. Luôn luôn giữ vững quan điểm lập trường giai cấp, dù bất kỳ trong tình hình nào vẫn luôn kiên trì mục tiêu cách mạng, nắm bắt kịp thời và nhanh nhạy các chủ trương quan điểm mới của Đảng nhất là các quan điểm về phát triển kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Hướng các ngành và cơ sở nhận thức thật rõ và tích cực hành động theo các quan điểm đó. Trên cơ sở các quan điểm đổi mới, biết vận dụng cụ thể, xác định rõ hướng đi và biện pháp thích hợp nhằm phát huy thế mạnh của địa bàn, tạo tiền đề đưa quận đi lên một cách vững chắc.

2. Phải nhanh chóng đổi mới công tác xây dựng Đảng nhất là về tư tưởng, cán bộ và công tác vận động quần chúng. Luôn chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng, xác định rõ mục tiêu, lý tưởng và lập trường giai cấp. Trong tất cả các hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền và tổ chức quần chúng phải xác định việc phục vụ nhân dân và phấn đấu cho mục tiêu của Đảng là lẽ sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.

3. Sự đoàn kết nhất trí phải được xây dựng trên cơ sở đấu tranh tư phê bình và phê bình, thực hiện dân chủ và công khai trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong lãnh đạo phải biết lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau, tôn trọng dư luận và bình tĩnh, tỉnh táo xử lý các vụ việc cho kịp thời, chính xác, khách quan.

4. Phải hết sức coi trọng khâu chỉ đạo và kiểm tra việc tổ chức thực hiện biết chọn những vấn đề trọng điểm để tập trung chỉ đạo. Thực tế trong nhiệm kỳ qua đã chỉ rõ: có chủ trương đúng nhưng không có cán bộ biết làm việc thì chủ trương đó không thực hiện được.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CHỦ YẾU

 NĂM 1991-1995

Quận Tân Bình có tiềm năng khá lớn về sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, có nguồn lao động và đất đai dễ thu hút sự đầu tư bên ngoài. Về mặt địa lý, quận nằm ở cửa ngõ Tây Bắc thành phố, nằm sát phi trường Tân Sơn Nhất. Rất thuận lợi cho giao lưu trong và ngoài nước. Nhưng bên cạnh đó các yếu tố để phát triển sản xuất vẫn còn khó khăn như thiếu vốn và thiết bị, sản phẩm hàng hoá chất lượng thấp, thị trường còn hạn chế. Cán bộ lãnh đạo và quản lý chưa theo kịp với yêu cầu của cơ chế thị trường. Tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội ở địa bàn còn khá phức tạp. Đây là những thuận lợi và khó khăn lớn tác động trên các mặt lãnh đạo của toàn đảng bộ.

Để góp phần thực hiện các nghị quyết của Trung ương và thành phố, trên cơ sở khó khăn thuận lợi và phát huy kết quả đã đạt được trong nhiệm kỳ qua. Trong 5 năm tới Đảng bộ và nhân dân Tân Bình phấn đấu thực hiện 5 mục tiêu cơ bản là:

1. Quán triệt các quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.Tổ chức sắp xếp lại các hoạt động sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Quán triệt quan điểm giải phóng mọi năng lực sản xuất, thu hút các nguồn vốn đầu tư, tập trung củng cố chấn chỉnh thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi các thành phần kinh tế khác phát triển trên cơ sở đó từng bước ổn định được đời sống nhân dân.

2. Đổi mới việc thực hiện các chính sách xã hội, cho phù hợp với phát triển kinh tế, thực hiện tốt chiến lược con người, xây dựng nếp sống văn hoá dân tộc lành mạnh. Từng bước ổn định và nâng dần chất lượng giáo dục, huy động mọi lực lượng xã hội tham gia việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triển các hoạt động thể dục thể thao quần chúng.

3. Tiếp tục phát huy dân chủ, phấn đấu từng bước thực hiện công bằng xã hội, kiên quyết chống tiêu cực ở các ngành, các cấp.

4. Đề cao cảnh giác cách mạng, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc và giữ vững trật tự an toàn xã hội nhất là ở cơ sở.

5. Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ theo tinh thần nghị quyết đại hội VII toàn quốc và nghị quyết đại hội V của thành phố, nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND và quản lý của chính quyền, đổi mới nội dung phương thức hoạt động của tổ chức đoàn thể các cấp.

Để thực hiện được các mục tiêu trên, đại hội xác định các nhiệm vụ và biện pháp chính trên các lĩnh vực chủ yếu sau đây:

I. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ:

Định hướng phát triển cơ bản của quận trong 5 năm tới cần tập trung là: sản xuất (CN-TTCN), đẩy mạnh hoạt động thương nghiệp (nội thương xuất nhập khẩu), chú trọng củng cố và phát triển các dịch vụ (du lịch và phục vụ đời sống).

1. Sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp:

a. Phương hướng chung:

- Tạo sự phát triển cân đối giữa các thành phần và các ngành kinh tế kỹ thuật. Quan tâm đúng mức đầu tư cho khu vực quốc doanh, liên doanh đảm bảo hiệu quả kinh tế. Quy hoạch phát triển không dàn đều phải tập trung vào những ngành, đơn vị chủ lực, mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Trong 5 năm tới đảm bảo tốc độ tăng giá trị sản lượng hàng năm đạt từ 10 đến 12%. Tỷ trọng xuất khẩu đạt giá trị từ 10 đến 12%.

- Giải quyết từng bước việc làm, thông qua phát triển sản xuất, chú trọng bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.

- Tổng kết các điển hình tiên tiến về hợp tác sản xuất kiểu mới trong nhân dân để nhân ra diện rộng thành phong trào quần chúng tham gia sản xuất theo mô hình hợp tác mới.

- Phát triển mạnh mô hình xí nghiệp quốc doanh cổ phần để khai thác thế mạnh của cả quốc doanh và tư nhân trong một số ngành nghề truyền thống (dệt, may, da,…).

- Từng bước thống kê, nắm chắc các nguồn vốn và hướng sử dụng sinh lợi các loại vốn (cố định, lưu động, đất, trí tuệ…) của các thành phần kinh tế.

- Coi trọng việc tái đầu tư để phát triển sản xuất.

b. Nhiệm vụ cụ thể :

Tập trung củng cố tổ chức trước hết các xí nghiệp quốc doanh, phát triển chiều sâu, quy mô, trình độ sản xuất, chú trọng đến hiệu quả kinh tế.

- Củng cố, khôi phục và phát triển một số ngành như : dệt, da, cao su, may mặc… trên cơ sở quy hoạch cụm dân cư.

Đối với khu vực tiểu thủ công nghiệp: tập trung củng cố ngành dệt đi đến hoàn thiện sản xuất theo quy trình công nghệ, thành lập một số cụm sản xuất CN-TTCN liên hoàn (P.15, 16, 19, 20, 09, 10), trước hết chú trọng cơ sở hạ tầng (giao thông, điện nước, môi trường…). Dần dần chuyển hướng xây dựng các cơ sở mới ra vùng ven (có điều kiện mặt bằng và bảo đảm môi trường sản xuất).

- Trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn khó khăn, cần có chủ trương đồng bộ để thu hút đầu tư bên ngoài (trong và ngoài nước) thu hẹp xây dựng kinh tế tầm xa (các nông trường) do hiệu quả kém, quản lý khó khăn.

c. Phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật:

- Ngành dệt: Tập trung phát triển khoa học kỹ thuật nâng cao chất lượng sản phẩm, tranh thủ sự đầu tư nước ngoài trong khâu hoàn tất. Phấn đấu giữ tỷ trọng 50% giá trị tổng sản lượng.

- Ngành cao su nhựa: Quy hoạch phát triển ở các P.10, 19, 20 khuyến khích đầu tư trang thiết bị mở rộng mặt bằng để phát triển sản xuất. Đảm bảo tỷ trọng 10-12% giá trị tổng sản lượng.

