Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ quận 8 lần thứ I

Tình hình 2 năm 1975 – 1976, phương hướng nhiệm vụ 2 năm 1977 – 1978 của Đảng bộ Quận 8

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH 2 NĂM 1975 – 1976 CỦA QUẬN 8

I. VỊ TRÍ – KHẢ NĂNG – ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:

Quận 8 là một quận nội thành tiếp giáp vùng ven, có nhiều sông rạch chia cắt, gây bất tiện cho việc đi lại. Chiều dài khoảng 16 km, chiều ngang khoảng 2 km. Dân số khoảng 207.000 người, mật độ khoảng 6.468 người/km; tập trung đông đúc ở các khu sình lầy tại các phường từ phường 10 đến phường 18.

Có hơn 85.000 tín đồ các tôn giáo, đặc biệt có 19.570 giáo dân theo đạo thiên chúa, tập trung nhiều nhất ở phường 9, đa số trong số này là người \bắc di cư năm 1954, họ bị ảnh hưởng rất lớn về đạo giáo và phức tạp về chính trị. Ngoài ra, có hơn 26.000 người Hoa, tập trung đông nhất ở các phường 14, 15, 16, đa số là tiểu thương và tư sản, có một số là tay chân của bọn đặc vụ Tưởng đã hoạt động thường xuyên trong khu vực này làm cho tình hình người Hoa thêm phần phức tạp.

Quận 8 có nhiều cơ sở công nghiệp, kho tàng, 2 bến cảng lớn (cảng Bình Đông và Cảng cá Chánh Hưng); là trục giao thông thủy bộ từ các tỉnh vào thành phố, từ miền Tây sang miền Đông Nam bộ với nhiều phương tiện giao thông vận tải. Đồng thời là quận có 80% công nhân và nhân dân lao động, có tay nghề, có nhiều cơ sở vật chất tiểu thủ công, sản xuất ra nhiều mặt hàng phong phú, nhiều màu sắc, mang tính chất dân tộc và nguyên vật liệu trong nước; phục vụ một phần cho nhu cầu địa phương, thành phố, cho cả nước và xuất khẩu. Từ đó mở ra một tiềm năng và lợi thế rất lớn của nền kinh tế quận 8. Mặt khác, sản xuất tiểu thủ công ở đây có tính chất vừa là người sản xuất vừa là người bán buôn gắn với tiểu thương bên ngoài.

Trong quận còn có nền sản xuất nông nghiệp (chăn nuôi và trồng trọt). Có khoảng 1.000 ha đất canh tác và nhiều cơ sở chăn nuôi heo gà công nghiệp có kỹ thuật, mở ra một khả năng sản xuất lương thực thực phẩm tự cung cấp cho một phần nhân dân địa phương.

Ngoài ra, trong quận còn có một thành phần tiểu thương khá đông đảo với 3.165 hộ, phần đông là người Hoa, tập trung nhiều nhất ở phường 15 (757 hộ) và phường 2 (418 hộ).

II. NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

1- Về an ninh chính trị, trật tự xã hội, thiết lập và xây dựng chính quyền cách mạng:

Sau ngày giải phóng, ta vừa cương quyết trấn áp bọn phản cách mạng và thực hiện chính sách nhân đạo của Đảng đối với những người biết ăn năn hối cải, cải tạo tốt. Bằng phong trào cách mạng của quần chúng, tham gia rộng rãi, ta đã tổ chức học tập cải tạo tại chỗ và tập trung 19.425 binh lính sĩ quan và các tổ chức chính trị phản động, đã xét khôi phục quyền công dân 95%. Đồng thời ta đã truy quét bắt 334 bọn sĩ quan, binh lính, gián điệp, trốn tránh trình diện và phá hoại hiện hành. Đặc biệt tổ chức phản động đội lốt tôn giáo (nhóm Hoàng Quỳnh, Bình An). Trong đăng ký quản lý hộ khẩu, có 336 người ra đầu thú và phát hiện quản chế 70 tên khác. Ngoài ra còn tổ chức học tập cải tạo tập trung, tại chỗ cho 485 tệ nạn xã hội, xì ke, gái điếm, cướp giật, cờ bạc, bụi đời. Đồng thời giải quyết khoản 100 người quá già yếu, tàn tật ăn xin vào các nhà an dưỡng.

- Phát động quần chúng và biệt phái cán bộ cho thành phố đánh tư sản mại bản, tư sản gian thương phá rối thị trường. Quận ta trực tiếp đánh 3 tên tư sản gian thương móc ngoặc cán bộ và xóa 85 địa chỉ phong kiến, giành lại 644 ha cho 89 hộ nông dân nghèo, trong đó có 16 gia đình liệt sĩ, 4 gia đình thương binh, 10 gia đình cách mạng, 59 gia đình cố bần nông, quần chúng rất phấn khởi.

- Song song các công việc trước mắt phải làm, ta đã thành lập ngay chính quyền cách mạng phát huy quyền làm chủ tập thể của tập thể nhân dân lao động từ quận đến cơ sở phường. Chính quyền ngày được củng cố trong sạch, đã loại ra 165 người phức tạp về chính trị, lợi dụng sơ hở bước đầu chui vào chính quyền cơ sở và các tổ chức cách mạng; đồng thời bước đầu phát huy hiệu lực và quản lý trên các mặt. Chính quyền ngày càng gắn với quần chúng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên các lãnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, gây được niềm phấn khởi và tin tưởng của quần chúng ngày càng vững chắc hơn. Các lực lượng võ trang công an được củng cố và phát triển có tác dụng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội.

- Tuy nhiên các tổ chức phản động và phản ứng của giai cấp bóc lột cũng còn hoạt động trên các hình thức lẻ tẻ, nhất là ở các khu vực tôn giáo, người Hoa, ta cần phải nâng cao cảnh giác. Đồng thời chính quyền của ta còn nhiều mặt yếu từ quận đến phường nhất là về trình độ quản lý kinh tế, đời sống, văn hóa xã hội còn rời rạc lỏng lẻo, sơ hở, có nơi có lúc còn nhiều biểu hiện mệnh lệnh độc đoán, thủ tục giấy tờ phiền phức và chưa gắn chặt quần chúng, thông hiểu hết quần chúng.

2- Về kinh tế và đời sống:

Tình hình ngày đầu mới giải phóng, nạn đói và thất nghiệp nặng nề, ta đã tập trung cứu đói lúc đầu, tính đến nay đã cứu đói 55.289 hộ trên 1.771.055 kg gạo. Sau đó tổ chức màng lưới phân phối gạo tận tay quần chúng lao động; đồng thời khôi phục và phát triển một bước sản xuất về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp. Đã khôi phục sản xuất 2.548 cơ sở công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó 140 cơ sở công nghiệp tư nhân, 30 cơ sở quốc doanh có 3 cơ sở quận quản lý, còn lại do cấp trên quản lý, 6.555 công nhân tại chỗ tiếp tục sản xuất và 2.328 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, trong đó có 61 tổ sản xuất tập thể; giải quyết 8.848 công nhân lao động có việc làm trong các tổ hợp và cá thể để sản xuất phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, ký hợp đồng với nhà nước 120 cơ sở; sản lượng đạt được của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp do quận quản lý từ tháng 8/1975 đến cuối năm 1976 là 19.827.484 đồng, riêng năm 1976 là 14.915.194 đồng.

