PHẦN I
KIỂM ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HƠN 3 NĂM QUA
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
Từ Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ hai đến nay hơn 3 năm, do tình hình chung của Thành phố và yêu cầu chỉ đạo của Thành uỷ nên Đại hội đại biểu Đảng bộ lần này được triệu tập chậm hơn so với thời gian qui định.
Là quận ven có tác động đặc điểm chung của thành phố, những biến đổi trên tất cả các mặt kinh tế xã hội đều có ảnh hưởng đến quận ta. Trong kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, Thành phố Hồ Chí Minh là trọng điểm để thực hiện âm mưu của chúng.
Quận tuy không phải có cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hoàn chỉnh, nhưng có một phần đất đai nông nghiệp (848ha). Đây là một lợi thế nếu biết phát huy đúng mức thì tiềm năng ấy sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần cùng với sản xuất tiểu thủ công nghiệp nâng cao giá trị tổng sản lượng, giải quyết được đời sống và công ăn việc làm cho nhân dân lao động.
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có giá trị tổng sản lượng không cao hơn so với các quận trung tâm thành phố (trên 100 triệu) nhưng là thế mạnh của chúng ta. Quận có 6 cơ sỏ quốc doanh quy mô nhỏ, 9 hợp tác xã, 87 tổ sản xuất, 140 cơ sở tư nhân và 1.228 cá thể với 11.787 lao động, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất nhiều mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Công nghiệp Trung ương và thành phố trên địa bàn quận gồm 61 xí nghiệp, trên 10 ngàn công nhân bao gồm xí nghiệp chế biến nông lâm hải sản, chữa đóng tàu, gia công xuất khẩu và 6 hệ thống kho tàng lớn.
Về tổ chức, với 66 cơ sơ đảng trong đó có 2 đảng uỷ gồm 908 đảng viên đã kinh qua thử thách chiến đấu và quá trình xây dựng tích luỹ được một số kinh nghiệm trong quản lý, có lập trường kiên định và có ý chí tiến công cách mạng. Nhân dân quận 8 đa số là lao động nghèo, có truyền thống cách mạng, truyền thống lao động cần cù.
Mặt khác quận 8 cũng có những khó khăn phức tạp khá lớn về chính trị và kinh tế.
Với địa bàn chạy dài nhiều sông, rạch chia cắt, dân số 214.782 người trong đó số không có hộ khẩu thường trú 14.561; dân tị nạn Campuchia 1.444; người Hoa 20.782 tập trung các phường khu vực Xóm Củi; đồng bào Thiên chúa giáo 14.782; số sĩ quan học tập cải tạo 2.200, được tha về 1.268, hiện còn cư trú 845, số còn lại đã đi hồi hương, trốn đi nước ngoài. Số có thân nhân định cư ở nước ngoài có 8.740 hộ xin đơn đăng ký lập sổ nhận tiền, hàng của thân nhân định cư ở nước ngoài gởi về và nạp đơn trở lại 6.850 hộ. Đối tượng hình sự 4.186 tên, trong đó loại A: 567 tên, loại B: 3.342 tên và loại C: 277 tên.
Tệ mê tín dị đoan còn ảnh hưởng nặng nề trong nhân dân cộng thêm hoạt động của các tôn giáo dựa vào các đình, chùa, nhà thờ, thánh thất làm cho công tác xây dựng con người mới, nếp sống mới xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khó khăn.
Về sản xuất còn khó khăn lâu dài như: điện cho sản xuất, vật tư nguyên liệu, nhiên liệu, vốn tiền mặt, thiết bị phụ tùng thay thế v.v... và một số chánh sách chế độ đối với sản xuất có mặt chưa phù hợp cũng ảnh hưởng đến sản xuất.
Ở nhiệm kỳ 2, chúng ta mới thật sự đi vào quản lý kinh tế, bộ máy thiếu, yếu. Mặt khác, từ hành chánh bao cấp chuyển sang quản lý kinh tế trong điều kiện kinh tế chung còn 5 thành phần. Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp địa phương với tính chất tự sản tự tiêu và gia công là chủ yếu. Hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa mới hình thành còn non yếu chưa đủ sức đảm bảo lĩnh vực phân phối lưu thông, đấu tranh quản lý thị trường.
Tình hình ngân sách: thu không đủ chi, bội chi ngày càng lớn, kinh phí hoạt động trên mọi lĩnh vực phát triển kinh tế đời sống xã hội chủ yếu nhờ vào trợ cấp của trên, do đó không chủ động ngân sách và kế hoạch.
Đội ngũ cán bộ tuy có số lượng khá đông, nhưng cán bộ có năng lực và trình độ quản lý kinh tế - xã hội chiếm tỷ lệ thấp, không đủ để bố trí vào các cơ sở kinh tế hiện có.
II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN TỒN TẠI:
a. Về nhiệm vụ kinh tế - xã hội:
Hơn 3 năm tập trung sức thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: vừa đẩy mạnh sản xuất từng bước ổn định và cải thiện đời sống, vừa đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, chống lại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch, Đảng bộ và nhân dân quận 8 đã phấn đấu tích cực thu được những thành tựu đáng kể.
Tình hình chung trên địa bàn của quận: sản xuất tiểu thủ công nghiệp và sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, giá trị tổng sản lượng hàng năm đều tăng, bình quân năm sau cao hơn năm trước từ 25 – 40%. Kế hoạch kinh tế xã hội được thực hiện tương đối toàn diện, sản phẩm quản lý được từ 75 – 80%. Hàng xuất khẩu ngày càng tăng, thế mạnh của quận như chiếu cói, đồ nhôm, phụ tùng xe đạp, nhựa, chế biến nông sản v.v... đang được khai thác. Một số điển hình mới về quản lý kinh tế ở cơ sở xuất hiện đã đóng góp tích cực kinh nghiệm cho quận và cho trên trong chỉ đạo cải tiến quản lý kinh tế chung.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp nhiều năm liền vượt chỉ tiêu kế hoạch. Năm 1979 đạt 43,9 triệu/40,4 triệu, năm 1980 đạt 54,3/45,9 triệu, năm 1981 đạt 72,8 triệu/65 triệu và năm 1982 đạt 101,2 triệu/100 triệu kế hoạch và thường là vượt thời gian từ ½ tháng đến 1 tháng. Trong đó tỷ trọng 98% là của tiểu thủ công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp. Gần đây qua việc phân loại đánh giá từng cơ sở sản xuất tập thể có 62% hợp tác xã và 93% tổ hợp được đánh giá khá. Kết quả đánh giá chỉ đạt ở mức tương đối, chưa hoàn toàn chính xác nhưng cũng đa giúp cho công tác quản lý đi dần vào chiều sâu.