-  Ngành chế biến lương thực thực phẩm: thuận lợi của ngành này là nguồn nguyên liệu có sẵn trong nước, ít bị cạnh tranh bởi hàng ngoại. Phấn đấu giữ được tỷ trọng từ 12-15% giá trị tổng sản lượng.

Hướng phát triển là khâu chế biến, cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, tập trung vào một số nông sản chế biến có giá trị xuất khẩu như: các loại đậu, cà phê, tiêu… sắp xếp quy hoạch sản xuất rượu, cồn, nước giải khát.

- Ngành may mặc: Là ngành có thế mạnh giải quyết nhiều lao động. Cần quan tâm đúng mức, khuyết khích nhập thiết bị mới, tạo điều kiện mặt bằng xây dựng nhà xưởng. Tạo sự liên kết giữa ngành dệt và may.

- Ngành cơ khí: Cần thu hút sự liên doanh của nước ngoài với các đơn vị chủ lực của ngành nhất là cơ điện. Củng cố phát triển xí nghiệp liên doanh gia công điện tử.

- Các ngành khác: như da, thuỷ tinh, vật liệu xây dựng, có kế hoạch củng cố hoạt động sản xuất. Tập trung phát triển một số mặt hàng như: da và giả da, hàng thuỷ tinh gia dụng, gạch bông, các loại vật liệu xây dựng khác.

2. Sản xuất nông nghiệp:

Hoàn tất việc cấp giấy phép sử dụng ruộng đất cho nông dân. Phát triển loại hình kinh tế gia đình trên cơ sở nhận khoán đẩy mạnh sản xuất tăng thu nhập nâng cao đời sống. Cần thiết phải có và hoàn chỉnh chính sách khuyến nông thúc đẩy sản xuất, chăn nuôi phát triển. Củng cố vùng rau chuyên canh hiện có từ 250-300 ha, đảm bảo sử dụng đất đai có hiệu quả.

- Việc đô thị hoá cần có tính chất chiến lược lâu dài, theo quy hoạch, tránh phân tán manh mún phá đi phần quy hoạch tổng thể của quận, kết hợp với việc xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, nước, đường sá…) và các công trình văn hoá xã hội.

3. Về xây dựng cơ bản nhà đất và giao thông vận tải:

- Sử dụng nguồn vốn ngân sách đầu tư vào những công trình trọng điểm được thành phố và quận đưa vào kế hoạch và được duyệt đảm bảo kỹ thuật và thời gian thi công.

- Trong vấn đề xây dựng cơ bản, đối với khu vực sản xuất cần phải tính toán kỹ, đảm bảo được hiệu quả kinh tế của công trình sau khi đưa vào sử dụng.

- Thực hiện quy hoạch địa bàn dân cư theo hướng đô thị hoá. Nâng cao năng lực quản lý đô thị của các ngành các cấp.

- Quản lý chặt chẽ và sử dụng hợp lý về nhà và đất trong quận. Tiếp tục thực hiện việc bán hóa giá nhà theo quy định của Nhà nước và phát huy việc xây nhà bán trả góp cho các đối tượng.

- Có kế hoạch duy tu, dặm vá và sửa chữa các tuyến đường trong quận. Cần kết hợp chặt chẽ với các ngành các cấp, từng bước giải quyết việc cấp và thoát nước trên các địa bàn.

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng thành phố thi công dứt điểm các công trình do thành phố triển khai. Có kế hoạch sửa chữa tiếp các tuyến đường đang bị xuống cấp.

4. Về phân phối lưu thông:

a. Các mục tiêu chính:

- Phát triển kinh doanh nội ngoại thương theo hướng tập trung bán buôn, có một phần bán lẻ và đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu và dịch vụ du lịch là chính.

- Tăng cường công tác quản lý hành chính thương nghiệp trên các mặt: quản lý đăng ký kinh doanh quản lý thị trường nhằm đấu tranh chống đầu cơ, buôn lậu, chống thất thu thuế.

 b. Các công tác trọng tâm:

- Phấn đấu doanh số bán toàn ngành tăng bình quân 15% năm (đã loại trừ biến động giá) và kim ngạch xuất khẩu tăng 14%/năm.

- Tập trung đầu tư cho công tác chế biến, sản xuất và cung ứng hàng xuất khẩu thông qua đầu mối liên hiệp sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu. Tăng cường liên kết với các xí nghiệp tại quận sản xuất hàng nội địa có khả năng thay thế hàng ngoại nhập. Chú trọng và có kế hoạch nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, hạn chế nhập hàng tiêu dùng.

- Ổn định hoạt động của Công ty dịch vụ du lịch để phát triển ngành du lịch nhằm nhanh chóng thu hồi vốn và thực hiện nghĩa vụ thuế. Thực hiện tốt việc gắn hiệu quả kinh tế với phương châm hoạt động lành mạnh đối với các nhà hàng, khách sạn trực thuộc quận.

- Tiếp tục đầu tư và tạo điều kiện cho các công ty ngành hàng thực hiện các nhiệm vụ được giao. Có kế hoạch củng cố hoạt động của liên hiệp HTX mua bán các cấp, giải thể các đơn vị làm ăn kém hiệu quả.

 

- Hoàn thiện khu thương nghiệp chợ Tân Bình và khu thương mại du lịch phường 04, phấn đấu sử dụng đạt hiệu quả kinh tế của chợ Phạm Văn Hai, Hoàng Hoa Thám. Tiếp tục công tác quy hoạch theo ngành hàng nhất là trên 5 tuyến đường chính và các khu vực đông dân.

- Tăng cường công tác quản lý thị trường, đặc biệt là công tác chống đầu cơ buôn lậu nhằm ổn định thị trường, đưa công tác quản lý hành chính thương nghiệp, nhất là quản lý đăng ký kinh doanh vào nề nếp, phục vụ cho công tác quản lý thuế và quy hoạch ngành hàng chung tại quận.

Về tài chánh ngân hàng:

- Tiếp tục thực hiện việc huy động vốn nhằm giải quyết nhu cầu vay vốn của các thành phần kinh tế, tập trung vốn cho những đơn vị hoạt động có hiệu quả. Mở rộng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt với yêu cầu nhanh, an toàn và thuận lợi. Nâng cao hiệu quả kinh doanh tiền tuệ, đảm bảo an toàn tài sản Nhà nước và kho quỹ.

- Đảm bảo cân đối ngân sách, giải quyết lương kịp thời cho CBCNV khu vực hành chính sự nghiệp, các đối tượng chính sách và 20 phường. Hỗ trợ đầu tư cho một số cơ sở hạ tầng của quận, tạo các điều kiện vật chất cho những đơn vị sản xuất kinh doanh có chiều hướng phát triển tốt đi vào hoạt động có hiệu quả.

Đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh, các ngành tổng hợp chỉ quản lý theo chính sách, chế độ của Nhà nước, quy định hiện hành, trong khuôn khổ pháp luật, các ngành không can thiệp sâu vào các hoạt động của đơn vị. Thủ trưởng các đơn vị kinh tế quốc doanh chịu trách nhiệm báo cáo trung thực và đầy đủ các hoạt động theo quy định.

II. LĨNH VỰC VĂN HOÁ-XÃ HỘI:

1. Về lao động- thương binh xã hội: chú ý vấn đề phân hoá giai cấp để vừa khuyến khích làm giàu chính đáng, nâng đỡ những tài năng cả trong kinh doanh và sản xuất, vừa bảo vệ quyền lợi của người lao động. Điều tiết hợp lý để chăm lo cho các đối tượng nghèo. Trọng tâm là phải giải quyết cho được khoảng 20.000 lao động (trong 5 năm) trong đó có trên 1.000 bộ đội xuất ngũ. Sớm hình thành được cơ sở sản xuất do Phòng lao động thương binh xã hội để thu hút lao động từ đối tượng chính sách.