Về nông nghiệp đã khai hoang 23 ha đưa diện tích gieo trồng năm 1976 là 995 ha. Các vùng chuyên canh lúa 890 ha. Diện tích rau màu là 105 ha. Kết qủa sản lượng 1976 là 2.025 tấn lúa, bình quân 2,5 tấn/ha; 6.950 tấn rau; 7.500 con heo; 20.000 con gà.

Đi đôi với khôi phục và phát triển sản xuất, ta tiến hành tổ chức lưu thông phân phối hàng hóa, nhất là các mặt hàng chủ yếu phục vụ cho 2 bữa ăn quần chúng. Đã tổ chức 9 cửa hàng quốc doanh, 22 hợp tác xã tiêu thụ ở 22 phường với 72 quầy hàng bán lẻ của hợp tác xã, tổ chức 55 tiểu thương ở chợ (nhưng chưa quản lý chặt chẽ) đã tiết kiệm cho nhân dân lao động 13.744.205 đồng, bình quân 1 hộ tiết kiệm được khoảng 19 đồng/tháng. Hoạt động thương nghiệp xã hội chủ chủ nghĩa đã góp phần chi phối thị trường.

Thực hiện phân bố lại lực lượng lao động, trong 2 năm qua ta đã tổ chức vận động đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới, hồi hương, giãn dân gồm có 66.678 người (hồi hương: 44.613 người, kinh tế mới: 18.979 người, giãn dân: 3.086 người). Ngoài ra có 2.107 thanh niên xung phong, động viên 655 thanh niên (có 11 nữ ) đi nghĩa vụ quân sự (1976).

Nhìn chung 2 năm qua, tình hình kinh tế đời sống vô cùng khó khăn nhưng ta không để một người nào chết vì đói, đã ổn định một bước về đời sống vật chất cho quần chúng, nhất là 2 bữa ăn hàng ngày và giữ bình thường hệ thống giao thông, điện nước, phân bố một phần lực lượng lao động, giải quyết cho quần chúng có công ăn việc làm và bước đầu tổ chức lại quan hệ sản xuất với hình thức thấp tiểu thủ công và nông dân đi vào làm ăn tập thể. Đặc biệt, tổ chức thương nghiệp xã hội chủ nghĩa trên đây là những nhân tố mới, tuy ở bước đầu còn nhỏ và ít nhưng đó là nhân tố mới trên đà phát triển đi lên. Tuy nhiên, đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn, trong khâu quản lý kinh tế đời sống còn nhiều sơ hở, thiếu sót, ta cần phải ra sức khắc phục trong thời gian sắp tới.

3- Về tư tưởng, văn hóa:

Với nhiều nội dung, bằng nhiều hình thức tuyên truyền phát động, kết hợp nhiều mặt tác động tạo thành sức mạnh, 2 năm qua ta đã tuyên truyền giáo dục quần chúng, đã tạo nên một sự chuyển biến quan trọng rõ rệt về nhận thức tư tưởng và hành động cách mạng trong các tầng lớp nhân dân. Quần chúng đã hiểu được sự khác nhau về bản chất của 2 chế độ, một bộ phận quần chúng đã hiểu được giá trị của lao động, ý thức làm chủ, ý thức tập thể, ý thức tự lực và nếp sống mới. Bằng những hành động thực tiễn vừa qua, phong trào quần chúng đã tạo ra nhiều nhân tố mới, đã có hàng trăm tập thể và cá nhân tiên tiến xuất sắc, nhất là trong quần chúng công nhân lao động, nông dân và thanh thiếu niên.

Tuy nhiên, do khó khăn về đời sống hiện tại và những thiếu sót của ta trong công tác tư tưởng; các tầng lớp quần chúng, trên nhiều mức độ khác nhau, còn nhiều vấn đề tồn tại như: chưa thấy hết bản chất ưu việt của chế độ ta, chưa giác ngộ cao về chủ nghĩa xã hội, cụ thể còn một bộ phận quần chúng ngán ngại lao động, và ý thức làm chủ tập thể chưa cao. Trong khu vực tín đồ các tôn giáo và người Hoa, quần chúng còn nhiều tâm tư vướng mắc, lo lắng về chính sách của ta đối với họ.

Do chủ trương công lập hóa trường tư, đến nay có khoảng hơn 46.000 con em các tầng lớp nhân dân trong quận đến trường khỏi đóng học phí; ta đã tổ chức nhà trẻ cho con em cán bộ chiến sĩ và công nhân lao động. Đồng thời ta cũng đã hoàn chỉnh cơ bản công tác xóa nạn mù chữ (đạt tỉ lệ 94,40%) và tổ chức các lớp bổ túc văn hóa cho cán bộ chiến sĩ, công nhân viên và nhân dân lao động.

Phong trào vệ sinh phòng bệnh đã có nhiều tiến bộ, đã trở thành ý thức của quần chúng. Mạng lưới y tế đã dược tổ chức đều khắp ở các phường và đội ngũ y tế nhân dân đã được đào tạo kịp thời để phục vụ quần chúng. Phong trào kế hoạch hóa gia đình và sinh đẻ có kế hoạch đã có một bước chuyển biến trong quần chúng. Tuy nhiên, ta chưa giải quyết những phương tiện vệ sinh công cộng cho quần chúng. Ta đã thực hiện một bước chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ và cán bộ hưu trí.

Các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao đã trở thành phong trào của quần chúng, nhất là thanh niên.

Hai năm qua ta đã vận động giáo dục quần chúng thực hiện những chủ trương chính sach của Đảng, làm thay đổi hẳn nếp sống của quần chúng, đã xây dựng nếp sống văn hóa mới trong một bộ phận quần chúng, đã làm chuyển biến từ nhận thức, suy nghĩ, hành động, tác phong sinh hoạt. Đã đẩy lùi một bước văn hóa đồi trụy, tạo ra những nhân tố mới, tập thể và cá nhân, có nhiều khả năng thuận lợi trong bước đường đi lên xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, tư tưởng xã hội chủ nghĩa sẽ chi phối tuyệt đại bộ phận quần chúng nhân dân.

4- Xây dựng Đảng và các đoàn thể quần chúng:

Sau 2 năm, Đảng bộ ta đã trưởng thành một bước quan trọng về các mặt: tổ chức, tư tưởng, tác phong và năng lực công tác.

Từ một Đảng bộ chỉ có 52 đảng viên trong ngày đầu giải phóng, đến nay ta đã có hơn 800 đảng viên (do trên bổ sung về và phát triển thêm 22 đảng viên mới) đã hình thành chi bộ ở 100% các phường và hầu hết các ban ngành đoàn thể cấp quận. Các chi bộ đã từng bước phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện và mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể.

Đảng bộ ta đã giữ được sự đoàn kết giữa các loại cán bộ trong Đảng, trung tâm la Ban chấp hành; Đảng bộ ta có một đội ngũ đảng viên nhiệt tình cách mạng, tư tưởng tiến công, bước đầu có sự gắn bó với quần chúng và tạo được lòng tin của quần chúng đối với Đảng, hạn chế được những sa sút về phẩm chất, tác phong công tác ngày càng sâu sát, cụ thể và thiết thực.

