Trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ quận đã chụi nhiều tác động trên cả hai mặt thuận lợi và khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đời sống:
- Các Nghị quyết 6, 7 và 8 của Trung ương là dấu mốc quan trọng của sự chuyển hướng căn bản về kinh tế xã hội, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Sau Đại hội tháng 5-1983, Ban Chấp hành Đảng bộ quận có sự đổi mới về tư tưởng và tổ chức. Đặc biệt năm 1985 có nhiều ngày kỷ niệm lớn, các phong trào hành động cách mạng của quần chúng được phát động liên tục đãcó tác động thúc đẩy sự phát triển của quận.
- Khó khăn thường xuyên của nền kinh tế vốn đã mất cân đối, lại có khuyết điểm trong lãnh đạo, điều hành, quản lý, nên ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, gay gắt nhất là thời điểm trước và sau đổi tiền. Từ sau đổi tiền, tình hình có nhiều diễn biến phức tạp làm hạn chế tốc độ phát triển trên nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng xấu đến đời sống, đến lòng tin của quần chúng.
Đợt tự phê bình, phê bình và sửa chữa các khuyết điểm vừa qua đạt được một số chuyển biến trong Đảng bộ, Đại hội này tiếp tục kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội III của quận, đánh giá chính xác ưu, khuyết điểm để định hướng phù hợp.
Phần một
Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ III
Những nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế – xã hội của quận do Đại hội lần trước đặt ra, có những chỉ tiêu đạt được và thực hiện vượt mức, có những chỉ tiêu không đạt, có mặt phát triển mới cao hơn. Mặc dù, chúng ta đã làm được rất nhiều điều nhưng mục tiêu thức nhất “Ổn định và cải thiện dần đời sống: của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ III vẫn còn là vấn đề bức bách nhất trong thảo luận tại đại hội này.
1/ Kinh tế có phát triển nhưng nhiệp độ còn chậm chưa giải quyết được căn cơ về đời sống.
A/ Công ngiệp –tiểu thủ công ngiệp:
Công ngiệp quốc doanh khắc phục được tình trạng suy yếu, lổ lã và tiêu cực ngiêm trọng trong nhiệm kỳ trước. Giá trị tổng sản lượng vượt 20% chỉ tiêu đại hội, tốc độ phát triển tăng 4 lần so năm 1982. Các khoản nộp ngân sách mỗi năm mỗi tăng. Kết quả củng cố đã có hiệu quả nhất định. Nhưng tỉ trọng còn nhỏ bé, không góp phần tích luỹ đáng kể cho ngân sách, phát triển chưa hướng vào cơ cấu. Chưa có đầu tư chiến lược. Thiếu đào tạo cán bộ chuyên ngành. Có thể rút ra ngay bài học cho Ban Thường vụQuận uỷ về công tác cán bộ, không chỉ riêng ở lĩnh vực công nghiệp mà còn ở các lĩnh vực khác.
Tiểu thủ công nghiệp hàng năm đều hoàn thành vượt mức kế hoạch của Thành phố về giá trị tổng sản lượng, nhưng nhịp độ phát triển chậm lại rõ rệt, không đạt tốc độ 20% Nghị quyết Đại hội (chỉ đạt từ 10 – 15%) vì những mất cân đối ngày càng tăng lên.
Xây dựng kế hoạch từ cơ sở có tác động tích cực, phát huy tính năng động sáng tạo chủ động tổ chức sản xuất của cơ sở. Tuy chưa làm rõ được các nguồn cân đối, song thực tế có thể thấy rõ: một là cơ sở tự lo, hai là gia công, ba là quận tự lo. Thứ tự cân đối này dẫn đến kết luận là chăm lo đầu vào chưa tốt nên rất khó khăn đầu ra. Đã đề cập đến nhiều trong các Nghị quyết và chương trình của Quận uỷ nhưng công việc thực tế là dẫm chân tại chỗ, mà vấn đề này đối với chúng ta là rất cấp bách, sản xuất vẫn luôn trong tình trạng bấp bênh.
Công tác cải tạo, tổ chức sắp xếp lại sản xuất có một số kết quả: hình thành 1 xí nghiệp hợp doanh, 17 xí nghiệp đời sống, phát triển 50 cơ sở diện Quyết định 34. Chính sách đã mở nhưng việc thực hiện còn chậm chạp. Hình thức tập thể được mở rộng về số lượng (46 hợp tác xã, 188 tổ sản xuất) nhưng chất lượng còn nhiều vấn đề, tổ chức quản lý, phân phối chưa được chú trọng, lực lượng chính trị còn quá ít về số lượng và yếu về chất lượng.
Cơ chế quản lý gây phiền hà, bách bức gây trở ngại cho sản xuất. Bộ máy quản lý quan liêu hành chính, nắm tình hình không sát, nắm giá trị tổng sản lượng không đầy đủ. Chưa phát huy vai trò quản lý và phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của phường. Chưa tập trung xây dựng nói rõ các ngành thế mạnh.
b) Nông nghiệp:
đã hoàn thành cơ bản việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể, nâng cao hình thức tập thể. Có một số điển hình tốt, có mô hình.
Năng xuất, sản lượng cây trồng tăng. Đạt được kết quả nhờ áp dụng các biện pháp tiên tiến, hệ thống thuỷ lợi tương đối hoàn chỉnh, cơ sở vật chất được đầu tư, cơ chế khóan áp dụng rộng rãi.
Nhưng sự tiến bộ chưa đều, có nơi diễn ra một cách chậm chạp thậm chí thụt lùi. Tập đoàn 3, phường 22 những năm phát triển tốt nhưng từ khi hợp nhất với tập đoàn 4 lên Hợp tác xã Phú Lợi giải quyết những tồn tại của từng tập đoàn không triệt để, so với quy mô của 1 hợp tác xã lớn và phức tạp thì trình độ quản lý của cán bộ không theo kịp. Đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã được cơ cấu vào nhiều tổ chức nhưng thiếu được giáo dục nên sinh ra tự mãn, kiêu căng và đi đến thái hóa nghiêm trọng. Tình hình hợp tác xã năm 1985 đã có dấu hiệu sa sút, ăn chia phân phối và khoán sản phẩm không đúng theo hướng dẫn, ngành chức năng không kịp thời kiểm tra uốn nắn. Bộ máy của quận, phường đã tỏ ra quan liêu xa rời quần chúng, công tác kiểm tra không tốt.
Việc khai thác tiềm năng chưa tốt, chăn nuôi chưa trở thành ngành chính, chỉ tiêu đàn heo không đạt do nhiều năm liền chưa có biện pháp căn cơ giải quyết khó khăn, năng suất cá còn thấp gia cầm phát triển chậm, diện vụ 1 vụ còn nhiều. Chỉ tiêu 200ha lát không thực hiện được do vướng chính sách. Cơ cấu cây con còn phải tiếp tục nghiên cứu. Ngành nghề có phát triển nhưng chưa đều. Sản phẩm nông nghiệp để thất thoát, thương nghiệp xã hội chủ nghĩa tổ chức thu mua chưa tốt. Cán bộ chủ chốt 1 số hợp tác xã, tập đoàn thiếu tháo vát, sáng tạo, dám nghỉ, dám làm công tác kế hoạch, kế toán tài chính yếu.
Nông trường Duyên Hải chuyển hướng sản xuấtkinh doanh, mở rộng liên kết kinh tế có hiệu quả bước đầu. Xí nghiệp chăn nuôi Rạch Lào không khai thác được tiềm lực mà còn lỗ liên tục. Quận uỷ và Uỷ ban chậm thống nhất xác định nguyên nhân để có biện pháp giải quyết cụ thể.
c) Xây dựngcơ bản nhà đất – công trình công cộng, giao thông vận tải:
Trong thời gian nhiệm kỳ, đã hoàn thành đưa vào sử dụng 25 công trình phục vụ sản xuất – kinh doanh và đời sống theo Nghị quyết Đại hội vạch ra. Chưa có nhiệm kỳ nào chúng ta xây dựng được nhiều công trình như nhiệm kỳ qua với tỷ lệ vốn Thành phố giảm dần và vốn quận tăng lên (trong đó có một sốcông trình huy động vốn của dân 30%).
Khuyết điểm là cơ cấu dầu tư thiếu tập trung cho khu vực sản xuất kinh doanh , nhất là các ngành thế mạnh , để cổ tích lủy , hiệu quả dầu tư dã qua chưa cao .Chất lượng xây dựng còn thấp .Năng lực xây dựng của lực lựơng quấc doanh yếu ,trong khi năng lực xây dựng của tư nhân lớn nhưng chưa dược cải tạo , tổ chức và sử dụng tốt.
Một trong những tiềm lực kinh tế của quận 8 là kho bãi. Có điều là trên lãnh thổ nhưng nhiều ngành nhiều cấp quản lý, hơn 10 năm qua, dịch vụ này không có trong cơ cấu kinh tế của quận. Nếu Thành phố không xác định lại cơ cấu kinh tế của quận trong những năm tới là công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, cảng, thương nghiệp thì phải giải quyết vấn đề phân cấp quản lý kho bãi cho quận, vì kho bãi gắn liền với cảng.
Việc quản lý, điều chỉnh, phân phối nhà ở đã có chuyển biến dĩ nhiên là tốt hơn lúc trước nhưng một trong giai đoạn nào đó đã chựng lại, thỏa mãn ở một số việc làm được, không cải tiến thêm, qui chế phân phối nhà không tốt đã tạo kẻ hở cho tiêu cực, cửa quyền, thiếu công khai và công bằng.
Tình hình quản lý công trình công cộng cũng có nhiều vấn đề. Đã giải quyết cơ bản cống thoát nước phướng 19 và ống nước tuyến đường Phạm Thế Hiển trong tình hình còn rất khó khăn, lại còn có mối quan hệ trên dưới. Khả năng tham gia giải quyết của quần chúng là lớn nhưng trách nhiệm của các ngành các cấp chưa cao.
Giao thông vận tải hằng nằm đều hoàn thành kế hoạch khối lượng vận chuyển trung chuyển, nhưng tốc độ phát triển chậm lại vì khó khăn về nhiên liệu và phụ tùng thay thế. Khối lượng duy tu cầu đường tăng lên nhờ phát triển hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, đặc biệt ở khu phố, tổ dân phố.
Tồn tại là chưa phát huy được thế mạnh giao thông thuỷ, chưa khai thác hiệu quả kinh tế, chất lượng cải tạo ngành còn thấp. Cầu đường do Thànyh phố quản lý hư hỏng nặng, gây nguy hiểm cho nhân dân nhưng không được sửa chữa tốt, trong khi số lượng xe tải vào quận 8 tăng vọt lên không ngừng.
d) Thương nghiệp:
Khắc phục được khuyết điểm buông lê cải tạo. Công tác cải tạo có tập trung và đạt được một số kết quả.
Tình hình diễn biến phức tạp. Đã có nhiều cố gắng xoay sở giải quyết vướng mắc về cơ chế, giá, tiền, phương thức kinh doanh, phân công phân cấp phù hợp từng giai đoạn làm cho sản xuấtlưu thông không bị ách tắc quá lâu trước biến động thường xuyên của thị trường.
Kế hoạch mua vào bán ra hoàn thành với doanh số tăng (do yếu tố giá) thương nghiệp vẫn là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng và ngân sách địa phương. Tỉ trọng chiếm lĩnh thị trường từ 25% năm 1982 lên 50% trước tháng 9/1985, các mặt hàng chủ yếu đạt được cao hơn chỉ tiêu đại hội. Phương thức phân phối có cải tiến. Hệ thống hợp tác xã tiêu thụ phường có một bước vươn lên, điển hình phường 18 được nâng lên anh hùng và nhân rộng ra được từng mặt ở nhiều nơi. Có kinh nghiệm nhất định trong việc cải tạo một số ngành hàng cũng như việc gắn thương nghiệp hai đầu loại tư thương đường dài trong hoạt động hợp tác liên kết kinh tế.
Nhưng tiến độ phát triển còn chậm thường xuyên căng thẳng trong cân đối tiền hàng, hiện nay mất cân đối nghiêm trọng, hiệu quả kinh doanh xã hội chủ nghĩa còn thấp. Phục vụ đời sống chưa tốt, khuyết điểm quan trọng của thương nghiệp trong thời gian dài là chưa gắn chặt sản xuất và phục vụ sản xuất, phục vụ tích luỹ chưa tương xứng với điều kiện nhà nước giao cho. ăn uống và dịch vụ phát triển không đúng hướng. Chất lượng cải tạo còn nhiều vấn đề. Buông lỏng chuyên chính trong cải tạo, quản lý thị trường, giá cả.