Công nghiệp quốc doanh tuy phát triển chậm, thậm chí còn có một số nơi quá kém (như xí nghiệp thực phẩm Hoà Bình), tỷ trọng chưa bao giờ đạt mức 2% trong giá trị tổng sản lượng chung, song ở khu vực này cũng có được xí nghiệp thức ăn gia súc làm ăn đem lại hiệu quả kinh tế, trích nộp được lợi nhuận cho nhà nước; xí nghiệp cơ khí có chiều hướng phát triển sau củng cố, sản phẩm chính là máy tuốt lúa được đánh giá có chất lượng cao.
Trong nông nghiệp, quá trình xây dựng và phát triển đã hình thành 3 vùng chuyên canh cây trồng và 3 loại con nuôi trong cơ cấu sản xuất. Từng bước giảm dần diện tíchlúa, phát triển cây công nghiệp ngắn ngày (cói) và sản xuất theo hướng vành đai thực phẩm của thành phố, phá thế độc canh cây lúa.
Nông nghiệp quận ven tuy diện tích không nhiều, nhưng các tập đoàn và hợp tác xã đã xác định đúng phương hướng sản xuất, bố trí cây trồng, con nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên, đã đi dần vào thâm canh tăng vụ, ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật trong cải tạo đồng ruộng vốn bị nhiễm phiền nặng quanh năm (chủ yếu là làm thủy lợi và cày ải). Cơ sở vật chất kỹ thuật từng bước được tăng cường, phong trào hợp tác hoá được giữ vững và có nơi phát triển có tính vững chắc. Giá trị tổng sản lượng năm 1981-1982 đạt 5,6 triệu, 6,6 triệu (năm 1979-1980 chỉ đạt 3,9 triệu và 4,1 triệu), trong đó chăn nuôi tăng khá nhanh. Về năng xuất sản lượng lúa, năm 1982 đạt 36,2 tạ thóc/ ha gieo trồng, sản lượng 1.763 tấn, tăng 21,25% so với năm 1978. Vụ hè thu dần dần trở thành tập quán trồng trọt và đã đưa năng xuất lúa trên diện tích 2 vụ vượt trên 6 tấn/ha. Cói từ 72ha tăng lên 132ha, năng suất bình quân 9 tấn/ha tăng 80%so với năm 1978. Diện tích cói tuy không đạt chỉ tiêu kế hoạch 200ha của Đại hội Đại biểu Đảng bộ nhiệm kỳ 2 đề ra, song đây là một cố gắng lớn trong tình hình chung của Thành phố còn nhiều khó khăn trong việc phát triển vùng chuyên canh cói.
Trong phong trào làm ăn tập thể, tập đoàn 3 phường 22 đã thực hiện tốt 3 cuộc cách mạng nên đã phát triển từng bước tương đối toàn diện vững chắc và ngày càng phát huy tính ưu việt của quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp. Ở Tập đoàn 3 động lực làm chủ tập thể đã được phát huy ở mức khá cao, đã chứng tỏ tính hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội và trở thành nhân tố sáng tạo thúc đẩy sản xuất phát triển. Kết quả về phát triển sản xuất, cải thiện đời sống đã đạt được mục đích cải tạo. Ở đây đã thành công trong việc thâm canh cây lúa trên đất đã nhiễm phèn, mặn ở độ cao. Đây cũng là mô hình tập đoàn phát triển tổng hợp, phát huy được tiềm năng đất đai, mặt nước và lao động, chúng ta cần rút kinh nghiệm về tổ chức chỉ đạo sản xuất và tổ chức quản lý.
Bên canh Tập đoàn 3 phường 22, sự xuất hiện cách làm ăn mới ở tập đoàn 1 Phường 09 cũng đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, đó là mô hình Tập đoàn, kết hợp được từ khâu trồng trọt đến chế biến, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp từ đó giải quyết được lao động thừa và lao động nhàn rỗi, tăng giá trị ngày công và tăng thêm thu nhập cho người lao động. Nhân tố này tạo ra khả năng cho vùng chuyên canh cói phát triển gắn với phát triển ngành nghề chế biến, với xuất khẩu và thương nghiệp nội địa, từng bước đi lên vững chắc.
Mấy năm qua trận địa cách mạng ở nông thôn đã diễn ra cuộc đấu tranh “Ai thắng ai” rất gay gắt giữa 2 con đường, phản ánh tính chất đấu tranh giai cấp trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một số phần tử xấu kết hợp tầng lớp địa chủ, phú nông muốn khôi phục các hình thức bốc lột để làm giàu, đã lợi dụng khó khăn ban đầu và sơ hở của ta về mặt quản lý, kích động quần chúng phá chủ trương hợp tác hoá, xé rào làm cá thể.
Những biểu hiện trên đây có lúc rất gau gắt gây khó khăn không ít cho phong trào hợp tác hóa. Song nhờ có sự chỉ đạo kiên trì và tập trung, chúng ta đã giữ được phong hợp tác hoá, giữ được nguyên vẹn hợp tác xã thí điểm và 10 tập đoàn sản xuất hiện có với 79% diện tích và 66% nhân khẩu nông nghiệp, số xé rào được tổ chức lại trong 6 tổ đoàn kết sản xuất với 11% diện tíchvà 9,4% nhân khẩu, còn lại một bộ phận nông dân làm ăn cá thể chiếm tỷ lệ 10% diện tích với 24% nhân khẩu
- Mặt khác, trong quá trình phát triển sản xuất chúng ta đã giải quyết được công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động phục vụ cho các yêu cầu sản xuất, xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, giảm được một phần về tốc độ phát triển dân số, xét cho nhập hộ khẩu một bộ phận khá đông những người đi lập nghiệp từ trước năm 1979 trở lại để ổn định nơi ăn ở.
Triển vọng vể sự xuất hiện cách làm ăn mới ở tập đoàn 1 phường 09 đã mở ra khả năng mới cho Quận ta trong vấn đề tạo công ăn việc làm cho nhân dân lao động gắn liền với xây dựng và phát triển vùng cói.
- Xây dựng cơ bản và sữa chữa trong điều kiện trợ cấp ngân sách, vật tư ngày càng khó khăn song chúng ta cũng đã thực hiện được 73% vốn đầu tư, hoàn thành hơn 2 công trình sản xuất và 20 công trình phúc lợi xã hội đưa vào sử dụng, tập trung cho khu vực giáo dục, giải quyết trường lớp chosố học sinh ngày càng phát triển, giàm bớt tình trạng ca 3, đồng thời đã phân phối 371 nhà ở cho cán bộ công nhân viên và cũng đã sữa chữa được một số lượng lớn về nhà ở. Tồn tại đáng kể ở lĩnh vực này là việc phân phối nhà ở có biểu hiện tiêu cực nhưng châm được kết luận, uốn nắn, gây ra nhiều thắc mắc trong nội bộ.