Qua 2 năm thử thách, Đảng bộ ta đã củng cố được nhận thức về đường lối, lập trường, quan điểm quần chúng, đã nâng cao năng lực công tác, năng lực quản lý kinh tế và xã hội, sửa đổi tác phong công tác. Đã xuất hiện nhiều cán bộ mới, trẻ có năng lực, khả năng bổ sung vào hàng ngũ lãnh đạo các cấp ủy, các ngành, đã bồi dưỡng huấn luyện cho 302 đảng viên và đối tượng đảng, gửi 97 cán bộ dự lớp bồi dưỡng ở cấp thành phố và 5 đồng chí quận ủy viên học trường Nguyễn Ái Quốc.

- Trong công tác xây dựng Đảng, ta còn nhiều thiếu sót nhược điểm lớn, nhất là cán bộ tuy có đảm bảo được khối lượng công việc to lớn và phức tạp, nhưng trình độ chính trị, chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý còn rất yếu, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu to lớn của nhiệm vụ chính trị hiện nay của Đảng bộ ta. Các chi bộ phường chưa thật sự đi sâu sát gắn bó với quần chúng, tuyên truyền giác ngộ quần chúng, nên có phần nào làm giảm nhiệt tình cách mạng của quần chúng, hạn chế sự phát triển của phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Sự đoàn kết nhất trí một số chi bộ chưa cao, công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa sâu, chưa liên tục đấu tranh nội bộ, thực hiện phê và tự phê chưa đúng mức, kỷ luật Đảng chưa chấp hành nghiêm minh. Các cấp ủy Đảng chưa coi trọng việc xây dựng đội ngũ đảng viên về số lượng và chất lượng gắn chặt với việc xây dựng Chi ủy, Chi bộ, cùng chính quyền và các ban ngành, đoàn thể vững mạnh toàn diện. Do những khuyết điểm trên mà 2 năm qua ta chỉ phát triển được 22 đảng viên mới, trong khi đó đã phải thi hành kỷ luật 37 vụ có 9 khai trừ.

Về phía Quận ủy, chưa quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng Đảng một cách toàn diện.

Về các tổ chức quần chúng, ngày đầu mới giải phóng, các tổ chức quần chúng hầu như không có. Nhưng qua các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, ta đã phát triển tập họp được 43.140 hội viên, 1.024 đoàn viên thanh niên cộng sản, 6.191 đội viên thiếu niên tiền phong. Hai năm qua đã có hàng trăm cá nhân tiên tiến xuất sắc trong phong trào quần chúng. Các tổ chức quần chúng ngày càng nâng cao về chất lượng, làm chỗ dựa cho quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và là chỗ dựa của Đảng và chính quyền trong việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng. Qua thực tế đó, hàng loạt cán bộ quần chúng đã trưởng thành, tạo ra sức mạnh mới cho tập thể quần chúng, là nguồn bổ sung cho Đảng và chính quyền. Tuy nhiên các tổ chức trong Quận ta còn yếu, nội dung hình thức giáo dục chưa thích hợp với đặc điểm của từng người, từng giai cấp. Do đó chưa tập hợp đông đảo rộng rãi các tầng lớp quần chúng, vai trò của quần chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ. Mặt khác, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng chưa được quan tâm đúng mức đối với các tổ chức quần chúng.

5- Nhận xét đánh giá chung, nguyên nhân ưu khuyết điểm:

Hai năm qua, thời gian tuy ngắn ngủi, nhưng là cả một quá trình đấu tranh liên tục, căng thẳng, nỗ lực vượt bậc để vượt qua bao nhiêu khó khăn phức tạp của buổi ban đầu tưởng chừng như không thể vượt qua nổi; nhưng Đảng bộ và nhân dân ta đã đứng vững và từng bước đi lên. Như Đại hội Thành Đảng bộ đã đánh giá: quận 8 chúng ta cũng đã tạo nên những chuyển biến to lớn toàn diện và sâu sắc. Từ đó đã làm cho tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội và đời sống quần chúng bước đầu được ổn định. Đặc biệt, trong tình hình là một quận đông dân, nghèo, có nhiều ngươì thất nghiệp, nhưng ta đã không để một người nào chết vì đói, trong tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội vô cùng phức tạp, ta đã trấn áp dược các thế lực phản động, nhất là bọn phản động đội lốt tôn giáo, đã phát động được một phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc tốt. Nhìn chung, Đảng bộ và nhân dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ từ chiến tranh sang hoà bình, từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Có được thành quả nói trên là do:

- Có chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng, nhất là nghị quyết 24 của Đảng. Có sự chỉ đạo sát đúng và kịp thời của Thành ủy, sự chi viện lớn lao của các lực lượng cán bộ, lực lượng võ trang bên trên, nếu không có những lực lượng đó thì không thể nào có được những thành quả như hôm nay.

- Sự nỗ lực chủ quan của toàn thể Đảng bộ ta, với nhiệt tình cách mạng, với sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đã biết tin quần chúng, dựa vào quần chúng, phát động quần chúng thực hiện tốt những chủ trương của Đảng.

- Sự tham gia hăng hái, nhiệt tình của quần chúng nhân dân lao động trong quận, giàu lòng yêu nước, có truyền thống đấu tranh anh dũng, tin tưởng Đảng. Nhờ đó phong trào quần chúng ngày càng vững chắc, có chiều sâu. Nếu không có được một phong trào quần chúng như vậy thì ta không đạt được những thành quả tốt đẹp như trên.

Thực tế đó đã cho ta kinh nghiệm: nếu biết phát huy hết sức mạnh của quần chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, thì ta sẽ có một sức mạnh vô địch để vượt qua bất cứ mọi khó khăn trở ngại.

Tuy nhiên những thành qủa trên đây chỉ là thắng lợi bước đầu, ta còn nhiều mặt yếu và nhiều khó khăn, nhược điểm rất lớn:

- Ta chưa tiến hành cải tạo các thành phần kinh tế, chưa tổ chức lại quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, còn nhiều lực lượng tiểu thương buôn bán tự do, tiểu thủ công còn rời rạc, nông dân còn làm ăn cá thể có tính cách tự phát kinh doanh; đó là điều trở ngại cho đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

- Lực lượng lao động còn thừa, lực lượng phi sản xuất còn đông, có ít người sản xuất, nhiều người tiêu dùng. Quận 8 chúng ta hiện có 207.000 người, lực lượng trực tiếp lao động sản xuất ra của cải vật chất và lao động trí óc khoảng 30.000 người. Như vậy là một người làm nuôi 7 người ăn. ăn ở chật chội chen chúc, sắp tới nếu ta không phân bố lại lực lượng lao động cho hợp lý, không sắp xếp lại nơi ăn chốn ở thì không làm sao ổn định được đời sống nhân dân.

- Trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa có một bộ phận rất lớn trong các tầng lớp nhân dân, nhất là tiểu thương, tầng lớp bên trên, và một bộ phận thanh niên trong khu vực người Hoa còn ngán ngại coi thường lao động, ngại khó khăn, còn tư tưởng ỷ lại chờ đợi, tư tưởng ăn bám, thích hưởng thụ vật chất, chưa thấy hết nghĩa vụ trách nhiệm của mình đối với bản thân, với xã hội, với Tổ quốc trước mắt và lâu dài, thậm chí có những người thiếu lòng tin ở tương lai.