đ) Xuất khẩu:
Giai đoạn trong nhiệm kỳ là thời kỳ phát triển ngành xuất khẩu, xác định là một mủi nhọn của nền kinh tế địa phương. Hoạt động xuất khẩu mở rộng nhiều biện pháp, chủ yếu là chuyển quỹ hàng hóa đối lưu để trao đổi nông sản, thuỷ hải sản, thu mua các nguồn qui tụ về địa bàn, xây dựng nguồn hàng chế biến và hàng tiểu thủ công nghiệp tại chỗ, liên kết kinh doanh xuất khẩu với các ngành trong quận, các địa phương bạn và được Thành phố cho phép hợp tác với 1 công ty việt kiều Nhật Bản. Kết quả là đã hình thành được 2 nhóm hàng chủ lực: nhóm lát và hệ thống các mặt hàng thuỷ, hải, súc sản, trong đó thế mạnh vẫn là các chế phẩm từ cho vịt, trứng vịt, tương lai sẽ là con heo. Hàng đối lưu (bao gồm hàng nhập khẩu và nội địa) ngoài phần chủ yếu làm quỹ hàng hóa trao đổi để tái tạo hàng xuất, quận đã chú ý trích 1 tỷ lệ thích đáng hàng nhập phục vụ cho sản xuất và tăng cường cho quỹ hàng hóa thương nghiệp phục vụ đời sống.
Tuy nhiên, sự phát triển ngành xuất khẩu thời gian qua chưa tương xứng với vị trí 1 ngành kinh tế mũi nhọn, mức độ hoạt động và hiệu quả còn thấp so các quận, huyện bạn trong Thành phố, chưa phát huy thế mạnh ngành tiểu thủ công nghiệptrong xuất khẩu, chưa ngắn với sản xuất và phục vụ tốt sản xuất, nhóm hàng gọi là chủ lực còn bấp bênh, thị trường tiêu thụ. Nguyên nhân chủ yếu là chỉ đạo hoạt động xuất khẩu chưa có chiến lược, đầu tư cho nó chưa đúngmứcvề lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ có 1 giám đốc kiêm bí thư chi bộ trong 3 năm qua mà khó khăn tác động từ nhiều phía. Cơ chế và chính sách của các cơ quan ngoại thương Trung ương và Thành phố đối với cơ sở còn nhiều vướng mắc nên không tập trung về 1 đầu mối được, nơi nào có hiệu quả thì quận cung ứng đương nhiên là phải thông qua tổng công ty và UBND Thành phố, trong phạm vi quận cũng tương tự, bản thân công ty cung ứng hàng xuất khẩu chưa có chính sách tốt, chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích đối với các đơn vị có nguồn hàng xuất, để lãng phí, thất thoát trong phạm vi của quận.
e) Vấn dề hợp tác và liên kết kinh tế ;
Từ thực tế và tiếp thu quan điểm của Thành ủy trong vấn đề liên kết kinh tế ,mấy năm qua lảnh dạo quận luôn xác dịnh với lảnh dạo các huyện thuộc tỉnh ,quan điểm là xây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài ,khai thác tiềm năng hai pên ,phát triển sản xuất , cải tạo tư thương là vấn dề chiến lược trong phát triển kinh tế xã hội của 2 dịa phương .Nhờ có quan diểm dúng dắn nên quan hệ ngày càng mở rộng (hơn 6o dơn vị của 2o tỉnh ), khơi dược nguồn hàng dưa về phục vụ dời sống và xuất khẩu , một số nơi tiến vào chiều sâu kết nghỉa ,gắn thương ngiệp hai dầu loại tư thương dường dài bước dầu có một số kết quả nhất dịnh ở một vài nơi dốivớimặtmặt hàng cá .
Nhưng quan diểm trên chưa dược thông suốt trong các ban ngành quận ,thực hiện còn nhiều lệch lạc , chỉ áp dụng phươn thức trao dổi ,mua bán dơn thuần , tính toán thiệt hơn với nhau nên thường gặp bế tắ́c khi vướng mắc về giá cả ;gắn thị trường hai dầ̀u để cải tạo tư tưởng và phương thức hợp tác cùng chịu trách nhiệm chưa tốt, chưa chú trọng phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp quận dể tạo lợi thế trong liên kết ;phương thức hợp tác sản xuất nhẳm bổ sung thế mạnh cho nhau chưa dạt yêu cầ̀u.
Nguyên nhân trực tiếp của những lệch lạc trên là Ban hợp tác kinh tế hoạt động không có phương hướng, chưa làm tham mưu giúp Quận uỷ, Uỷ ban điều hành hoạt động hợp tác liên kết kinh tế, mặc dù có một số đồng chí Quận uỷ viên và gần hết thường trực uỷ ban có chân trong đó. Nguyên nhân sâu xa là Quận uỷ chưa nhận thức đầy đủ vị trí của 1 quận trực thuộc Thành phố trung tâm khu vực, nhận thức vấn đề hợp tác, liên kết kinh tế chưa sâu nên chỉ đạo hoạt động này chưa đúng mức. Thể hiện: chậm củng cố Ban hợp tác kinh tế, chậm tổng kết, liên kết ở các phường, thiếu kiên trì xây dựng liên kết kinh tế trên địa bàn.
g) Khoa học kỹ thuật:
Về mặt lãnh đạo chúng ta thiếu đầu tư đúng mức đối với lĩnh vực Khoa học kỹ thuật, tuy đã nhận thấy tầm quan trọng của nó trong phát triển kinh tế – xã hội và đời sống nhưng chỉ đạo thực hiện chưa ra, có định hướng nhưng chưa cụ thể, và sau đó không ai theo định hướng để chỉ đạo cho khoa học kỹ thuật - sản xuất gần nhau và gắn với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Tổ Khoa học kỹ thuật, Hội đồng Khoa học kỹ thuật mới được hình thành, tập hợp lực lượng nhưng chưa phát huy được tác dụng thiết thực, nhiều đề tài xoay quanh sinh học, nông nghiệp còn đang nghiên cứu, chỉ mỗi 1 đề tài sử dụng men Bromeline được đưa vào kế hoạch sản xuất cho năm 1987. Uỷ ban chưa theo sát để khai thác khả năng, đặt Khoa học kỹ thuật chưa đúng liều lượng, chưa có chính sách, chế độ phát triển Khoa học kỹ thuật. Việc ứng dụng tiến bộ Khoa học kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật có phát triển ở cơ sở, cũng đã có nhiều sáng kiến hợp lý hóa phù hợp với tình hình và điều kiện sản xuất, nhưng thiếu đi chất men làm dấy lên phong trào, chưa đi sâu vào quản lý chất lượng sản phẩm, Khoa học xã hội, Khoa học quản lý ít được chú ý tới.
h) Hoạt động của các ngành kinh tế tổng hợp:
Các ngành kinh tế tổng hợp hoạt động tốt hơn trước kia, có hướng và mục tiêu chung mà tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc. Vai trò tham mưu, tác chiến có hiệu quả nhất định. Nhưng điều chủ yếu cần nói hôm nay là những thiếu sót đã qua và những gì chưa làm dược, vì các ngành này có vai trò quan trọng trong vấn đề hiệu lực của bộ máy chính quyền. Tồn tại chung nhất của các ngành kinh tế tổng hợp là chưa phân rõnhiệm vụ quản lý hành chính với sản xuất kinh doanh, nên canthiệp quá sâu vào sản xuấtkinh doanh mà lại nhẹ vấn đề kiểm tra phát huy kịp thời những mặt tốt, kịp thời uốn nắn sai sót, phát huy chính sách đòn bẩy, gỡ những vướng mắc phát huy cao hiệu lực quản lý, chưa tác động các ngành sản xuấtkinh doanh phát triển hướng vào cơ cấu kinh tế mà Đại hội III đã xác định.
Ban kế hoạch chưa thể hiện là trung tâm điều khiển hoạt động kinh tế - xã hội cuả quận. Khả năng dự đoán xu thế phát triển và nắm bắt thực tiễn còn yếu. Xây dựng kế hoạch thường làm theo lối mòn, chưa có căn cứ khoa học. Vì vậy, tính pháp lệnh trong kế hoạch của quận đã bị yếu đi, những con số gọi là “chỉ tiêu phấn đấu” chưa bao giờ đạt được. Phương pháp thống kê chưa được cải tiến, thông tin kinh tế chưa xuyên suốt, thiếu nhạy bén và kịp thời báo cáo của các ngành, các cấp thiếu trung thực. Quận uỷ đã phê phán nhiều nhưng chưa thi hành kỷ luật về Đảng đối với 1 cán bộ lãnh đạo nào. Nhược điểm lớn của Phòng lao động là không hiểu được năng suất lao động ở các cơ sở sản xuất, kinh doanh hành chính sự nghiệp, chưa tham gia vào kế hoạch tăng năng suất lao động, quan hệ giữa lao động và tổ chức chỉ trên giấy tờ chưa đi sâu vào nội dung. Cơ chế của ngành ngân hàng, tài chính, thuế, giá, trọng tài kinh tế còn nhiều bất hợp lý. Mặc dù thuộc cơ chế chung song trong phạm vi được phép các ngành đã tỏ ra thiếu năng động, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh thường bị ách tắc, lỡ mất thời cơ.
1- Giải quyết lao động và mục tiêu đời sống:
Quận đã cố gắng giải quyết việc làm cho hơn 16.000 lao động, so chỉ tiêu Đại hội thì vượt, nhưng số người chưa có việc làm và việc làm không ổn định hãy còn nhiều. Biện pháp đưa dân đi thì mạnh, giải quyết tại chổ ở phường có làm nhiều nhưng chưa tổng kết, thanh niên xung phong hoạt động chưa ra mô hình, trường dạy nghề mới hình thành. Thu nhập thực tế của cán bộ công nhân viên và người lao động được quan tâm thường xuyên, các ngành các cấp xoay sở liên tục, tập trung cao vào thời điểm thực hiện Nghị quyết 02 của Thành uỷ. Trước tháng 9-1985 đời sống nói chung có xu thế ổn định, nhưng từ sau đổi tiền tình hình đời sống khó khăn hơn mặc dù đã thực hiện chế độ cải tiến tiền lương. Quận cũng đã cố gắng giải quyết vấn đề nhà ở bằng phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong đợt kiểm điểm tư phê bình và phê bình, quận tiếp tục đẩy mạnh các đợt hoạt động tập trung chăm lo đời sống cho nhân dân lao động nghèo.
Nhìn chung, việc thực hiện mục tiêu đời sống, tuy quận đã có nhiều cố gắng phát huy sức mạnh tổng hợp để cùng lo, nhưng kết quả còn rất hạn chế, nhiều biện pháo chấp vá và bị động. Mọi cố gắng giải quyết vấn đề ở trong hơn 10 năm qua chỉ mới đáp ứng một phần rất nhỏ. Chúng ta còn có những “xóm ruộng” tại trung tâm Xóm Củi, nhà lụp xụp và trên khắp 23 kênh rạch, phải có 1 chương trình lớn, dài hạn mới giải quyết được phần cơ bản. Hiện tại với tác động của giá cả, mọi mặt của đời sống khó khăn cực kỳ gay gắt. Đây là vẫn còn là nhiệm vụ rất nặng nề của Đảng bộ trong những năm tới.
2- Nhiệm vụ văn hóa - xã hội:
Sự nghiệp xây dựng văn hóa mới, con người mới là 1 quá trình liên tục, trong nhiệm kỳ tiếp tục thu được những thành tích nhất định. Lối sống xã hội chủ nghĩa trong sáng ngày càng nảy nở đấu tranh quyết liệt với lối sống cá nhân ích kỷ chỉ biết hưởng thụ không cần biết đến ngày mai. Cuộc đấu tranh diễn ra trên mọi lĩnh vực ở từng tổ dân phố, từng gia đình, từng tập thể lao động. Trình độ làm chủ tập thể được nâng lên.
Sự biến đổi của con người phản ánh kết quả công tác giáo dục tư tưởng đối với nhân dân của Đảng bộ và mức độ hoạt động của từng mặt công tác cụ thể, trên từng lĩnh vực tư tưởng văn hóa.
a) Công tác giáo dục tư tưởng trong nhân dân:
Công tác giáo dục tư tưởng trong nhân dân trước hết là vấn đề mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Đảng bộ đã có những bài học kinh nghiệm quý báu về mặt này trong phát động phong trào hành động cách mạng của quần chúng, trong chăm lo đời sống quần chúng, trong công tác vận động quần chúng. Nhưng số cán bộ đảng viên trực tiếp với quần chúng rất ít. Ngay tại cơ sở phường, trong tổng số 502đảng viên chỉ có vài chục đồng chí hoạt động đoàn thể là làm tổ trưởng, tổ phó dân phố. Các cuộc sinh hoạt chính trị của các đoàn thể cũng có tác động nhất định nhưng chưa đi sâu giải quyết những mắc mứu của các tầng lớp quần chúng, điều chủ yếu là buông lơ vũ khí sắc bén của công tác tư tưởng, tuyên truyền miệng trong khi kẻ địch và phần tử xấu gieo rắc những tin bịa đặt, tác động từng lúc làm xôn xao dư luận. Việc ít thường xuyên gần gủi , tiếp xúc với quần chúng càng biểu hiện ở sốđảng viên công tác trên quận, ngay cán bộ lãnh đạo cũng không mấy đồng chí thường xuyên đi cơ sở,thỉnh thoảng hoặc có xuống cơ sở chỉ dừng lại ở những cuộc gặp gỡ cán bộ chủ chốt phường hay cơ sở sản xuất kinh doanh, nếu có tiếp xúc với quần chúng cũng chỉ trong các dịp hội hè. Ban tuyên huấn Quận uỷ chỉ đạo công tác tư tưởng rất yếu ớt, thiếu tinh thần tiến công. Tất nhiên công tác giáo dục tư tưởng là trách nhiệm của tất cả cán bộ lãnh đạo và nghĩa vụ của mọiđảng viên nhưng cơ quan tuyên huấn của Đảng cũng phải có trách nhiệm bồi dưỡng, hướng dẫn, trang bị cho cán bộ tư tưởng. Đã tốn nhiều công sức hoàn thành sự truyền thống nhưng chỉ đạo công tác giáo dục truyền thống chưa có kế hoạch chặt chẽ. Bộ phận khoa giáo hầu như không hoạt động.
b) Văn hóa và thông tin dại chúng:
Hơn 10 năm phấn dấu dã xây dựng dược bộ mặt văn hoá ở trung tâm quận với các thiết chế :nhà truyền thống ,rạp hát , xưởng in , bãy chiếu , nhà văn hóa ,hiệu sách quốc doanh ,thư viện , dài truyền thanh .Ở 1 quận ven dô ,khi tiếp quản không hề có 1 cơ sở văn hoa nào cả ,sự thay dổi bộ mặt là những thay đổi sâu sắc gắn liền với công tác sây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở . dến nay,hầu hết các loại hình cơ sở dều có dời sống văn hóa.Các phong trào có mục dích hướng về việc xây dựng con người mới , nếp sống mối của các ngành dược phát dộng liên tục trong nhiều năm gắn với phong trào lao dộng sản xuất và công tác hình thành dần những đức tính tốt dẹp của con người mới xả hội chủ nghĩa.