Trong khi chờ nhà nước cải cách cơ bản chế độ tiền lương trước mắt trong khu vực sản xuất kinh doanh cần gắn tiền lương với hiệu quả lao động, áp dụng rộng rãi hình thức khoán sản phẩm. Tiếp tục điều tiết bằng nhiều nguồn hợp lý, bảo đảm thu nhập phù hợp cho khu vực hành chánh sự nghiệp, lực lượng vũ trang. Muốn thực hiện điều này phải làm tốt việc tinh gọn biên chế, tăng hiệu quả công tác, sắp xếp hợp lý bộ máy.

Duy trì chế độ thi hành nghĩa vụ lao động công ích đạt 300 triệu/năm để sửa chữa nhỏ đường sá, nạo vét kinh mương, đóng giếng nước…

Đặc biệt việc chăm lo cho trên 10.000 đối tượng chính sách phải trở thành mối quan tâm, thành nghĩa vụ của toàn xã hội. Hết sức tạo điều kiện cho câu lạc bộ Những người kháng chiến, Ban đại diện hưu trí, Hội cựu chiến binh hoạt động có hiệu quả, gắn các tổ chức này với xã hội, đặc biệt là việc giáo dục truyền thống, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho hội viên, giúp hội viên có điều kiện phát huy bản chất cách mạng đóng góp công sức và trí tuệ còn lại cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bằng nhiều biện pháp đồng bộ, cố gắng giải quyết các tệ nạn xã hội như ăn xin, cùi hủi, xì ke, bụi đời, không để nạn mại dâm phát triển.

2. Về giáo dục đào tạo: 5 năm tới tiếp tục đa dạng hoá các loại hình trường lớp, phát triển các trường phổ thông bán công, dân lập , nhóm trẻ gia đình mẫu giáo dân lập theo tỷ lệ thích hợp. Hoàn thành xoá mù chữ và phổ cập cấp I, xây dựng tốt cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học, đầu tư đúng mức cho trường chuyên. Sát nhập trung tâm dạy nghề với trung tâm giáo dục kỹ thuật thực hành hướng nghiệp. Ngành học bổ túc văn hoá trong 2 năm 1991-1992 phải xoá xong nạn mù chữ ở độ tuổi từ 15-25. Đến năm 1993 hoàn thành phổ cập cấp I nhất là độ tuổi từ 6-14. Thực hiện tốt Luật phổ cập giáo dục tiểu học, bảo đảm trẻ từ 6-11 tuổi đều được đến lớp. Mở rộng hệ bán trú theo yêu cầu phụ huynh học sinh, hoàn chỉnh việc tách cấp 1 ra khỏi cầp 2, thực hiện tốt chương trình cải cách giáo dục và giáo dục thực nghiệm. Thường xuyên bồi dưỡng giáo viên dạy giỏi, tổ chức thi tuyển học sinh giỏi, thực hiện giáo dục hướng nghiệp.

Muốn làm tốt nhiệm vụ trên cần phải có biện pháp cụ thể như lập luận chứng về đa dạng hoá các loại trường lớp, xác định trách nhiệm xoá mù chữ, phổ cập cấp I cho mỗi cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể thực hiện có trọng điểm, phải thực sự chăm lo đội ngũ giáo viên về đời sống, nâng cao đạo đức, phẩm chất, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo ngành.

Về dạy nghề: mở rộng các lớp dạy nghề, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất chủ yếu là trang bị phương tiện để nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo. Những năm tới cần tranh thủ mọi nguồn vốn, kể cả tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài để hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng các trường lớp dạy nghề, chú ý phát triển theo ba ngành là cơ khí, sửa chữa ôtô, xe gắn máy, điện tử.

3. Về y tế: Trọng tâm là phải thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu theo chương trình 10 điểm của Bộ Y tế bằng nhiều biện pháp cụ thể, nhanh chóng cải thiện môi sinh, bảo đảm tiêm chủng mở rộng từ 90% trở lên, phòng ngừa 6 bệnh nguy hiểm của trẻ em.

Tuyên truyền và tổ chức thực hiện có hiệu quả “Luật bảo vệ sức khoẻ” gắn với công tác giáo dục sức khoẻ đại chúng ở nhà trường và từng cộng đồng nhỏ. Chú trọng giáo dục nếp sống lành mạnh, rèn luyện thân thể tự phòng ngừa bệnh, bảo đảm vệ sinh môi trường, tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội, bệnh xã hội làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, lao động và giống nòi. Tổ chức tốt việc thu viện phí theo quy định nhằm vừa giảm bớt bao cấp tràn lan, vừa có điều kiện tập trung lo cho đối tượng chính sách và bà con lao động nghèo. Chú trọng chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, kéo tỷ lệ phát triển dân số xuống còn 1,3%. Chú ý việc chống suy dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh, ngăn ngừa và dập tắt ngay các ổ dịch bệnh, phối hợp với chữ thập đỏ tổ chức mạng lưới cấp cứu từ quận tới phường.

4. Văn hoá nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền: phải là vũ khí sắc bén của Đảng, Nhà nước trên mặt trận tư tưởng xây dựng lối sống, nếp sống, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới XHCN. Đồng thời văn hoá phải mang tính quần chúng, do quần chúng thực hiện và phải đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp quần chúng. Cần đi sâu tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ ở tổ dân phố, khu phố, ở  nhà máy, xí nghịêp, cơ sở sản xuất, trường học, đơn vị vũ trang, phù hợp với tính chất và điều kiện lao động, sinh hoạt của mỗi loại đối tượng, kích thích quần chúng hưởng thụ và sáng tác, sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách hợp lý, bổ ích lành mạnh. Tập trung xây dựng gia đình văn hoá mới theo 3 tiêu chuẩn đã hướng dẫn để cho mỗi tế bào lành mạnh thì xã hội sẽ lành mạnh. Đi đôi với việc này là để đảm bảo cho việc xây dựng gia đình văn hoá mới đạt kết quả, phải tạo ra môi trường xã hội lành mạnh bằng nỗ lực tổng hợp của các ngành, các cấp. Trong đó việc tổ chức nếp sống văn minh lịch sự nơi công cộng có tác động rất mạnh.

Cùng với việc thực hiện tốt quản lý văn hoá về mặt Nhà nước, kiên quyết ngăn chặn xử lý nghiêm các vi phạm trên lĩnh vực này, nhất là văn hoá phản động, đồi truỵ. Cần thông qua các loại hình văn hoá nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền hướng dẫn thị hiếu, khắc phục tình trạng vì mục đích doanh thu, chiếu theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận công chúng. Kiên quyết góp phần bảo vệ nền văn hoá dân tộc, có tiếp thu một cách chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.

Về thiết kế văn hoá cần tổ chức lại cho phù hợp với tình hình mới, xoá bỏ những thiết chế hình thức, tập trung đầu tư xây dựng trung tâm văn hoá, thể dục thể thao của quận tại Phường 04 (nghĩa địa Pháp cũ) và 2 khu vực Phú Thọ Hoà và Tân Sơn Nhì để thực sự là nơi hấp dẫn, thu hút đông đảo quần chúng.

 Công tác giáo dục truyền thống phải đặc biệt chú trọng. Sớm hoàn chỉnh sổ vàng truyền thống ghi lại bằng hình ảnh và sự kiện về các đ/c cách mạng lão thành, về những địa danh cách mạng nổi tiếng, tiếp tục xây dựng nâng cấp khu truyền thống cách mạng Phú Thọ Hoà, thực hiện từng bước biến nơi đây thành khu truyền thống văn hoá lớn phục vụ cho đồng bào trong quận, thu hút khách khắp nơi kể cả khách quốc tế. Giữ gìn và bảo quản tốt các bia đài kỷ niệm cách mạng, di tích lịch sử văn hoá chùa Giác Lâm, khu mộ Phan Chu Trinh.