- Còn nhiều thiếu sót trong quản lý kinh tế, chưa có sự phân công phân cấp giao trách nhiện rõ ràng giữa thành và quận, giữa quận và phường, cộng với những biểu hiện cục bộ, độc quyền trong quản lý kinh tế làm cho một số người xấu lợi dụng làm giàu cho bản thân, làm hại cho Nhà nước và nhân dân lao động địa phương ta.

- Trong hàng ngũ cán bộ Đảng viên nói chung là giữ vững và phát huy truyền thống và bản chất tốt đẹp của Đảng. Nhưng đồng thời cũng có một bộ phận trong Đảng đã giảm nhiệt tình và ý chí chiến đấu, một số ít sa sút về phẩm chất, mắc các bệnh cá nhân cửa quyền, giấy tờ, mệnh lệnh với quần chúng, một số ít mất đoàn kết nội bộ, ý thức tổ chức kỷ luật lỏng lẻo… Những thiếu sót nói trên đã ít nhiều làm giảm uy tín của Đảng.

Có những thiếu sót trên là do:

- Tình hình khách quan có nhiều phức tạp, công tác quá mới mẻ đối với cán bộ đảng viên ta, từ trước đến giờ chưa có kinh nghiệm lãnh đạo chính quyền và quản lý xã hội, do đó trình độ năng lực rất hạn chế.

- Về chủ quan, một số đông cán bộ Đảng viên ta chưa có nhận thức sâu sắc về đường lối của Đảng, về giai cấp, về tính chất của giai cấp tư sản. Từ đ1 dẫn đến thiếu cảnh giác, có nhiều sơ hở trong quản lý kinh tế, trong giáo dục quản lý cán bộ Đảng viên.

. Mặt khác, cán bộ ta còn những biểu hiện chưa tin tưởng vững chắc, chưa dựa hản vào quần chúng trong phát động phong trào, thực hiện chủ trương của Đảng.

. Về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quận ủy cũng còn nhiều thiếu sót, nhất là trong chỉ đạo tổ chức thực hiện, chưa sâu sắc cụ thể kịp thời chưa tổng kết rút kinh nghiệm để giúp cho bên dưới.

Tuy khuyết nhược điểm còn nhiều, nhưng chúng ta khẳng định rằng: hai năm qua, thành tích của chúng ta là chủ yếu, là cơ bản. Nhưng tồn tại khuyết nhược điểm cũng rất quan trọng, ta cần nỗ lực khắc phục thì mới đưa phong trào trong quận tiến lên mạnh mẽ hơn. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng: nhân dân và Đảng bộ ta có khả năng để vững bước tiến lên trên bước đường sắp tới, thực hiện thắng lợi đường lối Đại hội Đảng lần thứ tư và nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố, cùng thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng bộ chúng ta hôm nay.

Phần thứ hai

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ 2 NĂM 1977 – 1978

_______

Dưới ánh sáng nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV và Đại hội Đảng bộ thành phố, với đặc điểm tình hình địa phương ta, phương hướng nhiệm vụ 2 năm tới là: Tập trung cao độ các lực lượng góp sức cùng thành phố cải tạo 21.252 tư sản công thương và tập trung cải tạo tiểu thương, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, tổ chức lại sản xuất và phân phối theo sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật chất cho tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp; phân bổ lại lực lượng lao động, từng bước bố trí lại dân cư ăn ở cho hợp lý. Ra sức khôi phục và phát triển sản xuất giải quyết căn bản nạn thất nghiệp, từng bước ổn định cải thiện đời sống nhân dân phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, thanh toán cơ bản các tệ nạn xã hội và chế độ người bóc lột người. Nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội vững chắc làm cơ sở cùng thành phố bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn diện và mạnh mẽ.

NHỮNG YÊU CẦU NỘI DUNG CÔNG TÁC CHÍNH VÀ BIỆN PHÁP LỚN

A. Tập trung cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, khôi phục và phát triển kinh tế:

- Yêu cầu: Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới, lấy xây dựng làm chủ yếu, gắn chặt với khôi phục và phát triển sản xuất, nhanh chống tổ chức thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, bao gồm quốc doanh và tập thể nhằm từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Đây là một công tác hàng đầu trong toàn bộ các mặt công tác sắp tới.

1- Cải tạo và xây dựng công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:

Yêu cầu: cùng với thành phố cải tạo và tổ chức lại sản xuất 140 cơ sở tự nhân hiện có. Đồng thời tập trung tổ chức lại sản xuất tiểu thủ công trên các hình thức thích hợp như tổ sản xuất, hợp tác xã. Đồng thời giữ một ít cơ sở tiểu thủ công có mặt hàng phong phú mang tính chất dân tộc, chưa có điều kiện vô tập thể được, nhưng phải chịu dưới sự quản lý của Nhà nước. Tổ chức lại cơ sở hiện có, đồng thời thu hút thêm những công nhân và nhân dân lao động, đến năm 78 là 10.000 người.

Bảo đảm các mặt hàng luôn giữ vững và nâng cáo chất lượng, với điều kiện thuận lợi khai thác khả năng nguyên liệu trong nước, phục vụ cho địa phương, cả nước và xuất khẩu. Tập trung phát triển các mặt hàng: may mặc, mây tre đan, đồ mộc, cơ khí, chế biến thực phẩm, xà bông. Phân đấu năm 1977 đạt sản lượng 30.000.000, năm 1978 sản lượng 45.000.000.

Biện pháp: trước mắt ra sức củng cố, nâng cao chất lượng các tổ hợp hiện có. Đồng thơ\ời tổ chức lại những cơ sở còn rời rạc theo một ngành nghề thích hợp. Thu hút thêm 5.000 lao động trong năm 1977, 5.000 trong năm 1978. Củng cố 3 hợp tác xã hiện có. Ra sức bồi dưỡng đào tạo cán bộ quản lý hợp tác xã (Đảng viên và đoàn viên có tay nghề) chuẩn bị năm 1978 đưa toàn bộ lên hợp tác xã.

- Tăng cường quản lý các sản phẩm trên cơ sở hợp đồng hai chiều nhằm cắt đứt quan hệ giữa người sản xuất với tiểu thương.

- Nhanh chóng củng cố bộ máy Phòng công nghiệp để đủ sức quản lý và hướng dẫn tiểu thủ công nghiệp ở các phường. Đồng thời bồi dưỡng củng cố cán bộ phụ trách tiểu thủ công ở phường, mỗi phường có một Phó chủ tịch trực tiếp phụ trách.

Thành lập Ban chỉ đạo cải tạo và xây dựng tiểu thủ công nghiệp, do 1 đồng chí quận ủy viên phụ trách Trưởng ban.

2- Thương nghiệp:

Yêu cầu: đến thàng 10 năm 1977 xóa xong 12 tư sản thương nghiệp và chuyển các hộ này sang sản xuất ở các vùng kinh tế mới. Đồng thời tập trung chuyển 2.800 hộ tiểu thương sang sản xuất, riêng năm 1977 là 700 hộ. Trước hết là các tiểu thương buôn bán trao tay, chạy áp phe và các mặt hàng Nhà nước quản lý. Số người còn lại chưa chuyển sang sản xuất, tạm thời cho đăng ký và hoạt động theo luật pháp Nhà nước quy định. Đến năm 1978 phải đi hết.