Nghị quyết của Quận uỷ về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở được các cấp cơ sở hưởng ứng mạnh mẽ nhưng ngành văn hóa thông tin chưa triển khai một cách nghiêm túc. Các cơ quan thông tin tuyên truyền thiếu nhạy bén, chưa phát hiện và phản ánh được những nhân tố mới, lúng túng và thụ động trong cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóatư tưởng. Các đơn vị có thu chạy theo doanh thu đơn thuần, vi phạm quy chế hoạt động văn hóa văn nghệ, xem nhẹ công tác giáo dục và hướng dẫn thị hiếuvăn hóa lành mạnh trong quần chúng. Các hoạt động văn hóa và thông tin đại chúng chưa thật sự là công cụ của cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng.
c) Giáo dục:
Trong nhiệm kỳ, đã giảm 42 lớp ca ba, tiếp tục duy trì các lớphọc đêm cho trẻ em nghèo thất học, mở rộng các lớp mẫu giáo, nhà trẻ và hệ bổ túc, hình thành 1 trung tâm thực hành thí nghiệm. Phong trào nhân dân và nhà nước cùng chăm sóc giải quyết trường lớp đang phát triển tốt, trước khi khai giảng năm học thứ 11, nhiều phường, trường đã sắp xếp lại nơi làm việc, cho mượn hội trường làm lớp học, đã giải tỏa thêm được gần 40 lớp ca ba. Mặc dù còn vô vàn khó khăn, sự nghiệp giáo dụcvẫn phát triển đúng hướng, phong trào thi đua dạy tốt học tốt tiếp tục phát triển.
Nhưng vấn đề chất lượng giáo dục cả về mặt kiến thức văn hóa và chính trị đạo đức, còn là mối lo ngại cho toàn xã hội, nuôi dạy trẻ chưa thật tốt. Nhưng sự quan tâm chăm lo sự nhgiệp giáo dục chưa được đồng đều, ba môi trương giáo dục chưa được kết hợp chặt thành 1 hệ thống giáo dục có chương trình kế hoạch cụ thể, có tổ chức chỉ đạo thực hiện. Cơ sở vật chất thiếu thốn, còn 85 lớp ca ba. Đời sống thầy cô giáo rất khó khăn đã ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giảng dạy. Trong đội ngũ giáo dục còn tồn tại những người ý thức trách nhiệm chưa cao, thiếu gương mẫu, thiếu tính kỷ luật chặt chẽ của môi trường sư phạm. Lực lượngđảng viên quá mỏng, chất lượng đoàn, hội còn yếu.
d) Y tế:
Việc chăm sóc sức khỏe của người dân, phát triển phong trào “5 dứt điểm” là công việc quan trọng hàng đầu của các tổ chức đảng. Đối với quận 8 các cmục tiêu vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch, 3 công trình vệ sinh, sinh đẻ có kế hoạch đặc biệt gay gắt. Sự phối hợp giữa các cấp uỷ phường, đoàn thể và ngành y tế đã đem lại những kết quả đáng kể: bệnh dịch giảm xuống, hạ thấp tỷ lệ tử vong, tổ chức tiêm chủng đạt yêu cầu, chăm sóc tốt bà mẹ và trẻ sơ sinh, tỷ lệ phát triển dân số hàng năm có giảm (1984: 1,55%, 1985: 1,39%).
Vấn đề cần nhấn mạnh đối với ngành y tế hiện nay là chất lượng phục vụ trong giờ, giá cả ở các phòng khám ngoài giờ. Đó là những biểu hiện lệch lạc về quan điểm phục vụ trong một bộ phận cán bộ nhân viên y tế cần được sớm uốn nắn. Sinh đẻ có kế hoạch thực hiện trong dân còn ít, nhất là vùng công giáo, người Hoa và nông thôn. Một sốđảng viên, cán bộ côngn nhân viên chưa gương mẫu trong vấn đề này.
d) Thể dục thể thao:
Mặc dù cơ sở vật chất thiếu thốn, thiếu điều kiện tập luyện nhưng phong trào có phát triển ở cơ sở. Mặt yếu là phong trào phát triển không đồng đều, thể dục thể thao không cân đối. Số lượng người tham gia còn ít, phong cách thi đấu cần phải được uốn nắn, sự kết hợp giữa ngành thể dục thể thao và y tế, đoàn thanh niên còn nhiều mặt chưa tốt, cùng có trách nhiệm đối với tỷ lệ thanh niên đạt sức khỏe tốt trong các đợt khám tuyển nghĩa vụ quân sự.
e) Thương binh xã hội:
Quận đã đưa phong trào đền ơn đáp nghĩa lên đều khắp, đã có nhiều tiến bộ trong việc giải quyết chính sách, trong việc phát động phong trào nhân dân cùng nhà nước chăm sóc các đối tượng chính sách và trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Phong trào đã mang tính giáo dục sâu sắc về truyền thống, về tình nghĩa thuỷ chung. Đã có nhiều cơ quan, đơn vị nhận đỡ đầu thân nhân liệt sỹ, đóng góp vào quỹ bảo trợ chính sách. Ngoài việc trợ cấp thường xuyên, trong các dịp lễ, tế, các phường và các ban ngành quận đã bằng các hình thức trợ cấp thêm cho những gia đình khó khăn.
Tồn tại cho đến nay quận chưa có câu lạc bộ hưu trí, quỹ bảo trợ chính sách, quỹ cứu tế có lúc bị hụt hẫng, cơ sở sản xuất gây quỹ mới hình thành chưa có hiệu quả.
Tình hình xã hội gần đây có diễn ra diễn biến phức tạp: trộm cắp, phá hoại, hành động phạm pháp xảy ra hàng ngày ở nhiều nơi, trật tự xã hội không tốt, an toàn xã hội chưa đảm bảo. Các tệ nạn chích xì ke, uống xì cọt, mua dâm, bán dâm, hiếp dâm, cờ bạc, ăn xin còn khá phổ biến. Việc giáo dục pháp luật chỉ mới ở bước đầu. Tình hình vi phạm pháp luật, vi phạm quyền làm chủ tập thể còn khá nghiêm trọng. Tâm trạng quần chúng nặng nề trước khó khăn về đời sống. Đó là những hiện tượng sa sút không thể coi thường.
3- Nhiệm vụ an ninh, quân sự địa phương và công tác nội chính:
Hoạt động an ninh, quân sự địa phương và công tác nội chính có chuyển biến tiến bộ, tuy nhiên đối chiếu với những phức tạp của tình hình thì chưa đảm bảo vững chắc như mục tiêu Nghị quyết đại hội đại biểu quận lần thứ III đề ra.
a) Về an ninh:
Những hoạt động bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an toàn xã hội đã góp phần đánh bại một bước kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch và giữ gìn được cơ bản tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Xây dựng lực lượng công an qua phát động thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy có những tiến bộ đáng kể.
Khuyết điểm quan trọng là chưa làm tốt khâu then chốt quản lý nhân hộ khẩu. Buông lỏng chuyên chính và trấn áp chưa trúng đầu sở. Ý thức cảnh giác cách mạng lơi lỏng. Công an còn một bộ phận chưa trong sạch về chính trị và phẩm chất.
b) Công tác quân sự địa phương:
Phối hợp với công an bảo vệ an toàn các mục tiêu, góp phần giữ gìn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội. Xây dựng và diễn tập các phương án phòng thủ theo hướng xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Quản lý và thực tập động viên quân dự bị theo các phương án trên có kết quả, lực lượng dân quân tự vệ đạt kết quả cao (10,82% so dân số). Cuộc vận động xây dựng lực lượng võ trang đạt kết quả tốt, dẫn đầu cọm thi đua và đạt danh hiệu quyết thắng 2 năm 1983-1984.
Giáo dục quốc phòng toàn dân chưa thường xuyên, chưa đi sâu kiểm tra thực hiện nghị quyết trên lĩnh vực này. Công tác nghĩa vụ quân sự có dư luận và đã phát hiện kiểm tra kết luận 2 trường hợp hối lộ ở 2 phường. Công tác phát triển đảng trong phường đội làm chậm.
c) Công tác nội chính:
Sự phối hợp của các ngành nội chính chặt chẽ và có chất lượng, phát huy được mặt mạnh khắc phục được mặt yếu của ngành. Nhưng phối hợp tham mưu giúp cấp uỷchỉ đạo làm chuyển biến tình hình xã hội từng thời gian thì còn hạn chế. Đã đưa phong trào sống và làm việc theo pháp luật vào phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống, từng bước nâng cao ý thức kỷ luật trong và ngoài xã hội, góp phần phòng chống tội phạm, tiêu cực nội bộ. Nhưng việc giáo dụcpháp luật và hiến pháp xã hội chủ nghĩa chỉ ở bước đầu chưa sâu.
Ban Thanh tra hoạt động khá, giúp cho Quận uỷ nắm sát hơn, kỹ hơn lĩnh vực kinh tế, giải quyết xét khiếu tố có nhiều tiến bộ, không tồn đọng, đảm bảo theo pháp luật. Toà án sau kiện toàn có một bước vươn lên nhưng cũng còn nhiều biểu hiện yếu kém về quan điểm thi hành một số vụ án. Án tồn đọng nhiều, một số vụ án có yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị các cơ quan nội chính làm chưa tích cực. Có tiêu cực trong Viện kiểm sát, thiếu tranh thủ sự chỉ đạo của Đảng, thiếu bàn bạc trong khối để thống nhất quan điểm xét xử. Viện kiểm sát, Tòa án chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chính trị Đảng bộ từng thời gian, nhất là phục vụ công tác cải tạo. Ngoại trừ Ban thanh tra công tác đảng ở các cơ quan nội chính còn yếu.
4- Phong trào quần chúng và công tác vận động quần chúng:
Ba năm qua, trước những thử thách nghiêm trọng về kinh tế đời sống trên nhiều lĩnh vực, quận vẫn giữ được các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, mặc dù có những phong trào chưa có chiều sâu, hành động của quần chúng chưa thật sôi nổi. Có thể tóm tắt lại một số phong trào tiêu biểu:
Phong trào bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội phát triển sâu rộng hơn, mạnh dạn và đi dần vào nề nếp theo một số cơ chế tổ chức gia đình, tổ dân phố, khu phố, đến đơn vị cơ sở. Công tác quân sự địa phương, chính sách hậu phương quân đội, nghĩa vụ quân sự đều đạt kết quả tốt. Phong trào lao động sản xuất hướng vào mục tiêu kinh tế – đời sống khá sôi nổi, đỉnh cao là thời điểm kỷ niệm 10 năm giải phóng, đánh dấu mọt chặng đườngphát triển đầy ý nghĩa trong bối cảnh còn đầy dẫy những khó khăn, phức tạp, đã làm cho quận có bước phát triển toàn diện hơn. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu hoàn thành, có mặt hoàn thành vượt mức, các công trình xây dựng cơ bản quan trọng được hoàn thành khẩn trương, qua dó các lực lượng cách mạng được củng cố và phát triển, nhiều mô hình tốt đã xuất hiện và được nhân ra. Đặc biệt trpng phong trào quần chúng làm chủ trên mặt trận lưu thông phân phối với vai trò tích cực của Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Công đoàn đã xây dựng một số mô hình khá tốt. Phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” biến thành phong tràovới sự đóng góp tích cực của các tầng lớp quần chúng trong việc giải quyết nhà ở, trường học, cơ sở ý tế, thể dục thể thao, văn hóa… phong trào chăm sóc đời sống trên địa bàn dân cư do Mặt trận làm đầu mối, phong trào bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em… cũng là những phong trào tốt. Có hiệu quả nhất là phong trào tương thân tương trợ, đùm bọc nhau trong cuộc sống, qua 10 năm đã dần dần trở thành ý thức tự giác của quần chúng. Thông qua các phong trào, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của quần chúng được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần văn hóa có một bước cải thiện nhất định. Đến nay, đã tập hợp lực lượng quần chúng vào các tổ chức trên 57%, nhiều cốtcán quần chúng đã trưởng thành được bổ sung vào đội ngũ Đảng, vào các cấp lãnh đạo và quản lý từ phường đến quận.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ có ưu điểm:
Có một quá trình đấu tranh giáo dục nội bộ về đánh giá quần chúng Thành phố. Đấu tranh giáo dục trong Đảng phải trải qua thực tiễn kết hợp với tiếp thu nghị quyết của Đảng để đi đến quán triệt nhận thức: tất cả những việc làm được trong thực hiện nhiệm vụ chính trị trên bất cứ lĩnh vực nào cũng đều là kết quả công tác quần chúng của Đảng, quần chúng là người trực tiếp thực hiện qua tác động của đoàn thể, chứ không phải là của riêng một ngành ban chuyên môn nào. Nhận thức trên lại đầy đủ hơn khi Đảng cầm quyền, vai trò công tác quần chúng chẳng những không giảm mà còn tăng lên. Một bài học xuyên suốt 10 năm của Đảng bộ là chăm lo đời sống quần chúng vừa là mục tiêu vừa là động lực xây dựng quyền làm chủ tập thể, là một nội dung xây dựng quyền làm chủ tập thể. Từ đó, đã ra sức xây dựng cơ chế làm chủ tập thể ở cấp phường và các đơn vị sản xuất kinh doanh từng lúc có sơ tổng kết rút kinh nghiệm. Phương thức lãnh đạo của Quận uỷ cũng được cải tiến, tập trung xây dựng tổ chức và hoạt động của các Ban chấp hành đoàn thể, tăng cường cán bộ có năng lực cho đoàn thể.