Đặc biệt trong năm 1982, được sự chỉ đạo tập trung của Quận ủy, nhiều cấp ủy phường đã vận dụng tốt phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, đã phát triển hình thức nhân dân góp tiền và lao động xây dựng một số nhà cho các gia đình thuộc diện chính sách, sửa chữa đường xá, cống rãnh, trường học đem lại kết qủa tốt, giải quyết được nhiều yêu cầu bức bách trong đời sống xã hội.
- Giao thông vận tải chủ yếu là xe thô sơ, vận tải nhẹ trong điều kiện nhiên liệu luôn bị cắt giảm : năm 80 bằng 39,9% năm 79; năm 81 bằng 61,93% của năm 80.... Đầu phương tiện hư hỏng nhiều và xuống cấp, thiết bị phụ tùng thay thế nhà nước không cung ứng đảm bảo nhu cầu sửa chữa; Nhưng chúng ta đã cố gắng khắc phục khó khăn đáp ứng được một phần các yêu cầu vận tảo phục vụ sản xuất và đời sống tương đối khá so với khả năng của Quận và mức phát triển hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước.
- Trong phân phối lưu thông mặc dù ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chưa đủ sức làm chủ thị trường, nhưng trên mặt trận nóng bòng cùa cuộc đấu tranh giai cấp hết sức phức tạp, quyết liệt để giải quyết vấn đề “Ai thắng ai”. Qua thời gian thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị và nghị quyết về một số vấn đề cấp bách về đời sống của Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ II, trên địa bàn Quận các ngành trong khối chuyển hướng hoạt động thu được những kết quả nhất định :
+ Mạng lưới bán lẻ của thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phát triển, hầu hết các cơ sở và các nơi trọng điểm đã hình thành 2 hệ thống kinh doanh và cung cấp. Doanh số phát triển nhanh, tổng mức hàng hoá nắm được ngày càng nhiều hơn trước, đảm bảo được một số mặt cơ bản những nhu cầu thiết yếu trong đời sống nhân dânv à đảm bảo lượng hàng bán cung cấp theo tiêu chuẩn định lượng cho cán bộ công nhân viên-Nhà nước, ngoài ra còn có một lượng hàngtham gia thị trường để đấu tranh giữ giá; từng bước khắc phục dần tệ của quyền hách dịch, xây dựng được nếp phục vụ văn minh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa.
+ Hoạt động cung ứng xuất nhập khẩu và kinh doanh lương thực trong thời gian ngắn đã đem lại hiệu quả và tác dụng tốt.
+ Tài chính, ngân hàng đã có nhiều cố gắng đầu tư nguồn vốn làm tăng thêm năng lực sản xuất ở một số ngành trong tình hình thu chi tiền mặt không cân đối, bội chi ngày càn tăng. Trong chăm lo đời sống, Quận ủy và Ủy ban cũng đã điều tiết một phần tiền lãi thu được ở hoạt động kinh doanh chi vào khoản trợ cấp bữa ăn trưa cho khu vực hành chánh sự nghiệp và lực lượng vũ trang, tuy không nhiều nhưng cũng đã nói lên được sự cố gắng của Đảng bộ.
Bên cạnh những thành tựu nói trên chúng ta còn một số mặt thiếu sót nhất định, thậm chí có mặt nghiêm trọng
Trên địa bàn Quận nhìn chung tiềm năng và thế mạnh kinh tế, đất đai, năng lực sản xuất chưa được khai thác đúng mức và cũng chưa thật sự được tổ chức quản lý tốt.
Mấy năm qua là thời gian tiếp tục cải tạo và xây dựng kinh tế đã hình thành ở địa bàn chúng ta một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nhưng trong đó kinh tế tập thể chưa phát huy được ưu thế của mình; kinh tế tư nhân cá thể ngày càng mở trộng, tỷ trọng giá trị tổng sản lượng hàng hoá làm ra trong khu vực quốc doanh và tập thể so với tư nhân cá thể chỉ bằng 22,7 triệu/77,3 triệu. Điều đó thể hiện việc nhận thức và sử dụng 5 thành phần kinh tế, hiểu và vận dụng Nghị quyết 6 của Ban chấp hành Trung ương chưa tốt. Sản xuất tuy có bung ra nhưng phần lớn là bung ra khu vực tư nhân cá thể.
Công nghiệp quốc doanh phát triển chậm, tỷ trọng chưa bao giờ đạt được ở mức 2% trong giá trị tổng sản lượng chung. Cơ sở vật chất, kỷ thuật một số bị mất mát hư hỏng, năng lực sản xuất thực tế chỉ sử dụng được 1/3 đến ½ công suất. Hiệu quả kinh tế so với vốn đầu tư đem lại thấp, đời sống công nhân ở khu vực này chậm được cải thiện. Toàn Quận có 06 cơ sở quốc doanh trong đó có phân nữa làm ăn đem lại hiệu quả thấp; gần đây qua kiểm tra có 02 đơn vị bị lỗ hơn ½ triệu đồng. Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, công nhân làm chủ ở các xí nghiệp quốc doanh chưa được xác lập và phát huy đầy đủ, có nơi tiêu cực chi phối nghiêm trọng. Công tác quản lý không sát cơ sở, công tác kiểm tra không kịp thời và có thời gian dài buông lỏng.
Trong chỉ đạo sản xuất tuy có chú ý khai thác tính linh hoạt, dễ thích ứng của cơ sở, nhưng mặt nào đó chúng ta còn quá chú trọng chạy theo giá trị tổng sản lượng mà buông lơi công tác cải tạo, buông lơi việc tổ chức quản lý kế hoạch và quy hoạch, để chạy theo thị trường. Quận có nông nghiệp nhưng trong chỉ đạo sản xuất cũng chưa kết hợp được giữa công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu ở mức tương đối hợp lý. Mặt hàng công cụ cầm tay, cơ sở quốc doanh và tập thể không đảm bảo cung cấp cho nông nghiệp, một số lò rèn và cơ sở tư nhân sản xuất phương tiệnchế biến cói còn nằm ngoài qũy đạo. Sự sống còn của các cơ sở sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp là nguyên liệu nhưng chưa có được kế hoạch biện pháp chắc chắn giải quyết tốt mối quan hệ kinh tế ổn định lâu dài với các địa phương đơn vị cung cấp nguyên liệu hoặc nghĩ đến việc tự tạo nguồn nguyên liệu vững chắc để xây dựng kế hoạch hàng năm. Chúng ta có cố gắng mở rộng vùng chuyên canh cói để giải quyết nguyên liệu tại chổ cho tiểu thủ công nghiệp dệt chiếu cói ở địa phương, song công tác quản lý chưa tốt, chưa gắn được các khâu từ trồng trọt đến chế biến, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu trên địa bàn Quận với qui mô ngày càng mở rộng.