- Chọn những người tốt tổ chức thành đội ngũ buôn bán tại các quầy hàng ở chợ do Nhà nước quản lý.

- Triệt để kh6ng cho phát triển tiểu thương mới.

- Nhanh chóng tổ chức màng lưới thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã.

Quốc doanh:cùng với các công ty thành phố củng cố lại các cửa hàng ở quận đã có, đồng thời tổ chức các hàng bán lẻ ở từng khu vực (3 phường) từ 3 đến 5 cửa hàng. Trước hết là những mặt hàng chủ yếu.

- Phát triển các cửa hàng ăn uống mỗi phường một cửa hàng.

- Bảo đảm thu mua hết các mặt hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp địa phương sản xuất.

Hợp tác xã: củng cố mở rộng hợp tác xã thêm nhiều hàng tự doanh, thu mua những mặt hàng trong diện quốc doanh chưa mua hết và chưa quản lý. Tổ chức thêm nhiều cửa hàng mới, kể cả các cửa hàng về dịch vụ.

Củng cố và nâng cao hiệu lực vai trò hướng dẫn của Ban quản lý Hợp tác xã quận, tổ chức bộ phận thu mua và phân phối hàng tự doanh của quận.

- Nhanh chúng đào tạo cán bộ và nhân viên thương nghiệp quốc doanh, tập thểm chọn những người tốt trong hợp tác xã, trong đoàn thanh niên, phụ nữ. Trong năm 1977 đào tạo 500 người, năm 1978 đào tạo 500 người đủ sức và có chất lượng để tổ chức thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đảm trách toàn quyền khâu bán buôn, bán lẻ, quản lý thị trường, quản lý giá cả, phân phối hàng hóa.

Tăng cường thêm cán bộ Phòng thương nghiệp và thành lập Ban chỉ đạo cải tạo và xây dựng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa do một đồng chí thường vụ phụ trách Trưởng ban.

3- Nông nghiệp:

Tổ chức nông dân làm ăn tập thể, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng các hình thức từ thấp đến cao. Trong năm 1977 tổ chức hết vào các tổ sản xuất, tập đoàn sản xuất. Đối với những người chuyên chăn nuôi và sản xuất rau xanh thì đưa vào các tổ chức chăn nuôi, tổ sản xuất rau. Sang năm 1978 đưa lên Hợp tác xã sản xuất, tổ chức 2 cơ sở quốc doanh chăn nuôi heo gà với quy mô vừa. Cần làm thí điểm tổ sản xuất.

Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp bao gồm trồng trọt và chăn nuôi heo, gà, cá. Trước mắt khoanh 2 vùng chuyên canh 700 ha lúa, 300 ha rau xanh.

Củng cố mở rộng công trình thủy lợi, bảo đảm năm 1978 đưa 600 ha lên 2 vụ lúa 1 vụ màu. Tăng cường máy bơm, máy cày, khai thác khả năng phân bón, thức ăn gia súc của địa phương.

Chỉ tiêu sản xuất:

Năm 1977

Năm 1978

. Lúa: diện tích gieo trồng 1200 ha.

Sản lượng: 3.215 tấn.

. Rau: diện tích 150 ha.

Sản lượng: 10.000 tấn.

. Heo: 8.500 con.

. Gà: 21.000 con.

. Lúa: diện tích gieo trồng 1300 ha.

Sản lượng: 3.400 tấn.

. Rau: diện tích 300 ha.

Sản lượng: 20.000 tấn.

. Heo: 12.000 con

(có 4000 con quốc doanh)

. Gà: 26.000 con

. Cá: 100 tấn.

Tăng cường cán bộ nông nghiệp, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho phòng nông nghiệp và các phường có nông nghiệp, bảo đảm đủ sức quản lý và hướng dẫn sản xuất nông nghiệp.

4- Cải tạo các ngành kinh tế khác:

a. Giao thông vận tải và bưu điện:

- Cần nắm chắc lại toàn bộ xe cộ, thuyền bè, lực lượng vận chuyển trong quận, trên cơ sở đó trong năm 1977 tổ chức thành tổ và năm 1978 đưa lên Hợp tác xã các loại xe 3 – 4 bánh do quận quản lý. Có phân chia lưu thông bến bãi thích hợp để bảo đảm phục vụ cho việc vận tải hàng hóa và việc đi lại của đồng bào. Tổ chức lại những người kinh doanh đưa dò trên sông.

- Thường xuyên kiểm tra các mặt đường để bảo đảm tốt phục vụ lưu thông.

- Tổ chức hệ thống bưu điện quận, phường để kịp thời phục vụ cho bộ máy Nhà nước và cho nhân dân.

b. Xây dựng cơ bản và quản lý nhà đất:

- Trong 2 năm 1977 – 1978 tập trung đầu tư vào các công trình phục vụ công cộng, trước tiên xây cất một số cầu tiêu công cộng ở các khu đông dân, chợ, bảo đảm tiêu chuẩn hợp vệ sinh và chắc chắn. Tăng cường các vòi nước công cộng ở khu lao động, sửa chữa các vòi nước đã hư. Kế đó giải quyết thoát nước tập trung ở các khu vực như: công trình y tế, vệ sinh, văn hóa, phúc lợi công cộng như: câu lạc bộ thiếu nhi, nhà trẻ, mẫu giáo, sân banh, thư viện, cơ sở chăn nuôi của nông nghiệp, các khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp.

- Coi trọng công tác cải tạo các khu vực chen chúc, giải quyết các khu nhà ven sông nơi sình lầy mất vệ sinh.

- Nắm toàn bộ nhà cửa trong quận, từng bước sẽ tiến hành quy hoạch và bố trí lại thành các khu vực sản xuất, cơ quan, cơ sở phúc lợi công cộng, khu vực nhà ở. Thực hiện việc điều chỉnh bố trí nhà ở cho cán bộ, công nhân viên chức theo tiêu chuẩn chế độ thống nhất. Sử dụng các cơ sở sẵn có, mua lại nhà cửa của nhân dân đi vùng kinh tế mới, sửa chữa các nhà hư hỏng, để giải quyết nhà ở cho công nhân lao động chưa có nhà, giải tỏa các khu nhà ổ chuột.

- Phát động quần chúng thực hiện tốt chính sách nhà đất và phát hiện cho Nhà nước những nhà vắng chủ, chiếm cứ bất hợp pháp, để chính quyền có kế hoạch bảo quản. Trong năm 1977, giải quyết dứt điểm lấy lại tất cả tài sản vắng chủ hiện đang bị chiếm giữ bất hợp pháp. Nhà cửa phố xá của tư sản bỏ ra nước ngoài hoặc bị bắt làm giấy bán trá hình bất hợp pháp, điển hình là dãy phố lầu đường Hoàng Sĩ Khải, phường 19.

c. Tài chánh – Thuế – Ngân hàng:

- Tài chánh phải đưa công tác quản lý đi vào nề nếp và chế độ thống nhất rõ ràng. Phải bảo đảm tốt nguồn vốn cho các cơ sở quốc doanh, cho guồng máy chuyên chính vô sản hoạt động có hiệu lực. Làm tốt vai trò kiểm tra mọi hoạt động và sản xuất kinh doanh của các ngành các cấp. Quản lý chặt chẽ tài sản vắng chủ , tài sản nhà nước, ngân sách, tăng thu giảm chi cho hợp lý.