Tuy nhiên, cũng còn có mặt tồng tại, khuyết điểm:
Phong trào được phát động liên tục nhưng biện pháp tổ chức chỉ đạo phong trào từng lúc chưa tốt, thiếu tập trungvào từng mục tiêu. Đời sống quần chúng còn khó khăn, nhiều mặt đặt ra cho Đảng bộ nhiều vấn đề phải giải quyết. Những phản ánh của quần chúng ta nắm được kịp thời và đầy đủ hơn nhưng việc giải quyết còn quá chậm chạp, có những vấnh đề trong tầm tay của phường của quận. Đáng quan tâm là hiện tượng vi phạm quyền làm chủ tập thể, thậm chí trù dập một cách tinh vi hơn còn diễn ra ở một số nơi cần phải tiếp tục đấu tranh giải quyết. Lực lượng chính trị trong tất cả các lĩnh vực phát triển chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ cải tạo và xây dựng, chất lượng quần chúng tập hợp chưa cao. Quần chúng thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình ở đơn vị cơ sở còn hạn chế. Sự kiện Hợp tác xã Phú Lợi, cái sai của Chủ nhiệm có mầm móng từ lâu nhưng đoàn thể không phát hiện được để báo cáo với Đảng, chứng tỏ một biểu hiện quan liêu xa rời quần chúng mà Quận uỷ không lường hết nguy cơ. Đây là một vấn đề đặc biệt lưu ý, có thể coi là bài học chung cho tất cả các điển hình. Công tác tuyên huấn giải thích thiếu kịp thời trước diễn biến phức tạp của tình hình. Hoạt động của đoàn thể chưa khắc phục tốt tập trung quan liêu, không sát cơ sở, không sát sản xuấtvà đời sống của quần chúng. Chuyển biến nhận thức về công tác quần chúng chưa đều, chưa thấy hết “nguy cơ của Đảng cầm quyền là bệnh quan liêu” nên còn thiếu sót trong việc bố tríđảng viên làm công tác quần chúng, trong công tác phát triển Đảng là cán bộ đoàn thể.
5- Nhiệm vụ xây dựng chính quyền:
Bộ máy chính quyền từ quận đến phường đã có bước trưởng thành, hoạt động có nhiều chuyển biến tốt, từng bước biết hướng hoạt động của mình vào các công tác trọng tâm, có nhiều cố gắng vươn lên thực hiện chức năng quản lý kinh tế, qủan lý xã hội. Hoạt động của Hội đồng nhân dân quận và phường đi dần vào nề nếp, phát huy được một chức năng của hội đồng. Quận uỷ tạo điều kiện thuận lợi để bộ máy chính quyền phát huy vai trò và hiệu lực của mình trong mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, chính quyền quản lý và tổ chức thực hiện”. Thường trực Quận uỷ vừa chỉ đạo vừa tham gia góp phần cùng Uỷ ban nhân dân giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm lúc tình hình khẩn trương, đồng thời tạo điều kiện nâng cao hiệu lực của Uỷ ban nhân dân để thực hiện chức năng lãnh đạo và kiểm tra của Đảng.
Mặt tồn tại lớn nhất của bộ máy chính quyền là chưa cụ thể hóa một cách kịp thời, đầy đủ các chủ trương của Đảng, hiệu lực của Uỷ ban nhân dân chưa cao, Thường trực Uỷ ban hoạt động chưa tập trung, nội bộ đoàn kết thống nhất chưa cao, phong cách và phương pháp quản lý chưa khoa học, qủan lý 1 quận của Thành phố công nghiệp nhưng lề lối làm việc, lề lối công tác còn rất thủ công sự vụ, chưa xây dựng và thực hiện tốt qui chế làm việc. Bộ máy ở phường nghiệp vụ còn yếu, quận chưa tập huấn cụ thể cho từng chức danh.
6- Xây dựng Đảng:
Công tác tư tưởng trong nhiệm kỳ có vai trò rất quan trọng. Quận uỷ và các chi bộ đã có nhiều cố gắng tạo nên sự nhất trí trong toàn Đảng bộ về các chủ trương, chính sách của Đảng, tiếp tục làm công tác tư tưởng xoay quanh các nghị quyết nhằm quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương, Thành uỷ, cũng như của bản thân Quận uỷ. Những cuộc sinh hoạt định kỳ hàng tháng hoặc sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết với cán bộ chủ chốt cơ sở để thống nhất đánh giá tình hình về các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội của quận được tiến hành thường xuyên. Sự chỉ đạo của Ban Thường vụQuận uỷ về giáo dục lý luận được tập trung hơn nhiệm kỳ trước.
Kiện toàn và nâng cao chất lượng ncác tổ chức cơ sở Đảng là trọng tâm hàng đầu. Đã có kế hoạch cụ thể và sát đúng về công việc này, tập trung chỉ đạo thực hiện có kiểm tra, có sơ kết, tổng kết. Số cơ sở Đảng vững mạnh trong 2 năm 1983 – 1984 đạt hơn 20%, tuy chưa đạt chỉ tiêu Đại hội (30%) nhưng tăng gấp 3 lần so năm 1982. Công tác phát triển Đảng được chỉ đạo rất tập trung và có những tiến bộ rõ rệt, gắn trong xây dựng tổ chức cơ sở Đảng nhưng có kế hoạch riêng, có kiểm tra, qua đó chỉ đạo biện pháp tháo gỡ. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp 280đảng viên mới, tuy chưa đạt chỉ tiêu (300) nhưng gần bằng phân nữa sốđảng viên phát triển trong 10 năm.
Công tác cán bộ trong nhiệm kỳ có nhiều ưu điểm so trước đây. Đội ngũ cán bộ toàn quận đến nay được trẻ hóa một mức và có bước trưởng thành về trình độ , năng lực . công tác xây dựng đảng không tách rời công tác quần chúng và công tác xây dựng chính quyền . Lực lượng chính trị phát triển trong nhiệm kỳ khá , tui chưa theo kiệp yêu cầu và còn nhiều63 vấn đề về chất lượng . Qua cuộc bầu cửhội dồng nhân dân quận và phường năm 1984 , dã dổi mới Thường trực uỷ ban nhândân quận và phần lớn nhân sự uỷ ban nhân dân phường . Ở các ban ngành và dơn vị sản xuất kinh doanh cấp quận cũng đã giải quyết chính xác một loạt vấn đề về công tác tổ chức và cán bộ để đảm bảo thực hiện yêu cầu nhiệm vụ mới . Công tác thanh tra , kiểm tra góp phần tích cực làm rỏ nhiệm vụ tiêu cực ngiêm trọng để giải quyết về mặc tổ chức từ sau đại hội đảng bộ.
Công tác kiẻm tra của đảng bộ có chuyển biến tốt , phát triển các hình thức và mở rộng trên nhiều lĩnh vực đã góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ nhất là trong xây dựng Đảng. Công tác kiểm tra đã chuyển dần về các cấp ủy cơ sở, không chỉ là của Ủy ban kiểm tra, đây là một sự tiến bộ về nhận thức trong Đảng bộ. Việc xây dựng nề nếp giữ gìn kỷ luật được thực hiện có hiệu quả ờ 2/3 cơ sở Đảng. Ủy ban kiểm tra và các cấp ủy cơ sở đã có nhiều cố gắng làm rõ kết luận được những vấn đề tố cáo khiếu nại giúp Thường vụ Quận ủy giải quyết những vi phạm. Việc tổ chức kiểm tra thực hiện các quyết định chuyển biến mạnh, không chỉ ở Thường trực Quận ủy tổ chức kiểm tra mà các ban ngành cũng tổ chức kiểm tra thực hiện nghị quyết Đảng trên lĩnh vực mình tham mưu.
Năng lực điều hành bộ máy Đảng và bộ máy hệ thống chuyên chính vô sản của Quận ủy có được nâng lên. Trước hết là sự đổi mới ở Ban chấp hành và Thường trực Ủy ban, đi đôi xây dựng từng bước các bộ phận cấu thành bộ máy được phù hợp, trong đó chú trọng xây dựng tổ chức cơ sở Đảng. Phong cách làm việc cũng được đổi mới.
Bên cạnh những việc làm có kết quả như trên, công tác xây dựng Đảng cũng còn nhiều nhược điểm và thiếu sót:
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa sâu, công tác quản lý đảng viên, sinh hoạt chi bộ, tư phê bình và phê bình không được coi trọng và bị buông lỏng ở nhiều nơi. Cơ cấu đảng viên chưa đảm bảo yêu cầu, nhiều lĩnh vực quan trọng còn quá ít hoặc chưa có đảng viên.
Nhiệm kỳ qua Đảng bộ phải thi hành kỷ luật 119 đồng chí, trong đó khai trừ và xóa tên 43 người. So với nhiệm kỳ trước, số vụ kỷ luật giảm rõ rệt nhưng tính chất sai phạm vẫn còn nghiêm trọng. Thủ đoạn tham ô. Hội lộ tinh vi hơn nhưng cũng có vụ trắng trợn. Sai phạm về chủ trương, chính sách, về nguyên tắc sinh hoạt Đảng, buông lỏng tổ chức kỷ luật tiếp tục xảy ra. Hiện tượng vi phạm dân chủ nnội bộ, vi phạm quyền làm chủ, trấn áp trù dập có ở nhiều nơi với nhiều mức độ. Đơn từ nặc danh còn nhiều.
Mặc dù có chú trọng kiện toàn một bước các ban xây dựng Đảng, nhưng Ban Tuyên huấn yếu kém kéo dài, Ban Thường vụ chưa giải quyết triệt để tình hình kéo dài cả nhiệm kỳ. Công tác kiểm tra giữ gìn kỷ luật thực hiện phương châm ngăn chặn từ xa tuy Ủy ban kiểm tra có làm nhưng chưa tốt, chưa tập trung cao vào việc thực hiện Nghị quyết 8, chưa làm rõ để thi hành kỷ luật một số cán bộ không chấp hành nghị quyết, thiếu trách nhiệm không hoàn thành nhiệm vu, những vụ trù dập cán bộ đảng viên và quần chúng…
Ban tổ chức Đảng và chính quyền ít hiểu biết sâu về nhiệm vu sản xuất kinh doanh, về cải tiến quản lý kinh tế, nắm và hiểu cán bộ chưa đầy đủ nên làm tham mưu không đúng trong một số trường hợp. Chúng ta chưa có kế hoạch nắm, đánh giá cán bộ thành nề nếp. Hiểu đời sống, tâm tư, tình cảm của cán bộ không đầy đủ nhất là những đồng chí có hoàn cảnh cuộc sống khó khăn mà đang gánh vác những nhiệm vu nặng nề ở cơ sở, ở những vùng xa thành phố, từ đó mà chưa đề xuất tốt các biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ. Chúng ta thấy đâu giải quyết đó, còn không thấy thì thôi, có khi đãi ngộ chiếu cố chưa thật chính xác.
Trong xử lý kỷ luật cán bộ có biểu hiện tư tưởng sợ mất cán bộ, sợ không có người thay. Chúng ta chưa có ý thức và lòng tin mạnh mẽ vào sức mạnh của quần chúng, vào lớp người mới để tập trung đầu tư công sức đào tạo đội ngũ cán bộ dự bị cho tương lao, đó là nguồn lực lượng cán bộ hùng hậu đầy sức chiến đấu. Đảng viên trực tiếp làm công tác quần chúng ở phường lại bị thu hẹp. Chúng ta thiếu đầu tư đúng mức vào vấn đề có tầm quan trọng chiến lược là đào tạo con người. Đặc biệt là với cán bộ và lao động nữ, chúng ta chưa cụ thể hóa một cách đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết của trên để đảm bảo điều kiện xây dựng nguồn cán bộ nữ.