Trong nông nghiệp tình hình phát triển cải tạo buổi ban đầu khá nhanh và đúng hướng đã đem lại kết quả khá cao, nhưng trong một chừng mực nhất định, thời gian sau có chựng lại nếu như có tập trung chỉ đạo kiên trì và tích cực hơn nữa thì có thể hoàn thành về cơ bản hợp tác hoá sớm. Sự xuất hiện cách làm ăn mới mang lại hiệu quả kinh tế cao của Tập đoàn 3 phường 22 nhiều năm qua song không được nhận ra. Hợp tác xã nông nghiệp phường 21, qua tổ chức thực hiện khoán sản phẩm thắng lợi năm 1982,tình hình có triển vọng tốt và ổn định hơn, hạn chế được tiêu cực. Quận ủy đã tập trung chỉ đạo và hỗ trợ tích cực nhưng tốc độ phát triển rất chậm từ lúc xảy ra biến động do một số phần tử xấu kích động đã kịp thời xử lý ngăn chặn.
Tình hình cây trồng và con nuôi phát triển không cân đối nhất là con cá chưa phát triển mạnh, chưa đầu tư khai thác có hiệu quả cao diện tích mặt nước ao hồ, con vịt chưa được chú ý phát triển rộng rãi,
Đã giải quyết công ăn việc làm cho số lớn lao động chưa có việc làm, nhưng hiện nay vẫn còn đông; việc bố trí lại một bộ phận dân cư trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa còn rất nhiều hạn chế trong điều kiện kinh tế bị đảo lộn, sản xuất gặp nhiều khó khăn, kinh doanh thương nghiệp trước mắt đem lại thu nhập cao có sức thu hút mãnh liệt lao động vào khu vực này, cộng với tỷ lệ phát triển dân số còn cao, một bộ phận 13.000 người đã đi lập nghiệp từ trước 1979 trở về và hàng năm ta phải giải quyết gần 10.000 lao động, 3.000 đến tuổi lao động và số anh em hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về đã tạo ra tình hình phức tạp khó khăn lớn cho Quận.
Trong phân phối lưu thông tuy đã đạt được những kết qủa đáng kể, song chưa đủ sức để làm chủ thị trường, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa còn đang bị thương nghiệp tư nhân cá thể lấn át trên nhiều mặt hàng có liên quan trực tiếp đến đời sống. Thương nghiệp hợp tác xã hoạt động chưa đáp ứng hướng chỉ đạo, doanh số tuy đạt cao nhưng mục tiêu phục vụ chưa đạt, chỉ tiêu bán lẻ thấp, bình quân trên dưới 50%, còn mua quanh bán quẫn và bán buôn trao tay nhiều nên kém tác dụng đấu tranh thị trường, thậm chí còn làm tăng thêm yếu tố tiêu cực. Thuế tuy đạt chỉ tiêu kế hoạch hàng năm song còn thất thu nhiều, nhất là lĩnh vực kinh doanh thương nghiệp tư nhân cá thể và thuế sát sinh, nguồn vốn phân phối qua ngân sách đạt hiệu quả kém, nhiều cơ sở sản xuất không thực hiện nghiêm chỉnh quy định trích nộp lợi nhuận, các đơn vị quốc doanh chưa phát huy được tác dụng cao đồng vốn, để vốn chồng chất chậm luân chuyển, lưu thông tiền tệ rối loạn, một khối lượng lớn tiền mặt còn nằm ngoài sự quản lý của ngân hàng. Cũng do buông lơi cải tại trên mặt trận sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và trên mặt trận lưu thông phân phối, quy luật tự phát tư bản chủ nghĩa có cơ hội phát triển thúc đẩy quá trình phân hóa giai cấp, một số tư nhân cá thể lợi dụng làm giàu, thu nhập rất cao, đóng thuế rất ít, cùng với gian thương, đầu cơ, áp phe móc ngoặc v.v.. chưa bị trừng trị đã xuất hiện một tầng lớp sống phê phỡn bên cạnh đời sống khó khăn của đông đảo quần chúng lao động.
b. Nhiệm vụ văn hoá xã hội
Nhìn chung về mặt văn hoá xã hội đã có những chuyển biến mới. Cuộc đấu tranh chống lại những tàn dư văn hoá, nếp sống lạc hậu, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa đã có những bước phát triển khá. Nhiều điển hình mới trong lao động sản xuất, đời sống xã hội xuất hiện qua các phong trào hành động cách mạng của quần chúng trên các lãnh vực.
Ngành Văn hoá Thông tin hoạt động tuy còn có mặt hạn chế song cũng đã phát triển các hoạt động tuyên truyền, báo chí, mở rộng hệ thư viện, triển lãm, chiếu phim. Phong trào văn nghệ quần chúng từng bước phát triển, các đội văn nghệ nghiệp dư có tăng, chất lượng hoạt động có tác dụng đáng kể. Song song đó, ngành cũng có phối hợp truy quét tàn dư văn hoá văn nghệ đồi trụy phản động, có kết quả nhất định .
- Đối với sự nghiệp giáo dục, đầu tư của ta khá tập trung, nhất là cải tạo sửa chữa trường lớp để phục vụ nhu cầu nhân dân trong việc học cho con em mình. Mặc dù cơ sở trường lớp thiếu, song chúng ta đã phấn đấu đảm bảo yêu cầu trên 95% học sinh đến lớp trong các niên học. Mở lớp đêm để cho các em học sinh nghèo thất học có điều kiện đến lớp.Công tác cải cách giáo dục,dạy và học có bước chuyển biến tiến lên ở một số mặt nhất định, từng bước đi vào nề nếp, đã xuất hiện nhiều giáo viên dạy giỏi và học sinh giỏi, tỷ lệ lên lớp khá cao. Năm 1981 có 03 nhà trẻ tiên tiến, năm 1982 nâng lên 06 nhà trẻ tiên tiến. Đặc biệt năm 1982, ngày truyển thống các nhà giáo đựơc cấp ủy Đảng và chính quyền tập trung chỉ đạo kết hợp được phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm nên đã đem lại những kết quả tốt, động viên được tình cảm và sự phấn đấu của các thầy cô giáo.
- Y tế - Thể dục thể thao và Thương binh xã hội cũng thực hiện được 1 số yêu cầu nhất định. Tỷ lệ tiêm phòng cácbệnh dịch đạt bình quân 84,84% trên tổng số dân. Phong trào sinh đẻ có kế hoạch thực hiện có nhiều hiệu quả,hạ thấp tỷ lệ phát triển dân số có 4 phường 2,5,7,8 . Việc trồng và sử dụng cây thuốc nam, công tác khám và điều trị bệnh, quản lý các bệnh xã hội, tinh thần phục vụ và mạng lưới y tế phát triển và tiến bộ. Thể dục thể theo củng có những cố gắng mới, đã từng bước vượt qua được một số khó khăn thiếu thốn về cơ sở vật chất để đẩy mạnh hoạt động.