- Kiên quyết chống mọi biểu hiện tham ô lãng phí, xử lý nghiêm khắc đối với những biểu hiện này. Giải quyết cho hợp lý việc thu các loại lệ phí như: chợ, bến đò,...

- Ngân hàng cần tăng cường quản lý kinh tế tài chánh tổng hợp, tăng cường phát huy chức năng trung tâm tiền tệ tín dụng và thanh toán. Bảo đảm vốn tín dụng cho các ngành sản xuất, lưu thông phát triển theo phương hướng cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống nhân dân trong quận. Chống lãng phí tiền vốn. Đẩy mạnh phong trào quần chúng gởi tiền tiết kiệm, mở rộng màng lưới tín dụng, cải tiến công tác tín dụng.

5- Phân cấp công tác quản lý kinh tế:

- Tăng cường quản lý theo ngành dọc và bảo đảm quản lý theo cấp lãnh đạo toàn diện, chống khuynh hướng đơn thuần.

- Quận là cấp vừa quản lý hành chánh và kinh tế do thành phố phân công. Phường cũng được phân công một số cơ sở kinh tế văn hóa.

- Đề nghị thành phân cấp giữa quận và thành; quận sẽ phân cấp giữa quận và phường.

B. Bố trí lực lượng lao động, tiếp tục giải quyết nạn thất nghiệp, vận động đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới, ổn định từng bước cải thiện đời sống:

* Yêu cầu: Nhằm tạo điều kiện cho mọi người còn sức lao động trực tiếp tham gia lao động, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống, phát huy khả năng mọi người vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng địa phương. Vì vậy công tác bố trí lực lượng lao động, tiếp tục giải quyết nạn thất nghiệp. Vận động đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới là khâu then chốt.

* Chỉ tiêu:

- Từ đây đến nửa năm 1979phải đưa đi 70.000 người (hồi hương 20.000, kinh tế mới 50.000) trong đó có 25.000 người có sức lao động. Trước mắt, đến cuối năm 1977 phải đưa đi 25.000 người.

- Thu hút 10.000 người vào các cơ sở tiểu thủ công nghiệp; năm 1977: 4.000 người, năm 1978: 6.000 người.

- Thu hút vào thương nghiệp 1.000 người, vào các cơ quan, xí nghiệp và các công trình thành phố 2.000 người.

* Đối tượng:

- Tất cả tư sản thương nghiệp (12 tên) những chủ trại cưa.

- Tiểu thương.

- Số sỹ quan chế độ cũ.

- Những người chưa có công ăn việc làm.

Đây là một cuộc chiến đấu biểu thị lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của nhân dân, đây là chủ trương có tính chất chiến lược, gắn liền với cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và xây dựng lại thành phố, giải quyết về cơ bản đời sống nhân dân, phát triển sản xuất.

* Biện pháp:

1- Điều tra phân loại: để xác định ai đi ai ở cho thật chính xác. Trên cơ sở đó, phân bố theo hướng đã quy định, và thống nhất phân phối theo kế hoạch. Để đảm bảo kế hoạch phân phối này, nhất thiết các cơ quan đơn vị muốn thu người phải qua Phòng lao động. Những người xin việc làm phải qua ủy ban phường xét (trong diện đi hay ở lại).

Việc tiến hành điều tra phân loại phải tiến hành trong tháng 6/1977.

2- Làm chuyển biến tư tưởng trong nội bộ và tạo thành một phong trào cách mạng mạnh mẽ trong quần chúng bằng biện pháp vận động giáo dục là chủ yếu, tuyên truyền phát động bằng các nội dung hình thức thích hợp. Ban kinh tế quận và phường kết hợp với các đoàn thể và ban ngành phát động quần chúng, cần đi sâu từng giới, từng hộ, làm cho quần chúng tự giác thấy được nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, của Nhà nước. Từ đó, tạo thành một phong trào cách mạng trong quần chúng, thực hiện chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới của Đảng, kết hợp với bình nghị trong tổ, đoàn thể, tổ dân phố.

Đối với thành phần tư sản trung thương, sỹ quan chế độ cũ… Qua quá trình phát động nếu không đi thì sẽ áp dụng biện pháp kinh tế, hành chánh. Tập trung vận dộng các khu vực đông dân, ven sông, khu vực người Hoa, tôn giáo. Trước mắt tập trung vận động các đối tượng phức tạp đi trước: tư sản, trung thương, sĩ quan chế độ cũ… để làm đà cho phong trào, quận chọn phường 16 làm điểm trong công tác này.

3- Thành cùng các Tỉnh quy hoạch một vùng kinh tế mới, do quận phụ trách về lao động. Quận tổ chức lực lượng lao động thủ công nhằm khai hoang, xây dựng cơ bản. Quận đội chuẩn bị tổ chức ngay ban chỉ huy công trường lao động thủ công. Ban kinh tế mới và Quận đội quan hệ với Ban kinh tế Thành, để nhân vùng quy hoạch và lo việc tổ chức lực lượng lao động, gồm những người còn sức lao động trong các hộ được quy định đi kinh tế mới. Trong quá trình khai hoang, đồng bào có chồng con em đi vùng ở kinh tế mới được đi thăm, xây dựng cơ bản đến đâu thì đưa đồng bào đến tham quan và tổ chức đưa đi đến đó.

Về tình hình quân sự hóa, chia thành phân đội, liên đội. Trong vòng tháng 6/1977 phải chuẩn bị cho xong đội ngũ 5.000 người để xây dựng cơ bản cho 10 xã kinh tế mới.

Lao động thủ công kết hợp với huy động cơ giới trong quận đã có và của trên chi viện, trang bị 9% cơ giới, lực lượng lao động được đài thọ theo chế độ thanh niên xung phong hoặc tự vệ, hoặc trả lương giao khoán ( kinh phí đó Thành lo ).

4- Tổ chức 10 khung cán bộ cho 10 xã mới đủ các ngành. Cứ 2 phường cung cấp 1 khung. Ban kinh tế mới cùng ban tổ chức Đảng, Phòng tổ chức chính quyền và các đoàn thể ở phường lo chọn người. Tổ chức bồi dưỡng tập huấn, bảo đảm dân đi phải có cán bộ theo.

Về chánh sách, Thành đang đề nghị Trung ương ban hành một số chánh sách đối với đồng bào các tôn giáo và người Hoa, chánh sách về nhà cửa, đối với cá nhân và tổ hợp muốn kinh doanh ở vùng kinh tế mới. Nội dung chánh sách:

- Đối với đồng bào người Hoa hay đồng bào thiên chúa giáo, muốn ở chung trong cùng họ đạo, từng vùng họ, thì được giúp đỡ ở chung một ấp hoặc liên ấp. Khi ổn định, đồng bào thiên chúa giáo có yêu cầu thì chánh quyền giúp đỡ cất nhà thờ, mời linh mục làm lễ. Đồng bào Hoa yêu cầu thì cho phép lập trường cấp I dạy chữ Hoa cho con em họ, nhưng phải theo quy chế trường công lập.

- Đối với nhà cửa, những loại không đem đi được thì nhà nước mua lại.