5. Về thể dục thể thao: Phát động rộng rãi phong trào rèn luyện thân thể trong toàn dân, nhất là đối tượng học sinh, phụ lão. Tổ chức các Hiệp hội thể thao quần chúng, mở rộng loại hình gia đình thể thao theo xu hướng xã hội hoá thể thao, duy trì và nâng cao chất lượng, các đội đại biểu, thường xuyên bổ sung vận động viên trẻ, đầu tư thoả đáng cho các bộ môn thể thao thuộc thế mạnh của quận như: xe đạp, bóng chuyền, bơi lội, bóng rổ. Xây dựng tuyến năng khiếu ở các bộ môn mũi nhọn, thông qua Hội đồng tuyển sinh năng khiếu, chú ý bồi dưỡng lực lượng giáo viên thể dục thể thao, kể cả ở các trường học nhằm tìm ra các phương pháp huấn luyện, rèn luyện về TDTT có hiệu quả.

Quản lý tốt và tiếp tục nâng cấp các cơ sở thể dục thể thao hiện có, phát triển thêm các tụ điểm sinh hoạt thể thao ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi lứa tuổi, nhất là các cháu thanh thiếu niên, các cụ phụ lão có nơi rèn luyện thân thể, vui chơi giải trí.

6. Về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: đây là trách nhiệm chung của tất cả các cấp và toàn xã hội. Phát động rộng rãi việc thực hiện nghiêm chỉnh luật “Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Vận động sự giúp đỡ rộng rãi của các tổ chức xã hội, tổ chức từ thiện, các đơn vị sản xuất, kinh doanh, chăm lo, giúp đỡ các cháu có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt (nghèo, mồ côi, tàn tật, khuyết tật…).

Tổ chức nhiều loại giải thưởng, nhiều loại học bổng để khuyến khích, nâng đỡ các tài năng trẻ phát triển, giúp đỡ các cháu nghèo thất học.

III. VỀ CÔNG TÁC NỘI CHÍNH:

Thực hiện tốt nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và nghị quyết đại hội thành phố lần thứ V về công tác an ninh quốc phòng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận, góp phần cùng thành phố và cả nước bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn của tổ quốc.

Nắm vững tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội trên từng địa bàn, xây dựng lực lượng an ninh vững mạnh, bố trí lực lượng hợp lý nhằm ngăn chặn kịp thời các hoạt động phản  cách mạng  tại địa phương kết hợp với việc phát huy phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc nhằm xây dựng các khu phố, phường là khu vực an toàn trong toàn quận. Xây dựng lực lượng vũ trang tinh gọn, chất lượng cao, đồng thời với việc củng cố lực lượng dự bị động viên, huấn luyện và quản lý tốt đảm bảo nhu cầu điều động theo kế hoạch chung của thành phố. Chủ động tấn công các đối tượng trên địa bàn song song với việc tích cực tuyên truyền giáo dục để phòng ngừa và ngăn chặn sự phát triển của tình hình có hại cho công cuộc đổi mới về kinh tế, công cuộc cách mạng XHCN của nhân dân ta. Tổ chức tốt việc đăng ký thanh niên khám tuyển và điều động thực hiện nghĩa vụ quân sự đúng pháp luật, đi dần vào nề nếp ổn định và tự giác cháp hành theo luật định.

Song song với việc củng cố lực lượng an ninh quân sự, đẩy mạnh hoạt động một cách đồng bộ của cơ quan nội chính, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, từng bước đưa việc quản lý xã hội theo pháp luật. Tăng cường cán bộ có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm, có bản lĩnh nghề nghiệp phù hợp với xu thế đổi mới, kết hợp với việc đào tạo cán bộ thay thế đảm bảo pháp chế XHCN được thực hiện một cách nghiêm túc, chính xác và từng bước tạo được nề nếp trong quy trình thực hiện pháp luật.

Công tác điều tra  nhanh gọn, đảm bảo cho mọi vi phạm pháp luật đều được xử lý, công tác tố tụng đúng người đúng tội đúng pháp luật, công tác xét xử kịp thời và những bản án có hiệu lực phải bảo đảm được thi hành. Tăng cường công tác thanh tra Nhà nước, góp phần ngăn chặn kịp thời các hoạt động dẫn đến vi phạm pháp luật, tăng cường giáo dục pháp luật trong nhân dân bằng nhiều hình thức, đặc biệt là phát huy hệ thống các đoàn thể quần chúng, phát động phong trào sống và làm việc theo pháp luật. Tập trung sức chuyển hoá cho được số địa bàn trọng điểm.

IV. VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG CHÍNH QUYỀN

       ĐOÀN  THỂ:

1. Đổi mới sự lãnh đạo của  Đảng bộ:

Công tác tư tưởng cần tập trung vào việc tiếp tục đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức lý luận cho cán bộ đảng viên về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước mắt cần quán triệt các nội dung cơ bản của nghị quyết đại hội VII như sau:

- Kiên trì con đường XHCN là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta.

- Tiếp tục khẳng định tính đúng đắn trong chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

- Khẳng định thực chất của đổi mới hệ thống chính trị chính là xây dựng nền dân chủ XHCN có sự lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

- Khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.

Đồng thời với việc quán triệt các quan điển trên, cần phải tích cực chống tư tưởng sùng bái một chiều chủ nghĩa tư bản, tư tưởng muốn quay trở lại chế độ cũ, thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà dân, khuynh hướng phủ nhận hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Không chấp nhận tư tưởng đa nguyên, đa đảng.

Thông qua đó mà giúp cho cán bộ đảng viên củng cố và nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong, tính chiến đấu, năng lực lãnh đạo và nhiệt tình cách mạng, toàn tâm toàn ý phục vụ con người, vì hạnh phúc của con người, vững vàng vượt qua mọi thử thách, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trên, phải cải tiến mạnh mẽ nội dung và phương pháp tư tưởng. Nội dung phải hết sức thiết thực gắn với thực tiễn cuộc sống. Phương pháp công tác cần thực sự dân chủ nhằm nghe được mọi luồng tư tưởng giúp cho việc định hướng, đấu tranh tư tưởng được đúng đắn, có hiệu quả, qua đó mà hình thành sự thống nhất tư tưởng từ trong Đảng đến quần chúng nhân dân.

Tiếp tục cải tiến chất lượng thông tin, thời sự, hội thảo chuyên đề. Bồi dưỡng, nâng chất các lực lượng làm nhiệm vụ giáo dục, thông tin như trung tâm giáo dục chính trị, các nhà văn hoá, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đủ sức đảm đương nhiệm vụ: Đặc biệt coi trọng chất lượng sinh hoạt hàng tháng của chi bộ cơ sở để mọi đảng viên đều nắm được các thông tin nội bộ, tình hình kinh tế xã hội-an ninh trật tự trên địa bàn quận, tâm trạng của đảng viên, kịp thời phát hiện những lệch lạc trong tư tưởng trong tổ chức thực hiện để đấu tranh thông qua phê bình và tự phê bình. Chú trọng phát huy vai trò tích cực của các đồng chí đã nghỉ hưu trong công tác tư tưởng cũng như các mặt công tác khác. Kịp thời bồi dưỡng bổ sung chương trình bí thư cho các đồng chí đảng ủy viên, chi ủy viên mới trúng cử nhiệm kỳ này.

Trọng tâm của công tác tổ chức, là mở một cuộc vận động “chỉnh đốn Đảng theo di chúc Bác Hồ”. Nhằm củng cố, nâng cao một bước chất lượng của tổ chức cơ sở đảng về cả chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước mắt tập trung củng cố cơ sở phường, các đơn vị sản xuất kinh doanh và các đơn vị yếu kém. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên đã thoái hoá biến chất, bỏ sinh hoạt đảng, không còn đủ tư cách, gây thiệt hại cho đảng và nhân dân. Uốn nắn những lệch lạc trong lối sống của đảng viên, giúp cho mỗi đảng viên phải có ý thức sống tiết kiệm phù hợp với hoàn cảnh kinh tế chung của đất nước, có trách nhiệm đối với quần chúng xung quanh, ủng hộ hoạt động của các tổ chức đoàn thể và mặt trận.