Trong diều hành, còn yếu nhất ở hai khâu điều hành chuẩn bị hội nghị và điều hành tổ chức thực hiện. Chuẩn bị hội nghị chưa thực hiện đúng quy trình như: thông tin không đầy đủ, tài liệu hội nghị thảo chưa gởi trước hoặc đã gởi nhưng trong thời gian quá ngắn không kịp nghiên cứu. Trong hội nghị, chủ trì hội nghị chưa thật chú ý nêu lên những ý kiến khác nhau cần thảo luận, đi đến biểu quyết làm cho quyết định thêm phong phú, chính xác và nhất trí cao. Thông thường ít có biểu quyết. Do đó, hội họp vẫn còn nhiều, tốn quá nhiều thì giờ mà lại không phát huy được đầy đủ trí tuệ của các đồng chí Ủy viên Ban chấp hành hoặc Ủy viên Thường vụ. Đã coi trọng việc chuẩn bị ra nghị quyết nhưng còn xem nhẹ việc định ra kế hoạch thực hiện nghị quyết và không điều hành bộ máy một cách chặt chẽ, ráo riết để thực hiện cho được chủ trương đã định. Đó chính là nguyên nhân làm cho nhiều quyết định đúng đắn không thực hiện được. Nhưng nguyên nhân trước hết trong việc tổ chức thực hiện các quyết định của Ban chấp hành là vai trò điều hành bộ máy Nhà nước là tập trung là Thường trực Ủy ban nhân dân. Ngoài ra, một số chế độ quy định trong quy chế làm việc của Quận ủy chưa được tất cả các đồng chí Quận ủy viên thực hiện tốt như: chế độ đi thực tế, xuống cơ sở gặp đảng viên và quần chúng, chế độ thông tin, chế độ thỉnh thị, chế độ tự phê bình và phê bình…
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT, NGUYÊN NHÂN ƯU KHUYẾT ĐIỂM
Kiểm lại các hoạt động của Đảng bộ kể từ đại hội lần thứ ba đến nay, nổi rõ các mặt ưu khuyết điểm chủ yếu sau đây:
* Ưu điểm:
- Trong bối cảnh đất nước còn nhiều kho khó khă , các mặt đều mất cân đối, có mặt mất cân đối nghiêm trọng, Đảng bộ luôn vững vàng và kiên định, vận dụng nghị quyết Đảng phù hợp với tình hình địa phương, quyết tâm tìm mọi biện pháp tháo gỡ, phát huy những mặt thuận lợi cơ bản đưa kinh tế địa phương phát triển, tạo vệc làm chăm lo đới sống. Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa được tiến hành đều khắp trên các lĩnh vực, vận dụng các chính sách vào thực tế địa phương đạt được một số kết quả. Văn hóa xã hội có bước phát triển mới, văn hóa mới con người mới, điển hình tiên tiến ở lĩnh vực nào cũng có.
- Hoạt động an ninh, quân sự địa phương và công tác nội chính có chuyển biến tiến bộ. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và phong trào vì tuyến đầu Tổ quốc đã được phát động thường xuyên và sâu rộng. Lực lượng công an, quân sự được củng cố, rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu, liên tục được khen thưởng.
- Công tác Đảng có những tiến bộ nổi bật, nhất là công tác xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, công tác phát triển Đảng, công tác cán bộ có chuyển biến.
- Luôn tin ở quần chúng, quan tâm đến lợi ích của quần chúng, chăm lo đời sống quần chúng, nên trước những thử thách nghiêm trọng về kinh tế, đời sống, Đảng bộ đã phát động được các phong trào hành động cách mạng liên tục, giữ được phong trào trên nhiều lĩnh vực. Qua nhiều năm phát động, phong trào quần chúng đùm bọc tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống đã thành ý thức tự giác trong quần chúng. Chính qua các phong trào này mà Đảng bộ và chính quyền quận đã thực hiện được các nhiệm vụ đề ra và tích lũy được nhiều kinh nghiệm để nâng cao trình độ chỉ đạo của mình.
* Nguyên nhân ưu điểm:
- Trước hết ở thái độ của Quận ủy tiếp thu nghiêm túc nghị quyết trung ương và thành ủy, có năng lực cụ thể hóa vá tổ chức thực hiện có kết quả nghị quyết, có quyết tâm cao.
- Ban chấp hành Đảng bộ có sự đoàn kết thống nhất cao hơn và hoạt động đều tay hơn khóa trước, làm trung tâm đoàn kết được toàn Đảng bộ. Thực hiện dân chủ triệt đề trong nhận định và giải quyết tình hình nhất là những thời điểm khó khăn.
- Xác định đúng công tác quần chúng là gốc của mọi công tác, chăm lo đời sống quần chúng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
- Sự nỗ lực phấn đấu của các cấp các ngành, sự năng động của các đơn vị cơ sở và đội ngũ cán bộ. Đảng bộ có đội ngũ cán bộ bao gồm nhiều thế hệ, nhiều khả năng tiềm tàng, vấn đề là làm sao phát huy đồng bộ sức mạnh và lựa chọn bồi dưỡng bố trí đúng.
- Thường xuyên rút kinh nghiệm từ thữc tiễn qua sơ kết, tổng kết.
* Khuyết điểm:
- Khuyết điểm trong lãnh đạo phát triển kinh tế là tổ chức thực hiện chưa quán triệt cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và hướnfg khai thác thế mạnh từng ngành mà nghị quyết đại hội đã chỉ rõ. Biểu hiện chưa tập trung đầu tư phát triển ngành thế mạnh để có tích lũy cho ngân sách, chỉ đạo sản xuất chưa tập trung các biện pháp khoa học kỹ thuật, liên kết kinh tế, công-nông-thương nghiệp và xuất khẩu chưa gắn chặt.
- Khuyết điểm chi phới trên nhiều lĩnh vực là buông lơi chuyên chính vô sản.
- Hiện tượng tập trung quan liên cửa quyền, xa rời thực tiễn biểu hiện với nhiều mức độ khác nhau ở các ngành các cấp, có cả trong cán bộ lãnh đạo và nhân viên, tổ chức cồng kềnh, kém hiệu lực, chưa sâu sát cơ sở, quần chúng, chưa sâu sát thực tế. Vi phạm quyền làm chủ tập thể còn nặng. Đi sâu vào các phong trào quần chúng mới thấy còn nhiều bề nổi, chưa thật sự là phong trào tự giác của quần chúng. Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý còn ở nhận thức, chưa tổ chức thực hiện được bao nhiêu, phân cấp quản lý rất chậm.
- Khuyết điểm nổi bật là công tác tổ chức và cán bộ còn làm theo lối mòn.
- Lãnh đạo điều hành, tổ chức thực hiện và vai trò bộ máy Nhà nước còn yếu.
- Kỷ cương của Đảng bị buông lỏng ở nhiều nơi.
- Chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của một quận thuộc thành phố trung tâm khu vực. Thể hiện qua những tồn tại trong hoạt động liên kết kinh tế. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của địa phương.
* Nguyên nhân:
- Chưa nắm vững những vấn đề cơ bản của đường lối chung như “nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng”, chưa thấu suốt đường lối kinh tế để vận dụng giải quyết những vấn đề cụ thể về cơ cấu kinh tế ở địa phương cũng như khai thác và sử dụng các thành phần kinh tế. Trình độ quản lý kinh tế, trình độ nhận thức lý luận còn yếu. Bộ máy quản lý Nhà nước hành chính quan liêu, tập trung quan liêu bao cấp ở các lĩnh vực, chưa dám nhìn sự thật và chưa dám đổi mới.
- Nguyên tắc tự phê bình và phê bình bị buông lỏng, nhất là ở các tập thể lãnh đạo.
- Phong cách làm việc còn thủ công sự vụ.
- Chưa quán triệt sâu sắc quan điểm quần chúng trong điều kiện Đảng cầm quyền, chưa thật sự lấy cân đối làm gốc trong mọi hoạt động của các ngành các cấp.
Tất cả những biểu hiện trên có nguyên nhân chi phối là thành phần Đảng viên trong Đảng bộ đa số là tiểu tư sản và nông dân lại sống trong nền kinh tế mà sản xuất nhỏ là phổ biến, chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa được trang bị tốt những nhận thức cơ bản về thời kỳ quá độ. Từ đó thể hiện lập trường giai cấp công nhân chưa thật kiên định trên nhiều lĩnh vực.
Báo cáo tự kiểm điểm của Ban chấp hành Đảng bộ sẽ phân tích sâu hơn những ưu khuyến điểm và nguyên nhân nêu ra trên đây.
PHẦN HAI
NHIỆM VỤ MỤC TIÊU CHÚNG – NHỮNG NHIỆM VỤ CÔNG TÁC
CHỦ YẾU VÀ CÁC BIỆN PHÁP CHÍNHTRONG 3 NĂM
(1986 – 1988)
----
Xuất phát từ hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ quá độ. Từ những chủ trương chỉ đạo của Trung ương và Thành ủy, trên cơ sở kiểm điểm đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 3, dự kiến mục tiêu chung – những nhiệm vụ công tác chủ yếu và các biện pháp chính trong 3 năm 1986-1988 như sau:
A. Nhiệm vụ mục tiêu chung:
1- Sắp xếp và đẩy mạnh sản xuất trên các lĩnh vực công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp. Ra sức củng cố các ngành kinh tế kỹ thuật đã được định hình trong quá trình sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, đồng thời phát triển bổ sung các ngành kinh tế kỹ thuật khác theo hướng quy hoạch tổng thể theo một cơ cấu đồng bộ. Chú ý các ngành thế mạnh, tập trung đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu. Đưa tốc độ sản xuất của các xí nghiệp quốc doanh lên trên 20%, tiểu thủ công nghiệp tăng hàng năm từ 15% trở lên, nông nghiệp tăng từ10 - 15%. Đưa tổng trị giá mua thuần túy của ngành thương nghiệp tăng bình quân hàng năm từ 18 - 20%; bán từ 19 - 21%. Nói chung trên cả hai mặt sản xuất và lưu thông phải hướng mọi cố gắng vào việc đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu về đời sống xã hội, dần dần ổn định và tiến lên cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân trên các lĩnh vực: ăn, ở, đi lại, học hành, vui chơi, giải trí. Cụ thể ăn đủ no; mặc đủ lành và đủ ấm; đáp ứng cơ bản việc đi lại và đủ thuốc thông thường về chữa bệnh; giải quyết phần lớn khó khăn về nhà ở cho khu vực cán bộ công nhân viên, diện chính sách và nhân dân lao động nghèo không có khả năng tự giải quyết; thu nhập của cán bộ công nhân viên trong khu vực quốc doanh và tập thể cao hơn cá thể trên cơ sở làm ăn có hiệu quả.
2- Đưa tốc độ giải quyết lao động tăng bình quân hàng năm từ 20 đến 30% song song với thực hiện kế hoạch hóa dân số và gia đình đảm bảo giảm nhịp độ tăng dân số đến năm 1988 còn 1,2%.
3- Phấn đầu cân đối ngân sách, xây dựng thêm một phần cơ sở vật chất cho một số ngành kinh tế – văn hóa – xã hội theo phân cấp quản lý gắn với quy hoạch tổng thể từng giai đoạn chủ yếu với nguồn vốn địa phương, vốn huy động sức dân, vốn vay, vốn tích lũy từ các ngành kinh tế tập trung cho công nghiệp, mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ, cảng, kho bãi, y tế, giáo dục, nhà ở.
4- Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực bằng những hình thức và biện pháp thích hợp nhằm khai thác tốt nhất năng lực các thành phần kinh tế, hướng mọi hoạt động theo quỹ đạo kinh tế xã hội chủ nghĩa, từng bước thiết lập lại trật tự kỷ cương trong mọi mặt của đời sống và hoạt động xã hội, trong đó tập trung mục tiêu là ngày càng đưa quốc doanh và tập thể phát triển vững chắc về mọi mặt tiến đến nắm vai trò chủ đạo chi phối các thành phần kinh tế khác, hướng các thành phần kinh tế khác đi vào làm ăn theo quỹ đạo kinh tế xã hội chủ nghĩa.
5- Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa – xã hội tạo ra một bước chuyển biến tiếp theo đáng kể về mặt xã hội, đảm bảo vừa góp phần đắc lực vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế, vừa trực tiếp tác động vào việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn và loại trừ có hiệu quả các biểu hiện tiêu cực trên các lĩnh vực, nhất là thanh niên hăng hái lao động, sống có văn hóa, có lý tưởng gắn với tiền đề Tổ quốc.
6- Đảm bảo vững chắc an ninh chính trị – trật tự an toàn xã hội, làm chuyển biến các địa bàn trọng điểm không để gây rối loạn, bạo loạn. Giảm trọng án xuống 70%, các án kinh tế, trộm cắp, các tệ nạn xã hội khác xuống 50%.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, hậu phương chiến lược nhằm đạt tiến độ về các mặt: giáo dục nhiệm vụ về quốc phòng, xây dựng lực lượng dự bị, kế hoạch động viên. Làm tốt công tác xây dựng pháo đài quân sự quận, tiếp tục phát triển phong trào “thi đua quyết thắng” và đưa vào cuộc vận động thực hiện thường xuyên. Hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, tuyển thanh niên xây dựng kinh tế quốc phòng, hạn chế thấp nhất tỷ lệ đào ngũ.
7- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đầu của Đảng. Kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng Đảng trưởng thành hơn nữa về lãnh đạo, chính trị, vận dụng sáng tạo và cụ thể hóa đường lối, đề ra được những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới mẻ của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa ch và bảo vệ Tổ quốc; vững vàng về chính trị trong tổ chức thực hiện các mục tiêu đã định; phấn đấu đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh; phát triển 300 đảng viên mới; 40% chi bộ vững mạnh, không có yếu kém, trong đó chủ yếu là phường, một số ngành kinh tế trọng điểm, khối nội chính, các Ban Đảng và đoàn thể.
Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện, năng lực quản lý hành chính – kinh tế của bộ máy Nhà nước, xây dựng Ủy ban nhân dân mạnh, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng và tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương nghị quyết đó song song với việc phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đảm bảo nhân dân lao động tham gia tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội và an ninh quốc phòng.
B. Một số nhiệm vụ công tác chủ yếu và các biện pháp chính.
I. Tập trung sức đẩy mạnh sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp với khẩu hiệu là: “tất cả cho sản xuất, tất cả để chiến thắng”.
Theo cơ cấu kinh tế đã được xác định là: công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ, cảng, kho bãi thì công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp vẫn là thế mạnh chủ yếu; nông nghiệp còn tồn tại thời kỳ 1986 – 1990 – từ sau 1990 đến năm 2000 thu hẹp dần tiến tới đô thị hóa; thương nghiệp, dịch vụ cảng kho bãi, giao thông thủy sẽ được phát triển mạnh mẽ. Do đó, việc bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư cần gắn chặt chẽ cơ cấu kinh tế. Xây dựng một cơ chế quản lý năng động, phù hợp với cơ cấu kinh tế, bảo đảm tận dụng được mọi khả năng của các thành phần kinh tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp đẩy sản xuất lên với nhịp độ cao hướng vào cơ cấu chung phục vụ được các ngành và nhu cầu của nhân dân lao động trên các lĩnh vực ăn ở, đi lại, học hành và đặc biệt là xuất khẩu.
1- Ở khu vực các xí nghiệp quốc doanh:
Khai thác triệt để năng lực sản xuất các xí nghiệp hiện có là chính, trong đó tập trung đối với các xí nghiệp làm ăn có hiệu quả theo hướng nâng cao năng suất, chất lưộng và hiệu quả; xây dựng nhiều mô hình các xí nghiệp đầu đàn trong một số ngành kinh tế kỹ thuật; xây dựng nhiều mô hình các xí nghiệp đầu đàn trong một số ngành kinh tế kỹ thuật, cụ thể như xí nghiệp cơ khí, lâm sản, thực phẩm, xí nghiệp gạch và thực phẩmđộng lạnh xuất khẩu. Song song đó căn cứ nhu cầu và khả năng mà ở rộng quy mô các xí nghiệp hoặc phát triển mới.
- Xí nghiệp Cơ khí: Chuyển mạnh sang dịch vụ sửa chữa, từng bước bổ sung trang bị kỹ thuật nâng dần trình độ cơ khí chính xác chế tạo thiết bị phụ tùng thay thế cho một số loại xe (chủ yếu là xe thô sơ) như xe đạp, xe ba gác đạp, cấu kiện cho ngành xây dựng, một số chi tiết máy đơn giản cho tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải thủy bộ…
- Xí nghiệp Lâm sản: Ngoài nhiệm vụ khai thác, tăng cường chế biến gỗ, mở rộng diện hoạt động liên kết, tập hợp các lực lượng ngành gỗ tiến tới khép kín cả ngành gỗ, đồ mộc trên địa bàn.
- Xí nghiệp Thực phẩm: Củng cố chế độ quản lý, định hình lại sản phẩm chính, tìm mọi biện pháp phát triển mặt hàng truyền thống như xà bông, dầu ăn, nước tương đảm bảo chất lượng tiên tiến về các sản phẩm hàng hóa này so với tập thể và cá thể.
- Xí nghiệp Gạch:Đầu tư mở rộng sản xuất, cải tiến thiết bị, công nghệ theo luận chứng kinh tế được duyệt, phát triển mặt hàng mới như: ngói, gạch tàu và trong tương lai sản xuất cả gạch bông, khuôn bông, phấn đấu đưa sản lượng bình quân hàng năm từ 3 triệu viên/năm trở lên.
- Mở rộng sản xuất các xí nghiệp Dược, thức ăn gia súc: Về thuốc, đảm bảo sản xuất phục vụ đủ nhu cầu thuốc chữa bệnh thông thường cho nhân dân. Về thức ăn gia súc, đảm bảo cung ứng đủ cho trại quốc doanh chăn nuôi Rạch Lào và một phần cho chăn nuôi gia đình.
- Xí nghiệp chăn nuôi Rạch Lào: Ổn định sản xuất tiến đến làm ăn có lãi, giữ tổng đàn heo năm 1986 bằng năm 1985 và trên cơ sở đó đưa mức tăng sản lượng bình quân tăng hàng năm từ 15 – 20%, cung cấp một phần nhu cầu giống cho các tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp và cán bộ công nhân viên trong phạm vi quận quản lý có nhu cầu chăn nuôi và một phần thịt heo cho xuất khẩu. Hình thành nơi này trại ươm ép cá giống tiến tới làm đầu đàn và khép kín nghề sản xuất cá giống trên địa bàn, góp phần tốt nhất trong công tác cải tạo, quản lý nghề cá giống.
- Chủ động tạo nguồn nguyên liệu cho xí nghiệp thịt đông xuất khẩu bằng chương trình đầu tư chăn nuôi ở những nơi có điều kiện – tập trung ở các phương nông nghiệp, trại chăn nuôi Rạch Lào và chương trình đầu tư chăn nuôi gia công của thành phố.
- Phát triển một số cơ sở mới hướng vào nhu cầu chung của thành phố và thế mạnh của quận như lay lặc, đầu mũ giày; sửa chữa đóng mới tàu thuyền; xí nghiệp vận tải thủy, bộ; lò gạch (ở các phường nông nghiệp) và nhiều xí nghiệp đời sống (chủ yếu khu vực trường học, phường và đơn vị hành chính sự nghiệp quận).
2- Ở khu vực tiểu thủ công nghiệp:
Năm 1986 và thời kỳ đầu năm 1987 đi vào củng cố nâng cao chất lượng về mọi mặt các cơ sở hiện có là chính. Trong củng cố nhất thiết phải sắp xếp lại theo ngành kinh tế kỹ thuật. Chú ý các ngành thế mạnh đã được xác định như cơ khí (chủ yếu sửa chữa và phụ tùng xe đạp); chiếu cói; may mặc, nhôm, nhựa; gỗ (xây dựng và đồ mộc); thực phẩm (nước tương, chao, dầu ăn, chế biến nông sản thực phẩm các loại); điện (bàn ủi, phích cắm điện, quạt bàn); sửa chữa đóng mới tàu thuyền; mây tre là… và đi vào đó tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng chínhtrị; xây dựng một số hợp tác xã đầu đàn gắn với quốc doanh công nghiệp đầu đàn làm trợ thủ đắc lực cho quốc doanh.
Phát triển rộng rãi loại hình sản xuất theo quyết định 34 của Ủy ban nhân dân thành phố ban hành, chú ý các ngành nghề co nhu cầu trước mắt và ngoài danh mục ngành nghề Nhà nước độc quyền.
- Một số chỉ tiêu chủ yếu: (theo giá cố định năm 1982)
+ Năm 1986: Giá trị tổng sản lượng 570 triệu (trong đó quốc doanh, hợp doanh và xí nghiệp đời sống: 40 triệu; tập thể: 450 triệu)
+ Năm 1987: Giá trị tổng sản lượng 650 triệu (trong đó quốc doanh, hợp doanh và xí nghiệp đời sống: 50 triệu; tập thể 540 triệu)
+ Năm 1988: Giá trị tổng sản lượng 750 triệu (trong đó quốc doanh, hợp doanh và xí nghiệp đời sống: 60 triệu; tập thể 650 triệu)
- Biện pháp chính:
Năng suất, chất lượng và hiệu quả là vấn đề sống còn của sản xuất. Yếu tố cơ bản để giải quyết yêu cầu trên là vấn đề quản lý và khoa học kỹ thuật.
+ Đối với các xí nghiệp quốc doanh:
Trong đầu tư chiều sâu, ngoài việc trang bị kỹ thuật thay đổi công nghệ còn phải đầu tư cán bộ quản lý. Phải xem xét lại đội ngũ cán bộ quản lý, nghiệp vụ các xí nghiệp. Mạnh dạn thay đổi cán bộ thiếu năng lực, kém tinh thần trách nhiệm đồng thời với việc bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ quản lý có nhận thức và tư duy, đủ sức tiếp thu và vận dụng cơ chế quản lý mới. Việc bố trí cán bộ quản lý, lãnh đạo, nghiệp vụ, kỹ thuật phải đảm bảo các nguyên tắc quy định; phải dựa vào các tiêu chuẩn cơ bản không được thoát ly các nguyên tắc đã nêu trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Có chế độ chính sách đãi ngộ thích đáng khuyến khích công nhân viên chức phát huy sáng kiến, cải tién kỹ thuật, công nghệ nghiên cứu chế tạo phụ tùng thay thế, khôi phục thiết bị hỏng và cải tiến thiết bị phù hợp với điều kiện sản xuất hiện nay nhằm đảm bảo cho xí nghiệp sản xuất liên tục.
Thực hiện việc giao các quyền chủ động cho xí nghiệp theo nghị quyết dự thảo 306 của Bộ chính trị và quyết định tạm thời của Hội đồng Bộ trưởng và quyền chủ động của các đơn vị kinh tế cơ sở và dự thảo cải tiến quản lý của quận trong đó cần đảm bảo giải quyết cho được các vấn đề trọng yếu như: các quyền chủ động kế hoạch; tài chính; sản xuất, kinh doanh; quyền quản lý vốn và sử dụng vốn; quyền tuyển dụng lao động và thôi việc, đề bạt, thưởng phạt; chế độ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,… (giao cho khối công nghiệp và Ban chỉ đạo cải tiến quản lý thực hiện).
+ Tiểu thủ công nghiệp:
Phải hướng cơ sở xây dựng được kế hoạch từ cơ sở lên. Việc ấn định các chỉ tiêu pháp lệnh phải trên cơ sở hợp đồng kinh tế giữa Nhà nước và cơ sở với mọi điều kiện đảm bảo kèm theo, tuyệt đối không được áp đặt khi không có cơ sở đảm bảo thực hiện. Vướng mắc lâu nay cần sớm được giải quyết là: trong các cân đối thì phần cân đối vật tư do Nhà nước không cung ứng được, chủ yếu là cơ sở tự chạy làm cho tính pháp lệnh của kế hoạch ít hiệu lực. Mặt khác do cơ chế chung về thủ tục hành chính trói buộc, chính sách thuế, giá cả, tín dụng, thanh toán, ký kết hợp đồng kinh tế chưa hợp lý ở mỗi thời kỳ… làm hạn chế quyền chủ động linh hoạt của cơ sở.
Kiện toàn bộ máy quản lý ngành, cải tiến lề lối làm việc, xóa hẳn tập trung quan liêu hành chính; tích cực tháo gỡ khó khăn nhanh chóng cho sản xuất. Mạnh dạn phân cấp quản lý cho phường trên cơ sở mở rộng quyền hạn cho phường đảm bảo hài hòa các mặt quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích với việc kết hợp tốt quản lý ngành và quản lý lãnh thổ. Quá trình chỉ đạo sản xuất, ngành chức năng cần tiếp tục nghiên cứu điều lệ hợp tác xã, tổ sản xuất xem có những vấn đề nào chưa phù hợp với thực tiễn ởmỗi quá trình phát triển mà đề xuất các kiến nghị cụ thể với Ủy ban nhân dân và ngành dọc cấp trên nhanh chóng sửa đổi cho phù hợp như: chính sách thuế, tín dụng, lãi suất tín dụng, kinh phí ngành… nói chung trên cơ bản nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ bất bình đẳng giữa quốc doanh và tập thể.
Ngành thương nghiệp, cung ứng vật tư và xuất khẩu phải gắn chặt với sản xuất đảm bảo tiêu thụ và cung ứng nguyên liệu theo kế hoạch hợp đồng đã ký. Ngoài những phương phức lâu nay đã làm cần tăng cường phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm (vì phương thức này làm cho cơ sở sản xuất chủ động hơn, tiến bộ hơn phương thức gia công( thông qua hợp đồng trực tiếp giữa cơ sở sản xuất với cơ quan tiêu thụ, song thực hiện phương thức này phải kèm theo chính sách thuế và giá cả.