Mấy năm qua,phong trào rèn luyện thân thể nhất là trong lứa tuổi thanh thiếu niêm học sinh ở các trường nhình chung số người tham gia rèn luyện thân thể có tăng lên, đội ngũ hướng dẫn viên tăng cường về số lượng và chất lượng. Thương binh xã hội đã cơ bản hoàn thành chức năng chủ yếu của mình là thực hiện được công tác quản lý và giải quyết các chế độ chính sách đã ban hành đồi với số cá nhân và gia đình trong diện chính sách. Mặt khác,cũng đã phát động được phong trào làm theo lời Bác và phong trào ấy đã xuất hiện một số điển hình và 16 phường khá.
Về những yếu kém ở lĩnh vực này biểu hiện là có 1 thời gian chúng ta còn buông lỏng. Những điển hình trong các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, ta chưa phát hiện hết, cái nổi lên cũng không được kịp thời nhân ra, công tác nhân điển hình tiên tiến chỉ tập trung 1 số rất ít đơn vị. Những việc đã làm được của ngành Văn hoá Thông tin còn bó hẹp trong phạm vi nhất định, chưa xây dựng được nhiều cái mới tiến bộ để đấu tranh thuyết phục xoá bỏ cái củ lạc hậu. Sự kết hợp giữa các ngành còn chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ.
Ở lĩnh vực Giáo dục, Y tế, Thể dục thể thao và Thương binh xã hội cũng nổi lên một số vấn đề. Nhu cầu về học đối với con em nhân dân lao động chúng ta chỉ đáp ứng được trên 90%. Số trẻ em thất học còn nhiều phải tổ chức lớp đêm. Bổ túc văn hóa, sỉ số học ngày càng hạn chế, học sinh học ca 3 còn nhiều làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học. Phát triển Đảng trong khu vực trường học không có, Đoàn thanh niên và Công đoàn hoạt động yếu, tình hình tổ chức quản lý kém, thường hay xảy ra mất mát tài sản, một số giáo viên còn biểu hiện thiếu gương mẫu trong sinh hoạt giảng dạy thậm chí trốn đi nước ngoài, số đăng ký đi chưa được giải quyết ta còn để dạy làm ảnh hưởng đến tư tưởng thế hệ trẻ.
Việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình trong khu vực tôn giáo và người Hoa, việc trồng và sử dụng thuốc nam, thực hiện phương châm Đông Tây y kết hợp của ngành Y tế còn nhiều hạn chế. Việc quản lý các đối tượng ngành nghể, buôn bán thuốc tây còn thể hiện sự bưông lỏng nhất định . Hoạt động của thể dục thể thao chưa thực sự trở thành phong trào quần chúng rộng rãi, nhất là trong khu vực cán bộ công nhân viên.
Công tác cải tạo các tệ nạn xã hội của ngành chức năng thiếu sự phối hợp đồng bộ, tình hình ăn mày, ăn xin chưa có biện pháp giải quyết tích cực.
c. Về An ninh - Nội chính và quân sự địa phương:
- Về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nhìn chung chúng ta đã giữ được thế ổn định trong tìng hình khá phức tạp. Phong trào Bảo vệ an ninh Tổ quốc từ khi có các Nghị quyết 31 Bộ Chính trị, chỉ thị 92 và 119 của Ban Bí thư, Nghị quyết 11 của Ban thường vụ Thành ủy ... đã được các cấp ủy Đảng và ngành chức năng liên tục phát động bằng nhiều nội dung và hình thức phong phú, gắn chặt với việc thi hành Nghị quyết của Thành ủy về cơ chế tổ chức cấp cơ sở phường, Chỉ thị 41 của Ban thường vụ Thành uỷ về nhân điển hình tiên tiến cá nhân, tập thể đơn vị, tổ dân phố và khu phố... Từ điển hình phường 20, chúng ta đã nhân ra được lá cờ đầu khu phố 10 Phường 9, tổ dân phố 26 Phường 18 và liên tục các năm sau chúng ta đã đưa từ 4 phường có phong trào khá ban đầu lên 64/93 và 450 tổ dân phố khá lên 640/ 1133 tổ dân phố an toàn và văn hoá mới.
-Mặt khác để làm cho phong trào có chất lượng và đi vào chiều sâu, ngành chức năng đã thường xuyên tập huấn lực lượng an ninh cơ sở ; hằng năm tổ chức thao diễn kiểm tra kỹ thuật các lực lượng dân phòng. Nhìn chung phong trào quần chúng Bảo vệ an ninh Tổ quốc đã từng bước phát triể mang tình quần chúng rộng rãi và với những kết qủa trên chúng ta đã được khen thưởng : Lẵng hoa Bác Tôn, Cồ luân lưu của Bộ, Cờ Danh hiệu quyết thắng và nhiều bằng khen, giấy khen các cấp từ Quận lên Thành phố cho nhiều tập thể, cá nhân đơn vị.
Xây dựng lực lượng công an trong sạch vững mạnh, ngoài Nghị quyết cụ thể chuyên ngành, trong chỉ đạo cũng đã gắn chặt việc thực hiện chỉ thị 92 với chỉ thị 83 về phát thẻ Đảng viên để tiến hành kiện toàn cơ cấu tổ chức ngành công an từ quận đến cơ sở. Qua thực hiện Chỉ thị 92 từ điển hình năm 1982 có 18 đơn vị và hàng trăm cá nhân có thành tích xuất sắc ở các mức độ khác nhau. Năm 1980-1981 có 40 gương ngưòi tốt, việc tốt, đến năm 1982 tăng lên 162 người. Thực hiện chỉ thị 83 Đảng ủy công an đạt 98,2 % và trong hơn 3 năm đã kết nạp được 60 Đảng viên mới, 56 Đoàn viên và giới thiệu cho Đảng được 116 Đoàn viên ưu tú để bồi dưỡng phát triển Đảng.
- Về công tác quân sự địa phươn : Mấy năm gọi thanh niên nhập ngũ đạt các chỉ tiêu giao quận, công tác thu quân nhân đào bỏ ngũ và vận động trở lại đơn vị, giải quyết xuất ngũ đạt được một số kết quả khá cơ bản. Công tác hậu phương quân đội, công tác huấn luyện, củng cố tổ chức cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Phong trào quần chúng dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cơ sở đã tiến hành thường xuyên công tác thường xuyên công tác hậu phương quân đội, từng bước tập trung cao hơn, năm sau có những bước phát triển hơn năm trước và đặc biệt là năm 1982 chúng ta đã giải quyết được việc làm cho khá đông anh em hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về, sửa chữa nhiều nhà ở và xây dựng mới 1 số nhà khác trong diện chính sách, vận động quần chúng chăm lo vật chất cho các phường đội, gia đình nghĩa vụ quân sự, liệt sĩ, thương binh gặp khó khăn.