- Đối với cá nhân hoặc tổ hợp muốn xây dựng vùng kinh tế mới, nhà nước sẽ giúp đỡ xây dựng kinh doanh.

5- Tăng cường củng cố bộ máy Ban vận động kinh tế mới của quận, chọn những cán bộ ưu tú bổ xung cho Ban kinh tế mới quận, phân công một đồng chí thường vụ quận ủy trực tiếp chỉ đạo, củng cố ban chỉ huy công trường khai hoang do Quận đội chủ trì.

C. Đẩy mạnh công tác tư tưởng văn hóa:

Nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng văn hóa và tư tưởng là xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, giải quyết những tồn tại tiêu cực do nền văn hóa cũ để lại, còn tàn dư trong tư tưởng nhân dân.

Xuất phát từ đó nên yêu cầu và nội dung chủ yếu của công tác tư tưởng văn hóa trong 2 năm tới là phải làm sao cho thông suốt trong tất cả các tầng lớp nhân dân:

- Về tư tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở phát huy hơn nữa tư tưởng yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên mọi lãnh vực. Làm rõ hơn nữa vấn đề lao động và bóc lột đồng thời phê phán nghiêm khắc tệ nạn bóc lột, lười biếng, ăn bám, ích kỷ, cá nhân, đề cao tình cảm cao đẹp của con người mới xã hội chủ nghĩa, tình đoàn kết tương trợ thương yêu lẫn nhau “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Sự quan hệ giữa cá nhân và tập thể, xây dựng một cuộc sống vui tươi lành mạnh.

- Đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân và làm cho mọi người thấy rõ con đường đi lên xã hội chủ nghĩa là con đường duy nhất đưa nhân dân ta sớm khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, đem lại ấm no, hạnh phúc, giàu mạnh cho Tổ quốc và cho bản thân. Làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa và các nội dung nói ở trên chiếm ưu thế tuyệt đối trong mọi lãnh vực hoạt động sinh hoạt của quần chúng.

- Muốn đạt nội dung yêu cầu trên:

+ Phổ biến sâu rộng trong quần chúng nhân dân Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận.

+ Giáo dục sâu và có hệ thống về tư tưởng xã hội chủ nghĩa tinh thần làm chủ tập thể, về quan điểm lao động, phân biệt cho thấy rõ ranh giới giữa lao động và bóc lột, lao động và ăn bám, tập thể và cá nhân, nâng cao ý thức tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Xây dựng nếp sống mới, con người mới, gia đình văn hóa mới, chống tư tưởng tư sản và tàn dư phong kiến bóc lột, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa thực dân mới.

- Về nhà trường và giáo dục: giáo dục học sinh và giáo viên xác định mục đích học tập và giảng dạy, thực hiện tốt phương châm học đi đôi với làm.

Tăng cường công tác chính trị tư tưởng trong trường học, chống môI biểu hiện tư tưởng và văn hóa chủ nghĩa thực dân mới, nghiêm cấm giảng dạy giáo lý trong nhà trường.

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị trong nhà trường để bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong việc giảng dạy, phục vụ cho giảng dạy và quản lý nhà trường.

Phát động phong trào bổ túc văn hóa, làm cho mọi người thấy được lợi ích của việc nâng cao trình độ văn hóa. Tổ chức lại từng khu vực đều có trường lớp để thuận tiện cho việc đI lại từng khu vực đều có trường lớp để thuận tiện cho việc đI lại học tập, cho phù hợp với địa bàn đất đai và dân cư. Sắp xếp giờ học thuận tiện cho cán bộ nhân viên và công nhân lao động. Phấn đấu đến hết năm 1978 đối với đồng bào được xóa nạn mù chữ phảI học hết lớp 2, đối với thanh niên phải học hết cấp I.

Củng cố và mở rộng các trường mẫu giáo đào tạo thêm giáo viên chuyên môn nhằm thu hút tất cả các cháu đến tuổi học được đến trường.

- Về văn hóa văn nghệ: phát động mạnh mẽ phong trào văn nghệ quần chúng, đồng thời xây dựng các đội văn nghệ tự biên tự diễn ở phường và quận để làm nòng cốt cho phong trào. nội dung phản ánh được các mặt sinh hoạt và bản chất của cuộc đấu tranh hiện nay của quần chúng.

Đẩy mạnh vận động sáng tác văn nghệ với nội dung xã hội chủ nghĩa, lấy đề tàu trong sinh hoạt tích cực và đấu tranh cảI tạo xã hội của quần chúng nhân dân.

Phát động mạnh mẽ phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân.

- Y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ trẻ em:

+ Y tế, đẩy mạnh phòng bệnh, phòng dịch, áp dụng chặt chẽ các quy chế về vệ sinh, vệ sinh công cộng, vệ sinh gia đình, vệ sinh trong thực phẩm, vệ sinh lao động, vệ sinh trường học...

Tăng cường tiêm phòng, luôn luôn theo dõi phát hiện bao vây và kịp thời dập tắt các ổ dịch nguy hiểm như: tả, hạch, sốt xuất huyết, tê liệt...

Đặc biệt quan tâm các khu lao động ven sông sình lầy, nhà cửa chen chúc mất vệ sinh, các khu nhà ổ chuộrt, các khu vực sản xuất công nghiệp, hóa chất gây tình trạng ô nhiễm, làm bẩn môI trường sống.

Giải quyết dứt nạn cầu tiêu ven sông. Hoàn chỉnh và củng cố màng lưới y tế cơ sở, nhất là các trạm y tế phường, nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường số lượng, bồi dưỡng về tinhthần phục vụ và nghiệp vụ cho nhân viên để có đủ khả năng tiêm và chữa trị các loại bệnh thông thường, y tế phảI bảo đảm cho được lúc nào có bệnh là có người chăm sóc. Củng cố các tủ thuốc dân lập, bảo đảm có đủ thuốc chữa trị các loại bệnh thông thường, chống nạn tham ô lãng phí.

Củng cố các phòng khám bệnh, mở rộng các bệnh viện để bảo đảm trị bệnh cho cán bộ nhân viên và một phần cho quần chúng nhân dân. Thực hiện 3 phường có một phòng khám đa khoa và một nhà hộ sinh.

Bảo đảm có đủ thuốc trị bệnh, nhất là các loại thuốc thông thường, phân phối côhg bằng hợp lý, kịp thời phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng trồng và sử dụng cây thuốc nam. Y tế khuyến khích nghiên cứu, tìm giống làm nòng cốt trong phong trào. Đẩy mạnh phương pháp trị liệu đông tây y kết hợp.

Chuyển tất cả các cơ sở y tế tư hoặc còn trong các khu vực tôn giáo sang chế độ quản lý Nhà nước. Phát triển Hội chữ thập đỏ từ quận đến cơ sở để động viên vai trò đóng góp của nhân dân vào sự nghiệp y tế xã hội.

- Đẩy mạnh công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em, gấp rút phát triển màng lưới xuống gận cơ sở. Phấn đấu từ đây đến năm 1978 mỗi phường đều có 2 nhà trẻ tốt, phường lớn có từ 2 đến 3. Bồi dưỡng đào tạo một đội ngũ cô nuôi dạy trẻ vững về nghiệp vụ chuyên môn, tốt về ý thức trách nhiệm và tình yêu trẻ và cần phải được Nhà nước và nhân dân đãI ngộ thỏa đáng.