Cơ sở phường phải thực hiện đúng nội dung thông báo 246 của Ban Thường vụ Thành ủy nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng bộ theo hướng phường quản lý hành chính về các mặt: kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và đời sống… ở các phường có quá đông đảng viên cần tổ chức chi bộ theo địa bàn tổ dân phố (chi bộ không quá 30 người), giúp cho sinh hoạt chi bộ được thuận lợi, dễ quản lý và kiểm tra đảng viên, phân công nhiệm vụ rõ ràng.

Trong năm 1992 phải xoá được phường yếu kém. Củng cố chi bộ đường phố vững mạnh. Mọi đảng viên kể cả các đồng chí nghỉ hưu phải gắn với quần chúng, xây dựng cốt cán, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội trên địa bàn phường thông qua đó mà phát triển đảng viên mới.

Công tác cán bộ phải giải quyết nhu cầu cấp bách cần có nhiều cán bộ chính trị, cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh giỏi… nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới. Từ nguồn cán bộ chính trị đông đảo, tuyển chọn các đồng chí vững vàng đào tạo trở thành cán bộ quản lý Nhà nước biết toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân hoặc trở thành những cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh vừa biết thâm nhập nền kinh tế thị trường, vừa vững vàng về phẩm chất đạo đức, góp phần đưa khu vực quốc doanh trở thành chỗ dựa của đảng bộ và chính quyền.

Trước mắt rà soát lại đội ngũ cán bộ chủ chốt theo trình tự chặt chẽ, khoa học. Dựa vào nội dung tiêu chuẩn hoá từng loại cán bộ, dựa vào phương pháp dân chủ và công khai kết hợp với việc thực hiện nghị quyết 11 mà bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ hợp lý hơn, nhằm đạt hiệu quả công việc cao hơn, góp phần ổn định tương đối đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý nhà nước và sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các đồng chí tích luỹ được chuyên môn, nghiệp vụ. Rút kinh nghiệm bố trí cán bộ trong thời gian qua để hạn chế thấp nhất sự thiệt hại cán bộ và kinh tế-xã hội.

Thông qua việc rà soát, đánh giá lại cán bộ mà đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung một số cán bộ chủ chốt theo những nội dung thích hợp. Kết hợp với việc qui hoạch cán bộ, bảo đảm tính kế thừa, liên tục, chắc chắn và lâu dài.

Công tác phát triển Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng bộ. Chất lượng đảng viên mới là nguyên tắc hàng đầu của công tác phát triển đảng. Dựa vào các đoàn thể và mặt trận mà lựa chọn và kết nạp những người ưu tú trong công nhân, nông dân. Mặt khác cần quan tâm phát triển Đảng trong quần chúng ưu tú gốc đạo, người Hoa và trí thức.

Tăng cường trách nhiệm lãnh đạo của Đảng ủy, chi ủy cơ sở đối với công tác kiểm tra. Ủy ban kiểm tra các cấp tham mưu thực hiện tốt 6 nội dung kiểm tra mà điều lệ Đảng đã quy định.

Chú trọng kiểm tra thường xuyên việc tổ chức thực hiện các nghị quyết do cấp ủy giao phó nhằm khắc phục kịp thời tình trạng có nhiều nghị quyết của cấp trên không được thực hiện đến nơi đến chốn. Đồng thời chú trọng kiểm tra phòng ngừa.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra của đảng bộ, phải hết sức coi trọng và nâng chất đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp.

Tất cả các nội dung và biện pháp xây dựng Đảng nêu trên cũng chính là nội dung và nhiệm vụ cơ bản của công tác bảo vệ Đảng làm cho mọi đảng viên, mọi tổ chức cơ sở Đảng đều vững mạnh trong sạch, thực sự là một khối đoàn kết, thống nhất trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đại hội VII, mọi đảng viên đều phải nâng cao ý thức bảo vệ Đảng trong tình hình hiện nay.

2. Đổi mới hoạt động của HĐND và UBND:

HĐND các cấp cần thực hiện đầy đủ vai trò của mình theo đúng luật tổ chức HĐND và UBND để thể hiện thật sự là cơ quan quyền lực Nhà nước tại địa phương. Các đại biểu HĐND nhất là các đại biểu là đảng viên phải  gương mẫu trong việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình ở các kỳ họp và trong việc tiếp xúc cử tri phù hợp quyền hạn đại biểu đã được quy định. Chú trọng tăng cường chất vấn, đối thoại với các cơ quan chính quyền, chất lượng thẩm định hoạt động của UBND, tạo không khí tranh luận, dân chủ sinh động trong các kỳ họp của HĐND nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của Hội đồng.

UBND chỉ đạo chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng, chú ý vùng ven để đưa đời sống vật chất và tinh thần của bà con nông thôn không cách biệt nhiều so với đô thị. Coi trọng công tác dự báo khoa học về kinh tế-xã hội-an ninh trật tự để chủ động điều chỉnh phương hướng phát triển, hạn chế thấp nhất những phát sinh xấu có thể xảy ra.

Tiếp tục thực hiện công cuộc vận động cải tiến thủ tục hành chính, giảm phiền hà dân trong phạm vi quyền hạn của các phòng ban tham mưu và của UBND, tạo phong cách làm việc văn minh, lịch sự, khoa học, đồng thời đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong các cơ quan chính quyền. Các quyết định về mặt chính quyền có liên quan đến đời sống lợi ích của quần chúng cần được quần chúng tham gia góp ý kiến theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm và kiểm tra”.

Các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Công an cần được tăng cường đội ngũ cán bộ đủ năng lực và phẩm chất, bảo đảm cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật được nghiêm minh.

Phối hợp với các lực lượng trên địa bàn để quản lý xã hội theo đúng quy tắc đô thị, kỷ cương, pháp luật, hạn chế tính tự phát trong xây dựng và kinh doanh. Đấu tranh đẩy lùi các hoạt động buôn lậu, phá hoại tài sản quốc gia.

3. Đổi mới công tác vận động quần chúng:

Công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị của toàn thể đảng viên. Phải tiếp tục khơi động trách nhiệm vận động quần chúng của mọi đảng viên hơn nữa nhằm đạt cho được mục tiêu xây dựng một đảng bộ có mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng.

Trước mắt, cần quán triệt nghị quyết 24 và nghị quyết 25 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo và công tác thanh niên trong toàn thể đảng viên. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng thông qua chế độ làm việc  định kỳ giữa cấp ủy với từng ban chấp hành đoàn thể, mặt trân, kiểm tra sự lãnh đạo của cấp ủy cơ sở của chi bộ đối với công tác này.

Chính quyền các cấp có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để đoàn thể-mặt trận thực hiện các kế hoạch chương trình xã hội được giao. Cùng với mặt trận và đoàn thể xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp hoạt động phù hợp với thực tế.

Mặt trận và các đoàn thể cần đổi mới hơn nữa về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động nhằm góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội của đảng bộ, thúc đẩy quá trình đổi mới, quá trình dân chủ hoá, công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, gắn chặt giữa quyền lợi và nghĩa vụ, qua đó hình thành khối đoàn kết liên minh công-nông-trí vững mạnh để vượt qua khủng hoảng và làm chuyển biến phong trào quần chúng trong những năm tới.