Công tác huấn luyện và củng cố tổ chức từ cuối năm 1979 do yêu cầu phải rút các sĩ quan ở các phường đội tạo nên tình hình thiếu cán bộ chủ chốt, nhưng đến nay qua nhiều đợt cũng cố các phường đội đã cơ bản ổn định tổ chức và hoạt động. Qua các đợt kiểm tra chất lượng có 50 % phường đội khá, 1 số nơi đạt danh hiệu quyết thắng, số còn lại trung bình và kém.
d. Hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Ban thanh tra
Từng bước hoạt động có sự phát triển tiến bộ, nhìn chung đã hoàn thành về cơ bản chức năng chủ yếu của mình, góp phần đấu tranh chống tiêu cực có hiệu quả nhất định, từng bước cải tiến được lề lối làm việc, duy trì được chế độ sinh hoạt, quan hệ hợp tác giữa các ngành trong khối,phát huy được chức năng trong việc thi hành và kiểm tra việc thực hiện pháp chế trong các cơ quan nhà nước và nhân dân, đã phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm pháp luật trong các cơ quan, các ngành kinh tế, văn hoá, giải quyết nhiều vụ cửa quyền ức hiếp quần chúng, tranh chấp nhà cửa, hôn nhân gia đình v.v.. Thành lập được hầu hết các Ban Thanh tra nhân dân ở các cơ sở Phường và1 số ngành trọng điểm. Công tác xét khiếu tố về cơ bản đã giải quyết gần như hầu hết các đơn khiếu nại, tố cáo của công dân theo luật định, còn tồn tại 1 ít song cũng đã và đang được ngành có biện pháp tiếp tục giải quyết.
Tuy đã đạt được những kết quả tốt, song lĩnh vực này cũng còn 1 số nhược điểm tồn tại nội lên. Nhìn chung phong trào An ninh bảo vệ Tổ quốc chưa thật vững chắc. Tình hình cán bộ chiến sĩ 2 lực lượng vũ trang vi phạm pháp luật kỷ luật nổi lên khá nhiều, nhất là lực lượng công an. Hơn 3 năm thi hành Chỉ thị 92 kết hợp với Chỉ thị 83 đã có 52 đồng chí bị thi hành kỷ luật với các hình thức và mức độ khác nhau, có đồng chí bị kỷ luật đến 2 lần nâng tổng số vụ vị phạm lên 62 vụ.
-Về tồ chức bộ máy, 1 số nơi còn yếu chưa đủ sức đảm đương nổi nhiệm vụ được giao nhất là ở các phường
-Công tác chính sách, giải quyết việc làm cho số anh em hoàn thàn nghĩa vụ quân sự trở về chỉ đáp ứng được 1/3 trên tổng số.
-Công tác tuyển quân tuy đạt yêu cầu về chỉ tiêu số lượng, song chất lượng còn kém, số đào ngũ bỏ ngũ trở về còn khá đông, tỷ lệ cao.
-Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc phát triển không đồng đều, cơ quan xí nghiệp 1 số nơi phong trào có chiều rộng nhưng chưa sâu, chưa chuyển hoá được về cơ bản tình trạng yếu kém ở các địa bàn trọng điểm nhất là khu vực tập trung người Hoa và Thiên chúa giáo.
-Việc nắm tình hình và quản lý nhân hộ khẩu còn đang là khâu yếu. Công tác đấu tranh khám phá trọng án chậm đạt kết quả.
-Về tình hình xã hội phát triển nhiều mặt phức tạp: vi phạm giao thông quá nhiều, tự tử chết đa số là nữ. Trẻ em phạp pháp tăng nhanh, công tác quản lý giáo dục số thanh niên hư hỏng, người lạc hậu chậm tiến, người cải tạo và cưỡng bức lao động được tha về chưa đặt thành chế độ kiểm tra quản lý thường xuyên chặt chẽ để chủ động phòng ngừa hạn chế tái phạm, chưa thực sự phát huy tác dụng công tác cải tạo chế biến.
-Về hoạt động nội chính, 1 số Ban thanh tra nhân dân cơ sở phường chưa phát huy được tác dụng, các thành viên ít tham gia sinh hoạt, thậm chí không sinh hoạt nhưng chậm được củng cố
Công tác xét xử chưa đáp ứng được nhu cầu trọng điểm của Đảng bộ trong từng thời gian. Những vấn đề nóng bỏng chung quanh về đời sống xã hội nhất là lĩnh vực kinh tế. Sự phối hợp giữa các ngành chức năng và việc vận dụng đường lốicủa Đảng trong công tác xét xử chưa tốt,.
Quyền làm chủ tập thể của nhân dân chưa được đảm bảo và tôn trọng đầy đủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa được thi hành nghiêm và chưa quán triệt rộng rãi trong cán bộ nhân viên và nhân dân
Đơn từ khiếu nại, khiếu tố của công dân giải quyết chưa thật kịp thời. Việc đưa luật vào quản lý Nhà nước chưa đầy đủ, có những quyết định của cấp trên, cấp dưới có lúc không thi hành, còn cục bộ tùy tiện
III. CÔNG TÁC ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN VÀ ĐOÀN THỂ :
1. Về xây dựng Đảng :
Để đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ và các chủ trương Nghị quyết của Đảng trong từng thời gian. Mấy năm qua Đảng bộ chúng ta đã tiến hành thực hiện nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, bám chặt Nghị quyết của Ban chấp hành trung ương về kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc, Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị về thực hiện 1 sự chuyển biến sâu sắc về tổ chức nhằm tăng cường lãnh đạo, quản lý nhất là quản lý kinh tế, Nghị quyết 36 về công tác tư tưởng, dồn sức tập trung củng cố cơ sở đủ mạnh. Theo những yêu cầu nói trên, ngoài những vấn đề như tổ chức hội nghị định kỳ cơ sở, tổng kết, bồi dưỡng lý luận chính trị cơ bản cho Đảng viên, sinh hoạt thời sự, học tập các chủ trương chính sách lớn của Đảng, công tác tư tưởng xoáy sâu xung quanh các vấn đề phát động tư tưởng tiến công cách mạng, ý thức tự lực tự cường, tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, thực hiện tự phê bình và phê bình trong nội bộ trước quần chúng, phát động phong trào chống tư tưởng và hành động tiêu cực, chống vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát huy tinh thần thu đua học tập và nhân điển hình tiên tiến... Đến nay, về cơ bản những yêu cầu nói trên đã được thực hiện đầy đủ, phần lớn đường lối, chủ trương, chính sách, chỉ thị, Nghị quyết của Đảng đã được triển khai quán triệt trong toàn Đảng bộ, quần chúng có tổ chức và 1 một số bộ phận quần chúng rộng rãi ngoài xã hội và được cấhp hành thực hiện.