Tích cực vận động sanh đẻ có kế hoạch, giảm tỉ lệ phát triển dân số xuống còn 0,2%, mỗi năm chỉ tăng 2,5% người. Quản lý tốt thai sản, ra sức phòng và chữa các bệnh phụ nữ.

- Về thể dục thể thao, đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa lành mạnh trong nhân dân, nhất là trong thanh thiếu niên ở các trường học, xínghiệp, cơ quan đơn vị. Bảo đảm thể dục thể thao buổi sáng nhằm rèn luyện thân thể có sức khỏe để lao động sản xuất và bảo vệ an ninh Tổ quốc. Xây dựng các cơ sở thể dục thể thao ở phường và các phong trào thể thao điền kinh, các đội bóng chuyền, bóng rổ... đi đôi với bồi dưỡng huấn luyện viên để bảo đảm mở rộng và nâng cao phong trào.

- Thương binh xã hội:

Trong năm 1977 phải xác nhận cho xong các hồ sơ gia đình thương binh liệt sĩ, đồng thời thi hành đúng chính sách đối với những đối tượng này. Phát động phong trào quần chúng rộng rãi chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, gia đình nghèo, trẻ em mồ côi, người già neo đơn, tàn tật, nạn nhân chế độ cũ. Tổ chức quản lý chu đáo cán bộ nhân viên về hưu, quân nhân phục viên chuyển ngành.

Cùng với các ngành có liên quan (y tế, công an, các đoàn thể quần chúng) tập trung giải quyết các tệ nạn xã hội, ăn xin, bụi đời, xì ke, đĩ điếm. Tập trung cải tạo đối với số đối tượng chuyên nghiệp. Giáo dục cải tạo tại chỗ số đối tượng nhẹ.

D. Củng cố chính quyền và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động:

1- Củng cố chính quyền từ quận đến phường:

Trong tình hình hiện nay, việc củng cố và tăng cường bộ máy chính quyền từ quận đến phường có tầm quan trọng hàng đầu. Chính quyền là bộ mặt của Nhà nước nên cán bộ được tuyển chọn làm công tác chính quyền phải là người có ý thức phục vụ nhân dân vô điều kiện, biết tuân thủ sự phê phán góp ý của quần chúng. Thực hiện đúng là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Do đó nên qua bầu cử Hội đồng nhân dân kỳ này củng cố và làm trong sạch hóa chính quyền. Phát huy chức năng quản lý chính quyền, nhất là quản lý kinh tế, đời sống, văn hóa xã hội, trật tự trị an. Xây dựng chính quyền thật sự gắn bó với quần chúng nhân dân, vì nhân dân, do dân mà phục vụ. Tăng cường thêm người có năng lực có đạo đức vào bộ máy chính quyền để bảo đảm cho công tác quản lý kinh tế và phục vụ tốt đời sống nhân dân.

Củng cố các tổ dân phố, các tổ sản xuất, các hợp tác xã tiêu thụ và tiểu thủ công nghiệp. Đưa phần tử tích cực, trẻ, người tại chỗ vào, tạo điều kiện cho các cơ sở này hoạt động tốt.

Không ngừng nâng cao năng lực công tác, sửa đổi lề lối làm việc, giảm bớt thủ tục giấy tờ, quan liêu, gây phiền hà rắc rối, làm lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Làm rõ nội quy và chức trách, nhiệm vụ rõ ràng từng cấp, từng người, trên cơ sở đó mà kiểm tra công tác.

Tiếp tục phát động mạnh mẽ phong trào nhân dân góp ý kiến xây dựng chính quyền, giữ vững chế độ cứ 3 tháng các cơ quan chính quyền tự phê bình trước dân một lần. Phát động nhân dân góp ý xây dựng chính quyền, xây dựng cho nhân dân thái độ đúng đắn và trách nhiệm trong việc đóng góp củng cố và xây dựng chính quyền cách mạng. ngoài ra còn tổ chức mỗi phường một thùng thư để nhân dân có điều kiện góp ý kiến thường xuyên.

Kiên quyết chống bệnh quan liêu hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, có kỷ luật nghiêm minh với những cán bộ xấu, tham ô, móc ngoặc, ăn hối lộ, trộm cắp của công, đi ngược lại bản chất của chính quyền cách mạng. Kịp thời khen thưởng và bồi dưỡng đề bạt cán bộ nhân viên tốt, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.

2- Củng cố lực lượng quân sự, công an, các cơ quan kiểm soát, tòa án,thanh tra, pháp chế ngày càng vững mạnh đủ sức giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội:

Nhiệm vụ của các lực lượng võ trang, các bộ phận nội chính là kế hoạchông ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, giữ vững ý thức tiến công, củng cố quốc phòng toàn dân, ra sức bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội. Kiên quyết đập tan mọi âm mưu hoạt động của các bọn gián điệp, bọn tay sai ngóc đầu dậy, cũng như những thành phần bóc lột đã bị đánh đổ hoặc đang được cải tạo muốn bảo vệ và khôiphục quyền lợi, địa vị của mình, ra sức ngăn chặn các tội phạm kế hoạchác, làm cho tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội được ổn định vững chắc hơn.

Về quân sự:

Quân đội nhân dân là công cụ sắc bén của Đảng, trong tình hình ngày nay vừa là bảo vệ Tổ quốc vừa tham gia xây dựng kinh tế. Quân đội có trách nhiệm cùng với Công an bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội, đập tan mọi âm mưu phản động chống lại chính quyền cách mạng.

Không ngừng tăng cường xây dựng chính trị tư tưởng tiến công và tuyệt đối trung thành với Đảng. Đi đôi với nhiệm vụ trên, nỗ lực tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm để tự cung tự cấp một phần về lương thực, và tham gia xây dựng phát triển kinh tế địa phương.

Giáo dục rèn luyện quân phong quân kỷ, nâng cao trình độ chiến kỹ thuật để trở thành một đội quân hùng mạnh, nhất là số quân nhân mới tuyển từ sau ngày giải phóng.

Xây dựng lực lượng địa phương, lực lượng tự vệ nồng cốt, tự vệ rộng rãi ở các phường, xí nghiệp trường học, cơ quan... nhằm xây dựng lực lượng hậu bị vững mạnh bảo vệ hậu phương và thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự. Đặc biệt đối với phường, cần củng cố và tổ chức tất cả những người trong tuổi quân dự bị, vừa giáo dục rèn luyện, vừa quản lý được lực lượng thanh niên, vừa là đội quân lao động trước mắt đi khai hoang vùng kinh tế mới.

Mặt khác, cần chú ý chăm lo về tinh thần lẫn vật chất cho bộ đội địa phương, du kích ở các phường nhất là vấn đề ăn và ở.

Công an:

Xây dựng lực lượng công an trở thành một lực lượng võ trang sắc bén, từng bước tiến lên chính quy hiện đại.

Công an là một lực lượng phải tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ những thành qủa cách mạng.

Đồng thời phải hết sức chú ý giáo dục rèn luyện lực lượng công an về chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Cần thực hiện tốt lời thề danh dự các điều kỷ luật, 3 điều cần làm 4 điều cần tránh. Phải hết sức lễ độ, tôn trọng sinh mạng tài sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận 8 lần thứ I

Thông báo