Đối mới về tổ chức theo hướng tinh gọn, chất lượng mở rộng lực lượng bán chuyên trách, lực lượng nghiệp dư, đội ngũ “mạnh thường quân” tự nguyện ủng hộ hoạt động của các đoàn thể. Cải tiến lề lối làm việc theo hướng giảm mạnh hành chính, tăng cường khả năng tổ chức phong trào. Khảo sát lại lực lượng cốt cán các loại một cách thực chất và có kế hoạch xây dựng, bồi dưỡng và phát triển, chú trọng cốt cán trong tôn giáo, người Hoa. Phát triển các tổ chức xã hội trên cơ sở tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí, có nòng cốt của mặt trận và đoàn thể hướng dẫn theo sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới nội dung vận động quần chúng theo hướng hết sức thiết thực gắn với lợi ích vật chất là tinh thần đa dạng của mỗi giới quần chúng. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động chăm lo đời sống quần chúng trên địa bàn dân cư, các hoạt động tương trợ ốm đau, mai táng, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, đỡ đầu các cháu học sinh giỏi, học sinh nghèo hiếu học…Đặc biệt chú trọng hơn nữa dạy nghề miễn phí, giảm phí cho thanh thiếu niên con em gia đình thương binh liệt sĩ, nghĩa vụ quân sự, các gia đình quá khó khăn và khám trị bệnh miễn phí cho người nghèo.

Phương thức hoạt động cần chuyển theo hướng tập trung cho cơ sở và khu vực, lấy hiệu quả chăm lo đời sống quần chúng làm thước đo cho hoạt động của mặt trận và đoàn thể. Ủy ban mặt trận các cấp phải là đầu mối tập hợp các hoạt động, các tổ chức từ thiện trên địa bàn quận và ở các phường để hướng dẫn, hoạt động này đúng nghĩa từ thiện và đạt hiệu quả cao.

Đại hội đại biểu đảng bộ quận Tân Bình lần thứ VI khẳng định sự trung thành của toàn đảng bộ và con đường đi lên CNXH và chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đổi mới đã thông qua trong đại hội VII.

Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, đảng bộ và nhân dân Tân Bình với truyền thống cách mạng và kinh nghiệm trưởng thành trong những năm qua, quyết          tâm phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, cùng với cả nước và thành phố sớm ra khỏi khủng hoảng, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới giành được nhiều thành tựu to lớn.

Đại hội kêu gọi toàn đảng bộ và nhân dân quận Tân Bình quyết tâm thực hiện các quan điểm đổi mới của Đảng và đưa nghị quyết của đại hội vào cuộc sống, đưa sự nghiệp cách mạng của đảng bộ        và nhân dân Tân Bình tiếp tục tiến lên.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ

QUẬN TÂN BÌNH LẦN THỨ VI

BÁO CÁO KIỂM ĐIỂM

CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN TÂN BÌNH

NHIỆM KỲ V

Ban chấp hành đảng bộ nhiệm kỳ V dược Đại hội bầu ra gồm 38 đ/c, trong đó có 37 đ/c Ủy viên chính thức và 1 đ/c Ủy viên dự khuyết, Ban chấp hành đã bầu ra Ban Thường vụ gồm 11 đ/c. Trong nhiệm kỳ có 2 đ/c Uûy viên chính thức bị thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng. Có 2đ/c được bổ sung vào Ban chấp hành (trong đó có 1đ/c được bổ sung vào Ban Thường vụ Quận ủy). Ban chấp hành cuối nhiệm kỳ còn 38 đồng chí và Ban Thường vụ còn 11 đ/c (01đ/c đã nghỉ hưu).

Hơn 2 năm qua, Ban chấp hành đảng bộ nhiệm kỳ V đã có nhiều cố gắng lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ quận lần thứ V theo các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, thứ VII, các nghị quyết tiếp theo của Ban chấp hành Trung ương, của Bộ chính trị và của Thành ủy. Trong báo cáo tình hình và nhiệm vụ của Ban chấp hành Đảng bộ trước đại hội đã nêu những mặt làm được, chưa làm được, thực trạng tình hình hiện nay, trong đó có liên quan đến trách nhiệm của Ban chấp hành đảng bộ. Với tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc, Ban chấp hành Đảng bộ xin kiểm điểm trước Đại hội về việc thực hiện nhiệm vụ của mình trong nhiệm kỳ V trên các mặt: phẩm chất, năng lực, trách nhiệm và phong cách lãnh đạo như sau:

I. VỀ PHẨM CHẤT CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ NK V :

Về phẩm chất chính trị :

Ưu điểm của Ban chấp hành là nhất trí cao với đường lối, chủ trương của Đảng, nhất là đối với các quan điểm đổi mới của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, thứ VII, đã có thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới và có quyết tâm biến các quan điểm đó vào cuộc sống. Tuy có băn khoăn lo lắng trước những biến động của chủ nghĩa xã hội và Đảng cộng sản ở Liên Xô, Đông âu, nhưng Ban chấp hành vẫn giữ vững được lòng tin vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo toàn diện. Giữ vững được ý chí chiến đấu, nhiệt tình cách mạng, tích cực đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hội.

Khuyết điểm của Ban chấp hành là từng thành viên trình độ còn có mức độ khác nhau nên trong vận dụng chỉ đạo đơn vị mình chưa đồng đều, chưa tập trung đào sâu suy nghĩ để nắm bắt và vận dụng các quan điểm mới được kịp thời, sâu sắc và có hệ thống.

Về phẩm chất đạo đức:

Đa số Ủy viên Ban chấp hành đảng bộ có ý thức tự rèn luyện về đạo đức, giữ gìn được phẩm chất của người đảng viên cộng sản, người cán bộ và của một Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ. Nhiều đồng chí có ý thức học hỏi về văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn và lý luận chính trị nhằm làm phong phú thêm tri thức của mình. Hầu hết các đồng chí Uûy viên Ban chấp hành đều giữ vững được nếp sống trong sạch, lành mạnh. Tập thể đoàn kết có đấu tranh, giữ vững được nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

Khuyết điểm là trong nhiệm kỳ có 2 đ/c Ủy viên chính thức do thiếu tinh thần trách nhiệm nên để đơn vị làm ăn lỗ lã gây hậu quả nghiêm trọng, phải thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng. Tinh thần đấu tranh tự phê bình, phê bình của Ban chấp hành đảng bộ có lúc, có sự việc còn biểu hiện e dè nể nang. Một số đ/c chưa phát huy vai trò cá nhân trong việc xây dựng và thực hiện nghị quyết của Ban chấp hành.

II. VỀ NĂNG LỰC VÀ TRÁCH NHIỆM LÃNH ĐẠO CỦA BAN

     CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ NHIỆM KỲ V:

1. Về năng lực lãnh đạo kinh tế:

Trong điều kiện sản xuất kinh doanh từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường do không được chuẩn bị trước nên gặp phải những khó khăn to lớn, hầu hết các đơn vị đều thiếu vốn phải vay từ nhiều nguồn với lãi suất cao, máy móc trang thiết bị lạc hậu, bộ máy tổ chức cồng kềnh, sản phẩm không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ rất chậm.v.v.. thêm vào đó trong năm 1989 có những biến động lớn như thay đổi lãi suất mới và thu hồi vốn vay của Ngân hàng đã làm cho tình hình sản xuất kinh doanh vốn đã gặp khó khăn lại càng khó khăn thêm. Đứng trước thực trạng đó, Quận ủy và Ban Thường vụ Quận ủy đã nỗ lực tháo gỡ một số vướng mắc về vốn, thuế, điện…tiến hành thanh tra, kiểm tra một số đơn vị để sắp xếp tổ chức lại cho phù hợp với yêu cầu mới, phát huy tính tự chủ của cơ sở, khuyến khích việc quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài quán triệt trong đảng bộ quan điểm sản xuất hàng hoá, mở rộng các thành phần kinh tế, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đề ra chương trình sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, tăng cường nhân sự cho một số đơn vị.v.v… Nhìn chung, việc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá với cơ cấu nhiều thành phần, tình hình sản xuất kinh doanh diễn ra khá sinh động, phù hợp với bước đi và phát triển kinh tế của quận, các sản phẩm đã được cải tiến về mẫu mã và chất lượng. Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được nhân dân đồng tình hưởng ứng, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển khá nhanh cả về số lượng lẫn quy mô, thể hiện mức đầu tư tăng cao đã góp phần chủ yếu thực hiện chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng và giải quyết việc làm cho người lao động. Tất cả những mặt làm được trên thể hiện sự năng động của Ban chấp hành đảng bộ về việc nắm bắt và vận dụng các quan điểm chủ trương mới của Đảng về kinh tế nhất là đối với việc xác định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần về chủ trương mở cửa đối với nước ngoài… Khuyết điểm trong chỉ đạo kinh tế là Ban chấp hành đảng bộ chưa nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện yêu cầu phát triển kinh tế trước mắt và lâu dài để có những quyết định cần thiết và có hiệu lực để nền kinh tế của quận nắm bắt và thích nghi với tình hình chung. Nhiều đơn vị làm ăn lổ lã nhưng chưa phát hiện và xử lý kịp thời, do đó đã để lại hậu quả nghiêm trọng, một số đơn vị sản xuất kinh doanh bị chiếm dụng vốn, 02 HTX tín dụng bị vỡ nợ đã tạo tâm lý không tốt trong nhân dân.