Về kiện toàn tổ chức, việc làm có tính chất xuyên suốt tập trung nhất là thi hành chỉ thị 83. Chúng ta đã xác định đó là công tác trọng tâm để kiện toàn củng cố tổ chức Đảng nhằm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ. Mấy năm liên tục thi hành chỉ thị 83 đã đưa ra khỏi Đảng 30 trường hợp. Trong năm 1982, thi hành thông tri 09, các cơ sở tiến hành kiểm điểm xác định tư cách Đảng viên đã bỏ phiếu tín nhiệm đủ tư cách 854/908 đồng chí, trong số đủ tư cách có 158 đồng chí được chọn là ưu tú, để lại giáo dục 45, đưa ra khỏi Đảng 1 trường hợp. Hiện nay còn tồn 8 đồng chí chưa xét được tư cách trong đó có 4 đồng chí đi học đã chuyển sinh hoạt và 1 trường hợp bị đình chỉ sinh hoạt.
Hàng năm thực hiện thông tri 2540, số chi bộ trong sạch vững mạnh từng bước có phát triển nâng lên. Năm 1980 có chi bộ phường 18, năm 1981 có 2 chi bộ phường 18 và xí nghiệp Việt Hương Hải đã được thành phố công nhận và năm 1982 qua tổng kết phát thẻ Đảng viên phân loại chi bộ ở bước tự bình chọng (chưa được duyệt) khối phường có 4 chi bộ tự nhận là trong sạch vững mạnh, ngành có 3 chi bộ, tỷ lệ chi bộ khá có 15 phường, chi bộ yếu có 3 phường. Riêng ngành có 37/41 đơn vị khá, còn 4 chi bộ yếu. Qua thực hiện chỉ thị 83, đã chứng tỏ đây là 1 cuộc sinh hoạr chính trị sâu sắc nhất, đã nâng cao ý thức Đảng, loại ra khỏi Đảng 1 số không đủ tư cách, từng bước làm trong sạch hoá đội ngũ, thu hẹp dần diện cơ sở Đảng yếu kém, nâng cao được năng lực và sức chiến đấu của Đảng bộ.
Song song với công tác phát thẻ Đảng viên, Ban chấp hành Đảng bộ mà tập trung là Ban thường vụ đã chỉ đạo các Ban Đảng và cấp ủy cơ sở thực hiện yêu cầu chỉ đạo của Thành ủy về Đại hội Đảng cơ sở, chúng ta đã tiến hành các công việc cần thiết theo yêu cầu Đại hội, đã mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị học tập Nghị quyết V, Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị về tình hình thành phố, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương khoá V... Đến nay Đại hội các cơ sở đã thực hiện xong, nhân sự đảm bảo được yêu cầu cơ cấu và năng lực lãnh đạo khá, đúng dự kiến của Thường vụ. Mặt khác, trong quá trình tiến hành kiện toàn tổ chức Đảng chúng ta đã hình thành được 10 chi bộ mới.
Về phát triển Đảng, qua các phong trào quần chúng, chúng ta đã kết nạp vào đội ngũ của mình được 144 Đảng viên mới. So với nhiệm kỳ trước cao hơn 102 đồng chí. Tuy không đạt chỉ tiêu đại hội đề ra, song việc kết nạp Đảng viên thực tế đã nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ Đảng, đáp ứng được yêu cầu kế thừa, bổ sung vào các Đảng viên hư hỏng bị đưa ra khỏi Đảng, qua đại hội các cơ sở Đảng có 20 đồng chí Đảng viên đa số là trẻ, nữ mới kết nạp sau 1975 được bầu vào cấp ủy. Đặc biệt phường 13 với cơ cấu cấp ủy 5, trong đó có 4 Đảng viên trẻ, 2 đồng chí nữ.
Các mặt hoạt động khác như công tác chính sách, đề bạt cán bộ cũng được tiến hành thường xuyên ; mấy năm qua chúng ta cũng đã bổ nhiệm nhiều đồng chí gồm Trưởng phó Ban, Chủ nhiệm phó chủ nhiệm đồng thời xếp lương giải quyết chính sách,cho nghỉ hưu, mất sức và xếp vào biên chế 1 số khá đông.
Về đào tạo, chúng ta cũng đã mở 1 số lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cơ bản cho Đảng viên mới kết nạp, đối tượng Đảng, đưa đi học trường Đảng của Thành phố hầu hết các cấp ủy viên cơ sở và 1 số Đảng viên mới có triển vọng nằm trong quy hoạch kế thừa, 1 số đi học Trung cấp chính trị tại chức và 3 đồng chí học trường cao cấp : 01 ở Hà nội, 02 ở Thành phố
Về hoạt động kiểm tra, 4 nền nếp xây dựng chi bộ được đưa vào sinh hoạt Đảngtừng bước đi vào chiều sâu, đến nay đã có 60/66 cơ sở thực hiện, 48 chi bộ có Nghị quyết chuyên đề, 312 đồng chí đăng ký phấn đấu rèn luyện theo nội dung nói trên. Qua thực hiện 4 nền nếp sinh hoạt chi bộ đã có những bước chuyển biến khá tốt.
Mặt khác,chúng ta đã kết luận 1 số vấn đề về vi phạm kỷ luật của Đảng viên và đã thi hành kỷ luật 127 đồng chí gồm các hình thức và mức độ khác nhau từ khiển trách đến khai trừ ra khỏi Đảng, so nhiệm kỳ trước giảm 6 đồng chí, song về tính chất có vụ nghiêm trọng hơn.
Về nội dung sai phạm bao gồm các vấn đề trên nhiều lãnh vực khác nhau, song phổ biến là tham ô móc ngoặc, hối lộ, làm ăn phi pháp và hũ hoá. Tính chất sai phạm thể hiện rõ là có 1 bộ phận Đảng viên có biểu hiện mơ hồ về quan điểm lập trường giai cấp, không phân biệt ranh giới trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa 2 con đường. Trong số bị kỷ luật nói trên, có 23 đồng chí bị khai trừ. Về Đảng, Quận ủy viên có 8 đồng chí (trong đó có 4 đồng chí ở nhiệm kỳ trước chưa kết luận chuyển sang); Chi ủy viên có 29 đồng chí, trong đó có 13 Bí thư và phó bí thư; Đảng viên thường 90 đồng chí. Đáng chú ý trong tổng số bị kỷ luật có 9 đồng chí bị thi hành kỷ luật 2 lần và 01 đồng chí bị 3 lần và riêng ngành công an chiếm 62 trường hợp gồm 52 đồng chí.