Về tiêu thụ sản phẩm, ngoài phương thức mua nguyên liệu phải bán (hoặc giao nộp) đủ sản phẩm, thì số sản phẩm do cơ sở tự cân đối được, trước hết phải bán cho ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa với giả cả phải chăng, đảm bảo sản xuất có lãi và nếu thương nghiệp không tiêu thụ hết thì cơ sở có quyền tìm khách hàng tiêu thụ theo hướng dẫn của Nhà nước. Đối với sản xuất cá thể hoặc gia đình có thể sản xuất vừa bán sản phẩm khi đã đóng thuế đầy đủ và tuân thủ quy định giá.
Để cơ sở sản xuất hạch toán giá thành đúng đắn, cần thực hiện việc đánh giá tài sản cố định và mức khấu hao thỏa đáng trong từng thời kỳ đúng với giá cả hiện hành, không nên áp đặt nmột cách máy móc.
Để tạo điều kiện phát triển lâu dài, trước mắt là tăng năng suất, giảm giá thành, nâng cao chất lượng mặt hàng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu nhất thiết phải đổi mới thiết bị kể cả thiết bị nhập khẩu. Vì vậy, ngành chủ quản cần giúp cung ứng trang bị kỹ thuật bằng thông qua xuất khẩu hoặc có chính sách cho cá nhân hay tập thể có quan hệ thân nhân ở nước ngoài gởi thiết bị về cho sản xuất theo quy định chung của Nhà nước hiện nay.
Ngân hàng cần chi trả kịp thời tiền gởi của tiểu thủ công nghiệp; đảm bảo cung ứng vốn vay tín dụng theo kế hoạch của các cơ sở; xác định mức tiền mặt phù hợp từng thời kỳ, chú ý cơ sở sản xuất sản phầm mang tính thời vụ, hàng nông sản nguyên liệu và hàng nông sản thực phẩm.
Liên hiệp xã cần chủ động phối hợp với các đoàn thể xây dựng nghị quyết liên tịch phát triển lực lượng chính trị, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ có 60% hợp tác xã bậc cao có đảng viên và tổ Đảng, 80% có chi đoàn. Mặt khác cần chỉ đạo thật tập trung đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành có liên quan trong đề án cải tạo ngành vật tư phế liệu thực hiện có hiệu quả việc nắm nguồn vật tư phế liệu phục vụ sản xuất. Mặt khác trong chỉ đạo cần có chính sách đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu để tạo ra khả năng nhập khẩu vật tư, nguyên nhiên vật liệu mà trên không cung ứng được. Các ngành thương nghiệp, cung ứng vật tư, xuất khẩu gắn chặt sản xuất, cung ứng vật tư nguyên liệu chi sản xuất vừa nắm sản phẩm vừa giúp cơ sở hoạt động liên tục.
3- Nông nghiệp:
Nhiệm vụ chủ yếu của nông nghiệp thồi kỳ này là khai thác có hiệu quả các loại cây trồng và vận nuôi đã được định hình lâu nay, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, nâng cao thu nhập của lao động nông nghiệp; xây dựng nông thôn mới đảm bảo các yếu tố: công, nông, thương, tín, văn hóa-xã hội và xuất khẩu.
- Để đạt yêu cầu đó, trước hết phải thay đổi cung cách quản lý. Công tác chỉ đạo điều hành cần đi vào chỉ đạo theo chuyên đề. Điều tra cơ bản lại theo quy hoạch tổng thể nhằm xác định cây trồng, vật nuôi trên từng vùng một cách cụ thể và qua đó lên cho được tổng sơ đồ chính xác để làm căn cứ giúp cho công tác chỉ đạo điều hành sản xuất đi đúng quỹ đạo, đỡ phầnt hiệt hại cho sau này trong việc thay đổi cấu trúc.
- Phát triển mạnh cấu trúc hạ tầng ở các tập đoàn và hợp tác xã, đảm bảo trong 3 năm tới đều có nhà kho và phòng làm việc bán kiên cố, hoặc kiên cố; xây dựng 3 đường dây điện cho phường 5, phường 8 và khu vực An Phú Tây, hoàn chỉnh thủy lợi nội đồng trong đó có vùng cói và lúa cao sản.
- Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với đặc điểm từng giai đoạn phát triển. Thực hiện công tác kế hoạch hóa gắn với hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hóa phải đảm bảo thực sự dân chủ và tự giác trên cơ sở thực lực của các đơn vị sản xuất từ các nguồn cân đối bằng lao động, đất đai, ngành, nghề, vốn tự có, liên kết, liên doanh, vốn vay… thông qua việc mở rộng sản xuất kinh doanh mà tích lũy vốn đảm bảo khai thác được mọi năng lực sáng tạo, trong mọi khâu công việc tạo nên sức mạnh tổng hợp. Nhà nước chỉ đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật khi nào tập đoàn và hợp tác xã không vuơn tới nổi.
- Ổn định mức khoán sản phẩm, chỉ tiêu năng suất và thuế nông nghiệp trong một số năm để nông dân chủ động sản xuất phấn đấu vượt khoán. Việc ấn định mức khoán cần căn cứ vào điều kiện cụ thể phân hạng đất đai và cơ sở kỹ thuật. Nhà nước phải đảm bảo cung ứng vật tư kịp thời theo chế độ, hợp đồng đã ký. Tăng cường chế độ bảo hiểm, bảo vệ thực vật. Đầu tư khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất.
- Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình; mở rộng nghề tiểu thủ công, chăn nuôi các loại và có chính sách giá cả thỏa đáng đảm bảo lưu thông, tiêu thụ sản phẩm.
- Thi hành tốt các chủ trương về tổ chức cán bộ, chăm lo quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nghiệp vụ để trang bị những kiến thức cần thiết cho yêu cầu quản lý một đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh tổng hợp.
- Về xây dựng lực lượng, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ ở mỗi hợp tác xã có tổ Đảng, tập đoàn có đảng viên và Chi đoàn thanh niên. 100% lao động tập thể vào Hội, đưa sinh hoạt hội viên có chất lượng khá 80%.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
- Lúa: Chủ yếu trồng trên đất có điều kiện thâm canh, có năng suất cao (5tấn/vụ), từng bước bỏ hẳn lúa 1 vụ. Ngoài ra, tùy theo điều kiện từng nơi, cố gắng dành từ 20 – 50% diện tích trồng lúa xuất khẩu (NN 4B; IR 13 – 240 – 10 – 1; Nàng hương) để có ngoại tệ nhập phân bón, thuốc trừ sâu và thiết bị cần cho sản xuất nông nghiệp.
- Cói: Năm 1986 giữ diện tích cũ; năm 1987 đưa lên 124 ha và năm 1988 150 ha. Năng suất bình quân 12 tấn/ha/năm 1986 và 16 tấn/ha/năm 1988. Nơi trồng cói cần đảm bảo chế biến được nhiều mặt bằng xuất khẩu theo hướng kh1p kín.
- Rau: Chủ yếu là rau muống nước, đưa năng suất bình quân đạt từ 70 – 80 tấn/ha/năm. Xem xét một số khu vực đang trồng rau, lúa phù hợp với xây dựng cơ bản, nhà ở, các công trình văn hóa xã hội… như phường 7, 20, 8 và một phần diện tích của phường 22… để tính đến việc chuyển hướng bố trí, sử dụng hợp lý, nhằm thay đổi bộ mặt xã hội tiến đến đô thị hóa.
- Vật nuôi: Đưa tổng đàn heo năm 1986 lên 8.500 con; năm 1987: 13 – 15 ngàn con và 1988: 20 ngàn con (trong đó có một phần dành cho xuất khẩu). Riêng các hộ nông nghiệp, phấn đấu mỗi hộ nuôi bình quân từ 1 – 2 heo thịt/năm. Hầu hết các hợp tác xã và tập đoàn xây dựng được chuồng trại nuôi heo nái sinh sản. Ngoài ra phát triển mạnh gia cầm như gà công nghiệp và một số vật khác như thỏ, bò, dê, trâu…
- Thủy sản: Đưa tổng sản lượng cá năm 1986 là 354 tấn, năm 1987: 396 tấn, năm 1988: 444 tấn.
- Đưa sản lượng tôm xuất khẩu ở nông trường Duyên Hải năm 1986 đạt 10 tấn; năm 1987: 396 tấn, năm 1998: 444 tấn.
- Đưa sản lượng tôm xuất khẩu ở nông trường Duyên Hải năm 1986 đạt 10 tấn; năm 1987 đạt 24 tấn và năm 1988 đạt 34 tấn.
- Tổ chức trồng cây xanh trên toàn bộ bờ ao và kênh mương nội đồng, đảm bảo đạt tỉ lệ sống từ 50 – 60%.
- Nâng tổng số công tập thể bình quân đến năm 1988: 250 ngày công.
II. LÀM CHỦ LƯU THÔNG, PHÂN PHỐI.
PHÁT TRIỂN MẠNH HỆ THỐNG THƯƠNG NGHIỆP XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, TỪNG BƯỚC TIỀN LÊN LÀM CHỦ THỊ TRƯỜNG, GIÁ CẢ.
1- Ngành thương nghiệp:
Nhiệm vụ cấp bách và thường xuyên hiện nay là từng bước tiền lên làm chủ thị trường, giá cả, làm chủ lưu thông, phân phối. Đó là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và hết sức khó khăn phức tạp bởi lẽ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa chưa hoàn thành, nền kinh tế còn nhiều thành phần, thị trường xã hội còn đang rối loạn, thị trường có tổ chức còn yếu, chưa chi phối được thị trường xã hội.
- Để làm chủ lưu thông, phân phối, cơ bản là nâng cao sức mạnh hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa đồng bộ với việc đẩy mạnh sắp xếp và tổ chức lại sản xuất, cải tạo thương nghiệp tư doanh, quản lý thị trường, giá cả.
- Để nâng cao sức mạnh hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, trước hết là tiếp tục quán triệt nhuần nhuyễn nội dung cơ bản của nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa 5) về vấn đề kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cần làm cho toàn ngành thấu suốt mục đích cơ bản của thương nghiệp là phục vụ sản xuất và đời sống. Có đảm bảo kinh doanh tốt mới phục vụ tốt và kinh doanh là phương tiện để phục vụ. Nếu như kinh doanh chỉ để nâng cao đời sống ở khu vực mình, để cho thị trường giá cả rối loạn, sản xuất gặp khó khăn thì không có ý nghĩa gì cả và đó không phải là kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục kiện toàn bộ máy các công ty từ ban phụ trách đến cửa hàng trưởng, các phòng nghiệp vụ, cán bộ phụ trách các khâu trọng yếu khác như thủ quỹ, thủ kho, kế toán trưởng, cán bộ thu mua, kho vận. Tinh giảm biên chế, loại khỏi ngành những người không đủ phẩm chất, vi phạm kỷ luật, pháp luật Nhà nước. Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên. Xây dựng và thực hiện cho được các yêu cầu về tiêu chuẩn hóa cán bộ; đưa nội dung chống tiêu cực vào nghị quyết các chi bộ và đơn vị hàng tháng, phát triển lực lượng chính trị ngày càng tăng, đảm bảo các cửa hàng, quầy hàng có đảng viên, các tổ chức chính trị ở từng đơn vị mạnh, đủ sức làm nòng cốt trong mọi hoạt động của hệ thống thương nghiệp.
- Đảm bảo quyền chủ động kinh doanh của hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa theo quy định tạm thời của Hội đồng Bộ trưởng. Việc mua bán, kinh doanh của hệ thống thương nghiệp phải đảm bảo trật tự kỷ cương trong khuôn khổ quy định của Nhà nước, chống khuynh hướng tự do tùy tiện, cục bộ theo ngành, nặng buôn bán, mua quanh bán quẩn, tranh mua, bán đẩy giá lên, chạy theo lợi nhuận đơn thuần. Đảm bảo lưu thông hàng hóa một cách bình thường, chấm dứt ghìm hàng chờ giá lên, tạo ra khan hiếm giả tạo làm rối loạn thị trường. Chấp hành nghiêm kỷ luật giá, đảm bảo bán theo đúng hệ thống giá mới do Nhà nước quy định, không được tùy tiện nâng giá, phần chênh lệch giá phải được nộp vào ngân sách 100%. Những mặt hàng cùng chủng loại, chất lượng bán ra trên cùng khu vực phải đảm bảo thống nhất một giá, mọi vi phạm các quy định phải được xử lý nghiêm khắc.
- Cần có một cơ chế năng động để nắm hàng vì đó là công cụ quan trọng để làm chủ thị trường. Để nắm hàng cần thực hiện mạnh mẽ các hình thức liên doanh, liên kết trên địa bàn, ngoài địa bàn, gắn chặt thương nghiệp hai đầu, loại tư thương đường dài bằng nhiều phương thức như: ứng vốn trước, nua đứt bán đoạn, bán nguyên liệu mua lại thành phẩm, ký kết hợp đồng gia công hoa75c cùng hợp tác sản xuất kinh doanh, lời cùng chia, lỗ cùng chịu; đầu tư phát triển sản xuất, gắn nội, ngoại thương điều hòa hỗ trợ hàng hóa lẫn nhau trong đó chú trọng phương thức hợp tác đầu tư cho sản xuất. Mặt khác cần có chính sách giá cả hợp lý đảm bảo thu mua hầu hết hàng nơi khác đến, chú ý các mặt hàng tiêu dùng và dịch vụ quan trọng, hàng nông sản thực phẩm, nông sản nguyên liệu. Đối với hàng sản xuất ra trên địa bàn trong khu vực công nghiệp quốc doanh phải nắm 100%, hàng tiểu thủ công nghiệp 80% trong đó chú trọng hàng tự sản tự tiêu.