1. Về năng lực lãnh đạo xã hội:

Ban chấp hành đảng bộ đã nhận thức rõ ràng vấn đề xã hội là một vấn đề lớn hiện nay phải tập trung giải quyết. Đã cố gắng để lãnh đạo giải quyết các vấn đề xã hội như giải quyết việc làm cho người lao động, chăm lo đời sống các đối tượng chính sách, lực lượng vũ trang, giáo viên, gia đình lao động nghèo. Tập trung nhiều sức để giải quyết vấn đề giáo dục, điện, nước, công trình công cộng, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, từng bước nâng mức hưởng thụ văn hoá của quần chúng. Ưu điểm của Ban chấp hành là đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác xã hội, xem lĩnh vực xã hội ngang tầm với lĩnh vực kinh tế đã biết phát huy sức mạnh của dân và thế mạnh trên địa bàn quận trong việc giải quyết các vấn xã hội.

Tuy vậy do tình hình khó khăn chung nên việc giải quyết các chế độ chính sách cho cán bộ hưu trí và các gia đình chính sách nhiều lúc chưa kịp thời, công tác giải quyết việc làm hạn chế, đời sống CBCNV, nhân dân lao động nghèo có nhiều khó khăn gay gắt, việc giải quyết tình trạng điện sinh hoạt, cấp nước và thoát nước, sữa chữa đường sá, nhà ở chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân. Đặc biệt là tình trạng tệ nạn xã hội, cà phê video, chiếu phim ngoài luồng, đèn mờ phát triển tràn lan, công tác quản lý chưa chặt chẽ, đã có tác động xấu trong đời sống xã hội, nhất là đối với thanh thiếu niên.

3. Về năng lực lãnh đạo công tác nội chính:

Ban chấp hàng đảng bộ đã có cố gắng lãnh đạo công tác nội chính bằng việc phối hợp chặt chẽ giữa các ngành nội chính bằng tuyên truyền, giáo dụ pháp luật và bằng các biện pháp xây dựng lực lượng ngành nội chính. Nhìn chung trong bối cảnh tình hình kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận cơ bản đã giữ vững được. Quận ủy đã quan tâm chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh quốc gia, chỉ  đạo kế hoạch phòng thủ, phương án chống bạo loạn, kiên quyết tấn công tội phạm, phát động quần chúng tham gia thực hiện 4 cuộc vận động đạt kết quả khá tốt.

Khuyết điểm của Ban chấp hành là chỉ đạo công tác giáo dục pháp luật chưa toàn diện nên quần chúng nhân dân chấp hành pháp luật chưa nghiêm, các biện pháp xử lý thiếu kiên quyết. Công tác phòng ngừa và tấn công tội phạm còn có lúc thiếu chủ động, thiếu đầu tư các phương tiện cần thiết cho các ngành nội chính, việc phối hợp để giải quyết một số vụ án chưa đồng bộ. Do chế độ chính sách chưa phù hợp nên đời sống CBCNV ngành nội chính còn nhiều khó khăn.

4. Về năng lực lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, chính quyền:

Ban chấp hành đảng bộ đã biết kế thừa các kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng và biết vận dụng các quan điểm đổi mới để chỉ đạo công tác xây Đảng, đã triển khai nhiều cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn đảng bộ như Thông báo 172 của Bộ chính trị, các nghị quyết 6, 7, 8, của Ban chấp hành Trung ương khoá 6, kết luận của Bộ chính trị về công tác tư tưởng, quán triệt các văn kiện đại hội VII… nhờ đó trong nhiệm kỳ qua về chính trị tư tưởng đã tạo được sự nhất trí trong đảng bộ mặc dù tình hình trên thế giới có nhiều diễn biến xấu.

Hầu hết cán bộ, đảng viên từ đảng viên đã nghỉ hưu hay đương chức vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu hoàn thành các công việc được giao, góp phần giữ vững sự ổn định về chính trị và phát triển kinh tế của quận.

Trong công tác tổ chức đã mạnh dạn tinh giản biên chế, giảm bớt đầu mối trung gian, chú trong xây dựng loại hình cơ sở phường và đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong công tác cán bộ đã mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ có phẩm chất, năng lực vào các vị trí chủ chốt nhất là trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh. Trong lãnh đạo chính quyền đã chú trọng đến việc lãnh đạo bằng nghị quyết, bằng bố trí cán bộ, bằng kiểm tra việc thực hiện và tạo điều kiện phát huy vai trò quản lý của Nhà nước.

Khuyết điểm của Ban chấp hành đảng bộ, của Ban Thường vụ Quận ủy trong lãnh đạo công tác xây dựng Đảng và chính quyền là:

- Trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chỉ mới thực hiện việc truyền đạt quan điểm đổi mới, việc tổ chức thảo luận, tranh luận để làm rõ các quan điểm mới chưa được duy trì có chất lượng. Công tác thông tin thiếu kịp thời và thiếu định hướng dư luận, còn bị động chờ đợi cấp trên.

- Trong công tác cán bộ tuy đã có quy hoạch ở cơ sở và quận đã tham khảo một bước nhưng việc bố trí vẫn còn lúng túng, không theo đúng quy hoạch vì thời gian đào tạo bồi dưỡng chưa kịp, khả năng đáp ứng yêu cầu của cán bộ còn hạn chế.

- Số cán bộ vi phạm kỷ luật còn khá nhiều (trong nhiệm kỳ đã cách chức 08 giám đốc, phó giám đốc, kỷ luật 25 trưởng, phó ban ngành, bí thư, chủ tịch phường). Nhiều vụ tiêu cực đã có thanh tra, kiểm tra nhưng xử lý chưa dứt điểm và chưa kịp thời, làm ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Nguyên nhân có tình trạng trên là do trong tư tưởng chỉ đạo đã chưa xem trọng các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chống tiêu cực chưa đồng bộ, công tác quản lý đảng viên còn lỏng lẻo, công tác kiểm tra chưa chặt chẽ.