Kết qủaviệc thi hành kỷ luật Đảng viên vi phạm đảm bảo được phương châm, nguyên tắc không có trường hợp sai sót xảy ra, đã từng bước làm trong sạch hoá đội ngũ Đảng, giải quyết được phần nào tệ tiêu cực trong Đảng, ngăn ngừa và hạn chế tái phạm đối với Đảng viên góp phần nâng cao được sức chiến đấu của Đảng bộ lên một bước mới.
Những thành tựu nói trên trong công tác xây dựng Đảng chúng ta đánh giá là cơ bản. Tuy nhiên, cũng còn nhiều thiếu sót làm hạn chế không ít đến thành tích chung của Đảng bộ. Mặt yếu trước hết của công tác xây dựng Đảng là công tác chính trị tư tưởng chậm chuyển hướng theo kịp với tình hình, thiếu sắc bén, có mặt còn giản đơn một chiều, chưa bám chặt vào những vấn đề trong tâm theo chỉ đạo của Đảng. Điều cơ bản là chưa là thấu suốt đường lối của Đảng cho cán bộ Đảng viên trong thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, chưa tạo được sự nhất trí cao trên cơ sở những căn cứ lý luận và thực tiễn đầy đủ. Trong lĩnh vực đời sống xã hội, việc đưa một nền kinh tế từnền sản xuất nhỏ mất cân đối lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh gia cấp giữa 2 con đường gắn liền với đấu tranh, kiểu chiến tranh chống phá hoại nhiều mặt của địch nhứt là phá hoại về kinh tế và tư tưởng là một vấn đề hết sức phức tạp, 1 cuộc đấu tranh gay gắt, chúng ta chưa là cho đội ngũ cán bộ Đảng viên và quần chúng hiểu ra sâu sắt điều đó.
Thời gian qua, trong việc chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện các chủ trương nghị quyết của Đảng đã có một số Đảng viên vi phạm khuyết điểm mặt này hay mặt khác, ỡ lãnh vực nào cũng có là do chưa nhận rõ nội dung cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn cách mạng mới, thiếu rèn luyện đạo đức cách mạng, mất phương hướng trước sự cám dỗ của vật chất, ý chí chiến đấu bị sa sút, biến chất, thoái hoá, bỏ việc, bỏ nhiệm vụ, cá biệt có phần tử trốn đi nước ngoài, Một số ít còn biểu hiện mơ hồ về quan diểm giai cấp, về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ còn 5 thành phần kinh tế. Một số khác tự phát đitheo con đường tư bản chủ nghĩa làm ăn ngoài quỹ đạo, vi phạm qui định quản lý Nhà nước đã trở thành đối tượng cách mạng, thậm chí có Đảng viên lợi dụng chức quyền vi phạm nghiêm trọng tài sản nhà nước, móc ngoặc với gian thương làm ăn phi pháp điền hình như ở xí nghiệp cung ứng vật tư.
-Mặt khác công tác tổ chức và công tác cán bộ biểu hiện một số mặt còn yếu kém. Chúng ta chưa xác lập được cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, đồng thời cũng chưa xây dựng được 1 cơ cấu tổ chức đồng bộ đủ mạnh trong các khu vực trọng điểm nhứt là khu vực sản xuất và phân phối lưu thông nhằm để phát huy sức mạnh tổng hợp.
-Công tác cán bộ chưa đi vào qui hoạch, chưa có kế hoạch đào tạo lâu dài, chưa cân đối với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, còn chắp vá bị động. Việc nắm và bố trí cán bộ chưa được chặt chẽ và sâu sát, có 1 số trường hợp bố trí cán bộ năng lực chưa cân xứng với yêu cầu nhiệm vụ.
-Chất lượng sinh hoạt của một số chi bộ còn thấp, chưa đảm bảo tính chất- năng lực lãnh đạo của một số cấp ủy có tình trạng yếu kém kéo dài nhưng chậm được cũng cố thay đổi. Nhiều chi bộ nhứt là chi bộ ngành, khâu yếu là chưa thực sự chăm lo các đoàn thể quần chúng.
-Việc tự phê bình và phê bình trong Đảng còn biểu hiện sự nể nang nhứt là đối vối tập thể lãnh đạo chủ chốt. Những vướng mắc trong nội bộ, vướng mắc giữa trên và dưới chậm được giải quyết để trì trệ kéo dài, thậm chí có lúc, có việc buông trôi.
-Công tác thanh kiểm tra việc chấp hànhđường lối, chính sách, cá Nghị quyết của Đảng nhứt là công tác kiểm tra ở cơ sở chưa thực hiện đầy đủ. Một số vụ việc còn dính líu đến Đảng viên là cán bộ phụ trách, công tác kiểm tra, thanh tra kết luận còn chậm. Việc thi hành kỷ luậtvề chế độ trách nhiệm đối với Đảng viên ít được đề cập đế.
-Công tác phát triển Đảng qúa chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, có nơi suốt nhiệm kỳ không phát triển được đảng viên nào, phát triển không cân đối, chưa đi sâu vào khu vực chức tiếp sản xuất, kinh doanh (hợp tác xã tiêu thụ phường, các cửa hàng, hợp tác xã sản xuất, trường học), nhiều cơ sở còn trắng.
2. Công tác chính quyền :
Chính quyền chuyên chính vô sản được củng cố kiện toàn sau các kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân và thực hiện cơ chế tổ chức cấp cơ sở phường của Thành uỷ. Chất lượng hoạt động có những chuyển biến tiến bộ rõ rệt. Thời gian qua, chúng ta đã sử dụng bộ máy ấy để lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, những công tác lớn có ý nghĩa chiến lược về cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, tổ chức đới sống nhân dân, tăng cường quốc phòng và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Ở lĩnh vực kinh tế, nét nổi bật là đã hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước 3 năm liền. Vể an ninh chính trị, đã giữ được thế ổn định –công tác quân sự địa phương : đã hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hàng năm v.v..Những kết quả đó chứng tỏ bước tiến bộ, chất lượng và hiệu lực cơ quan quản lý nhà nước trong thời gian qua. Mặt khác về sinh hoạt cũng đã duy trì được đều đặn. Các cơ quan dân cử thườngxuyên tiếp xúc lắng nghe ý kiến cử tri. Ban điều hợp tiếp dân tiếp xúc và giải quyết được một số vụ việc phản ánh nguyện vọng, khiếu nại của cư tri. Hội đồng nhân dân trong các kỳ sinh hoạt cũng có nhiều đại biểu đã đóng góp tích cực trong việc xây dựng kế hoạch hoạt động.