5. Về năng lực lãnh đạo quần chúng và các đoàn thể quần chúng:

Ưu điểm của Ban chấp hành đảng bộ là biết tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục động viên quần chúng thực hiện các phong trào hành động cách mạng, thường xuyên quan tâm chỉ đạo củng cố nhân sự Ban chấp hành các đoàn thể, đã triển khai sâu rộng và có chương trình hành động nhằm thực hiện NQ.8 của Ban chấp hành Trung ương (Khoá VI). Trong nhiệm kỳ qua, nhiều cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng thảo luận đóng góp vào các dự thảo pháp luật, các văn kiện dự thảo của Đại hội VII, đóng góp cho cán bộ đảng viên, đã góp phần tích cực cho công tác xây dựng Đảng. Các tổ chức ở phường như dân quân tự vệ, dân phòng, các đoàn thể thường xuyên được củng cố. Trong nhận thức cũng như trong việc làm của Ban chấp hành đảng bộ và UBND quận luôn thể hiện sự tôn trọng vai trò và nguyện vọng của các tổ chức quần chúng. Những mặt làm được trong nhiệm kỳ qua, Ban chấp hành cho rằng đó chính là công sức của đông đảo quần chúng và của các tổ chức quần chúng đã giác ngộ cách mạng tham gia xây dựng quê hương ngày càng đổi mới.

Khuyết điểm của Ban chấp hành là chưa chỉ ra được phương thức đổi mới nội dung và các hoạt động của các tổ chức quần chúng nên hiện nay các tổ chức quần chúng hoạt động còn cầm chừng, chưa quy tụ được đông đảo quần chúng vào tổ chức theo từng giới, từng ngành. Chính sách cụ thể đối với cán bộ làm công tác đoàn thể chưa rõ nên cán bộ trực tiếp làm công tác quần chúng biểu hiện thiếu an tâm. Những khuyết điểm trên cộng với nguyên nhân do tình hình kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, dẫn đến hệ quả là phong trào quần chúng chưa đều, chưa rộng, các tổ chức quần chúng ở cơ sở (nhất là ở phường) hoạt động yếu kém.

6. Về kiến thức và năng lực tiếp thu và cụ thể hoá nghị quyết, tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao của Ban chấp hành đảng bộ và Uûy viên Ban chấp hành đảng bộ.

Căn cứ vào nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ quận lần thứ V và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, thành phố, Ban chấp hành đảng bộ. Ban thường vụ Quận ủy đã có bước định hướng các chương trình kinh tế xã hội, xây dựng một số nghị quyết chuyên đề đánh giá đúng tình hình, xác định hướng tới với tư tưởng củng cố phát triển đảm bảo hiệu quả kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế trên nhiều lĩnh vực, hình thành mạng lưới sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch phong phú. Trong các chương trình công tác năm, 6 tháng, quý, tháng. Ban chấp hành và Ban Thường vụ đã có nhiều cố gắng để thực hiện việc vận dụng và đưa các quan điểm đổi mới của Đảng vào cuộc sống.

Khuyết điểm của Ban chấp hành và Ban Thường vụ Quận ủy là thiếu thường xuyên kiểm tra, sơ kết, tổng kết, chưa tập trung đầu tư đúng mức để đi sâu chỉ đạo các vấn đề trọng điểm, còn mang tính dàn đều, sự vụ. Từ những khuyết điểm trên nên nhiều chương trình, nghị quyết của Ban chấp hành, Ban Thường vụ Quận ủy chưa được thực hiện nghiêm túc và đã giảm hiệu quả lãnh đạo của Ban chấp hành, Ban Thường vụ Quận ủy bằng nghị quyết.

III. VỀ PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG

       BỘ NHIỆM KỲ V:

Ưu điểm của Ban chấp hành đảng bộ nhiệm kỳ V là đã biết kế thừa phát triển sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Ban chấp hành, Ban Thường vụ Quận ủy, giữa Ban Thường vụ Quận ủy và UBND quận. Ngay sau khi đại hội, đã xây dựng quy chế làm việc của Ban chấp hành, phân công từng đ/c Uûy viên theo dõi cơ sở, trong phong cách làm việc cụ thể, Ban chấp hành đã tạo được uy tín trong quần chúng và toàn đảng bộ. Tuỳ theo những nhiệm vụ trọng tâm trong từng thời điểm, Ban Thường vụ Quận ủy giao trách nhiệm cho từng ủy viên Thường vụ trực tiếp chỉ đạo cụ thể.

Khuyết điểm của Ban chấp hành kể cả các đồng chí lãnh đạo chủ chốt là thiếu tính đòi hỏi đối với mình và đối với cấp dưới, chưa mạnh dạn giao việc và đòi hỏi trách nhiệm cá nhân, chưa thực hiện nghiêm túc quy chế của Ban chấp hành (chế độ đi cơ sở, chế độ kiểm tra việc thực hiện các quyết định). Hoạt động của Ban chấp hành chưa phát huy đầy đủ trí tuệ và năng lực của tập thể. Trong hoạt động hàng ngày Ban Thường vụ Quận ủy có lúc còn nặng về sự vụ.

Trong bối cảnh có nhiều khó khăn phức tạp của cuộc đấu tranh giữa quan điểm cũ và mới, Ban chấp hành đảng bộ nhiệm kỳ V đã có nhiều nỗ lực tự rèn luyện và phấn đấu thực hiện nhiệm vụ của mình. Song đều nổi lên là Ban chấp hành đảng bộ tự thấy mình còn nhiều hạn chế, chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao.

Qua hoạt động suốt nhiệm kỳ, Ban chấp hành đảng bộ rút ra một số nguyên nhân và bài học kinh nghiệm sau đây:

1. Với cương vị lãnh đạo toàn diện Ban chấp hành đảng bộ phải thật sự quán triệt và thống nhất các quan điểm đổi mới trên các mặt, phải đấu tranh để các quan điểm đổi mới trở thành các quan điểm chính thống, định hướng suy nghĩ về mọi hành động của Ban chấp hành.

2. Phải xây dựng Ban chấp hành đảng bộ thực sự có năng lực và phẩm chất để trở thành một tổ chức năng động nhạy bén trong tổ chức thực hiện. Các đ/c Quận ủy viên lại càng phải rèn luyện nhiều về phẩm chất, năng lực lãnh đạo, trình độ quản lý phải đáp ứng được nhiệm vụ, có như thế mới tạo được niềm tin, mới quy tụ được đảng viên và quần chúng, mới hoàn thành trọng trách đã giao phó. Ban chấp hành không cần đông mà quan trọng là chất lượng. Ban chấp hành phải bao gồm những đ/c thật sự có năng lực, am hiểu về công tác Đảng và công tác chuyên môn do mình phụ trách.

3. Phải xây dựng Ban Thường vụ Quận ủy thực sự có phẩm chất và năng lực để giúp Ban chấp hành đảng bộ lãnh đạo toàn diện và điều hành có hiệu quả việc thực hiện nghị quyết của Ban chấp hành, kiên quyết tránh tình trạng cấu tạo vào Ban Thường vụ Quận ủy nặng về cơ cấu mà xem nhẹ về tiêu chuẩn, về năng lực lãnh đạo toàn diện.

Ban Thường vụ Quận ủy phải đầu tư nhiều hơn nữa vào công tác xây dựng Đảng, trong đó đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra việc tổ chức thực hiện nghị quyết của chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng. Những vấn đề đã đưa ra Ban Thường vụ Quận ủy thảo luận phải được quyết định theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Công tác cán bộ thời gian qua đã góp phần đổi mới nhưng vẫn chưa theo kịp sự phát triển của tình hình, chưa thực sự “lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực, lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ để bố trí cán bộ”. Công cuộc đổi mới là việc sàng lọc và đổi mới cán bộ. Ban chấp hành đề nghị đại hội nghiên cứu, cân nhắc, sáng suốt lực chọn một Ban chấp hành mới có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong nhiệm kỳ tới.

Trước đại hội, Ban chấp hành đảng bộ xin nghiêm túc kiểm điểm và nhận trách nhiệm chủ yếu về phần lãnh đạo, điều hành của mình. Xin chân thành cám ơn toàn thể các đ/c, các ngành các cấp trong thời gian qua đã giúp cho Ban chấp hành thực hiện nhiệm vụ của mình và đã đóng góp nhiều cho việc chuẩn bị nội dung và nhân sự đại hội này.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ

QUẬN TÂN BÌNH NHIỆM KỲ V

Thông báo