- Xây dựng các hợp tác xã tiêu thụ phường mạnh đảm bảo làm trợ thủ đắc lực cho thương nghiệp quốc doanh. Thực hiện việc phân cấp cho hợp tác xã tiêu thụ phường trong thu mua nắm hàng trên cơ sở mở rộng mặt hàng và địa bàn hoạt động, gắn nội thành với ngoại thành, phường với xã nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp góp phần làm chủ thị trường. Hoạt động mua bán của các hợp tác xã tiêu thụ phường phải đảm bảo hầu hết là bán lẻ, có phương thức thu mua hợp lý thu mua cho được hàng hóa tự sản tự tiêu, chú trọng trong khu vực cá thể và các tập đoàn sản xuất trong phạm vi phường quản lý, đồng thời giải quyết triệt để tình trạng hợp tác kinh doanh, sản xuất chưa đúng chủ trương.
- Trong các phương thức nắm hàng nói trên phải đặc biệt chú ý và thực hiện triệt để là phương thức thương nghiệp gắn với sản xuất. Hệ thống thương nghiệp cần có tỉ lệ đầu tư thích đáng cho sản xuất nhằm nắm hàng tận gốc, nắm chặt đầu vào để tính đúng đầu ra nhằm đảm bảo giữ giá.
- Về phân phối tiêu thụ, phấn đấu từng bước nắm đại bộ phận bán buôn, chi phối bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng quan trọng. Các mặt hàng thiết yếu đảm bảo phân phối đến tay người tiêu dùng theo giá đảm bảo kinh doanh, rẻ hơn thị trường tự do từ 15 – 20%. Hàng cấp 3 rót xuống cho phường cần cho tỷ lệ hoa hồng thỏa đáng đảm bảo phường thực hiện được kinh doanh. Để làm được việc đó, cần tính toán khoa học giảm triệt để phí lưu thông trong các khâu của lưu thông như: vận chuyển, bốc xếp, bảo quản, chế tác, loại bỏ các chi phí bất hợp lý, bất hợp lệ, giảm biên chế gián tiếp các khâu trung gian không cần thiết, bố trí lại lao động hợp lý sao cho mỗi người làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
- Tổng trị giá mua thuần túy của hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa về tốc độ tăng bình quân từ 18 – 20% so với thực hiện năm trước (chủ yếu là tính khối lượng hàng hóa, không tính yếu tố tăng giá).
- Tổng trị giá bán ra thuần túy tăng bình quân hàng năm so với thực hiện năm trước từ 19 – 21% (cũng chủ yếu tính khối lượng hàng hóa, không tính yếu tố tăng giá).
- Tỷ trọng bán lẻ năm 1986 chiếm 70%, năm 1987: 75% và năm 1988: 80% doanh số bán ra toàn ngành thương nghiệp.
- Mức chiếm lĩnh thị trường xã hội đến cuối nhiệm kỳ bình quân từ 60 – 70%.
- Các mặt hàng bán theo phương thức phân phối rẻ hơn như thịt heo: 100%, gạo: 95%, cá: 95%, chất đốt (củi): 90%, nước mắm, nước chấm: 95%, đường: 90%, muối: 90% và rau, quả các loại: 70%.
2- AĂn uống, dịch vụ;
- Hoàn thành công tác cải tạo sắp xếp lại kinh doanh ăn uống trong năm 1986 theo Chỉ thị 12 của Ban Thường vụ Thành ủy. Không cho phát triển mới. Cần đổi mới phương thức hoạt động, lấy phục vụ làm chính, đi vàohạch toán kinh doanh, đảm bảo có lãi, tăng thu ngân sách. Chấm dứt tình trạng ăn uống lãng phí, hạn chế dùng rượu. Nâng cao chất lượng các cửa hàng hợp tác kinh doanh, chấm dứt tình trạng khoán thu, thực hiện kiểm tra kiểm soát chặt chẽ giá cả đồng thời có biện pháp quản lý được thực chất doanh thu để điều tiết lợi nhuận thỏa đáng.
- Sắp xếp lại hoạt động dịch vụ theo ngành kinh tế kỹ thuật, tổ chức thành tổ ngành nghề để thực hiện tốt công tác quản lý, đảm bảo giá cả thống nhất. Nâng cao tỷ trọng phục vụ lên 30%, từng bước giảm dần kinh doanh. Những năm tới cần chuyển hướng hoạt động gắn cơ cấu kinh tế chung trên cơ sở đó mà xác định mục tiêu mới, trước hết là nhằm các dịch vụ tập trung phục vụ cảng, vui chơi, giải trí, dịch vụ du lịch, kho bãi…
3- Tài chính-thuế-giá cả:
- Huy động triệt để các nguồn thu, tiến tới thăng bằng chi thu cân đối ngân sách, năm 1986 đến năm 1987 xin thành phố trợ cấp một ít cho công trình phục vụ phúc lợi xã hội, đến năm 1988 quận phấn đấu tự cân đối.
- Về biện pháp tăng thu: không chi những việc chưa cần. Mở rộng các nguồn thu bằng cách phát triển thêm nhiều cơ sở sản xuất mới trong đó ưu tiên cho quốc doanh, hợp doanh, xí nghiệp đời sống và ngành nghề tiểu thủ công theo quyết định 34. Thực hiện định kỳ kiểm tra đánh giá đúng thực chất doanh thu, lợi nhuận của các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhằm kịp thời điều chỉnh mức thuế hợp lý theo chỉ số tăng giá trong từng thời kỳ. Quản lý chặt chẽ tài sản xã hội chủ nghĩa mà ngành được giao quản lý, chống hư hao thất thoát; kiểm tra hiệu quả đồng vốn các đơn vị sản xuất, kinh doanh, hướng các đơn vị triệt để tiết kiệm đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả đồng vốn.
- Chấm dứt tình trạng chậm chi theo kế hoạch được duyệt. Mọi chi trả chậm trễ làm thiệt hại đến sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác ngành chức năng phải chịu trách nhiệm.
- Kiện toàn bộ máy Phòng Tài chánh, Thuế, trong đó cần tập trung ngành thuế, xác định lại biên chế tổ chức trên cơ sở huy động được thuế. Thuế phải thu dứt khoát, kịp thời, trách dây dưa, tồn đọng. Nghiêm cấm tạm thu. Mặt khác ngành thuế cần tiến hành tách bộ thuế đối với sản xuất theo yêu cầu của Liên hiệp xã để phục vụ cho công tác quản lý sản xuất của Liên hiệp xã và giao tổ thuế xuống cho phường quản lý.
- Về công tác giá phải nhanh, nhạy kịp thời phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, đảm bảo thời gian duyệt giá giữa các bên thỏa thuận, mọi trì trệ làm ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh ngành giá phải chịu trách nhiệm.
4- Ngân hàng chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế mới, chấm dứt tập trung quan liêu, cửa quyền, hành chánh, bao cấp, đi sát cơ sở và tạo dễ dàng cho sản xuất kinh doanh trong quan hệ giao dịch với ngân hàng. Xây dựng kế hoạch tiền mặt, tín dụng sát hợp với tình hình sản xuất kinh doanh; đảm bảo huy động tiền mặt vào ngân hàng theo đúng chính sách và pháp luệt Nhà nước. Cung ứng đầy đủ và kịp thời cho sản xuất kinh doanh về kế hoạch tiền mặt cũng như tín dụng theo hợp đồng giữa các bên đã ký. Trong quan hệ giữa các bên phải đảm bảo bình đẳng, dân chủ, tuân thủ các quy định của mỗi bên đã được thể chế hóa thành pháp luật, bên nào vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm.
- Kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể và Mặt trận với Ủy ban nhân dân các phường vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm. Hoàn thành công tác cải cạo các hộ kim hoàn, tổ chức mạng lưới mua, bán theo tinh thần Chỉ thị 04 của Ủy ban nhân dân thành phố. Tiếp tục củng cố các hợp tác xã tín dụng đã có ở các phường nông nghiệp, phấn đấu nhân ra nhiều mô hình tiên tiến làm ăn có lãi, phát triển xong các hợp tác xã tín dụng ở các phường còn lại trong năm 1986.
5- Cung ứng xuất khẩu:
- Mở rộng hơn nữa việc liên doanh, liên kết hợp tác và tăng cường đầu tư chiều sâu tạo chân hàng xuất. Ưu tiên đối với nhóm hàng có nhiều khả năng và có quy mô khá, chú trọng trong công tác công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản. Phát triển dịch vụ xuất khẩu, sắp xếp và tổ chức lại các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, thành lập nhiều nhóm hàng xuất. Ngành công nghiệp cần xác định mũi nhọn để tập trung đầu tư, tránh đầu tư tràn lan. Mục tiêu đầu tư của xuất khẩu là phát triển sản xuất và tái tạo ngoại tệ, do đó cần ưu tiên cho các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu với biện pháp chính là: “Lấy bản thân hiệu quả của hoạt động xuất khẩu trang bị cho công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thúc đẩy nhanh quá trình tái tạo ngoại tệ”.
- Phấn đấu đưa tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu bằng hàng chế biến, sản xuất tại chỗ chiếm 40 – 50% trong tổng trị giá của cơ cấu hàng cung ứng xuất khẩu. Cơ cấu hàng nhập về nguyên liệu vật tư thiết bị cho sản xuất đảm bảo tỷ trọng theo quy định của thành phố và việc phân phối phải đảm bảo ưu tiên cho sản xuất trên địa bàn với mức tỷ lệ từ 60 – 70% và cần đảm bảo đưa lại trị giá hàng xuất khẩu tương ứng với tỷ lệ đã giao cho cơ sở sản xuất.
- Tăng nhanh vòng quay vốn bình quân từ 6 – 8 vòng/năm. Chú ý, trong quay vòng vốn cần đảm bảo song song hai mặt: đầu tư sản xuất tạo chân hàng để thu mua lại sản phẩm; thực hiện kinh doanh bình thường.
- Xây dựng mối quan hệ làm việc chặt chẽ giữa công ty cung ứng hàng xuất khẩu và các công ty nội thương trên cơ sở xác định mục đích của mối quan hệ đó là: cả hai cùng phục vụ sản xuất, đời sống, cùng góp phần tái tạo ngoại tệ, cùng tích lũy cho ngân sách, cùng hỗ trợ nhau các mặt để hoàn thành nhiệm vụ chung và nhiệm vụ của ngành. Các công ty nội thương kinh doanh tổng hợp tham gia làm hàng xuất khẩu cầntập trung đầu mối xuất cho Công ty cung ứng hàng xuất khẩu để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu địa phương; tỷ giá thực hiện hàng xuất khẩu trong từng thời điểm cần thống nhất để tránh tình trạng tranh mua, tranh bán và tỷ giá này do Ủy ban nhân dân quận quyết định. Việc phân phối lợi ích của các bên, trên cơ sở xác định mục tiêu trong quan hệ nội ngoại thương nói trên, cũng do Ủy ban nhân dân quận quyết định.
- Dự kiến một số chương trình đầu tư của Công ty trong năm 1986 và những năm kế tiếp như sau:
+ Chương trình đầu tư phát triển chăn nuôi heo tạo nguồn xuất khẩu thịt đông (trên địa bàn và huyện liên kết hợp tác)
+ Chương trình đầu tư hợp tác nuôi trồng đánh bắt tôm xuất khẩu ở các huyện liên kết có tiềm năng này và ở Duyên Hải.
+ Chương trình đầu tư phát triển quốc doanh hoặc hợp doanh may mặc và đầu mũ giày.
+ Chương trình đầu tư một số mặt hàng công nghệ phẩm xuất phẩu ở ngành đồ điện: phích cắm điện, cầu lông, các sản phẩm chiếu cói.
+ Chương trình đầu tư vịt xuất khẩu (nếu thành phố có quan hệ xuất được với nước ngoài vá giao chỉ tiêu cho quận).
+ Chương trình huy động kiều hối và hợp tác với công ty Việt kiều.
III. XÂY DỰNG, SỬA CHỮA, QUẢN LÝ NHÀ ĐẤT, CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG-GIAO THÔNG VẬN TẢI.
1- Xây dựng, sửa chữa, quản lý nhà đất, công trình công cộng:
- Xây dựng cơ bản năm 1986 và những năm tiếp theo trên cơ sở nguồn vốn quận tự cân đối là chính. Do vậy phải tính toán đầu tư mục tiêu nào đem lại hiệu quả kinh tế cao. Mạnh dạn lùi lại các công trình xét thấy không có khả năng dứt điểm. Ưu tiên đầu tư cho sản xuất và kinh doanh. Các công trình phúc lợi văn hóa – xã hội chỉ được thực hiện bằng nguồn vốn huy động nhân dân và một phần trợ cấp của thành phố (nếu có), chủ yếu cho sự nghiệp giáo dục để giải tỏa từng bước ca ba.
Mục tiêu trong năm 1986 – 1987 là dứt điểm các công trình dở dang ở khu vực sự nghiệp giáo dục, y tế như phòng học trường Dương Bá Trạc, trường phường 5, Đồng Tháp, Đài truyền thanh, vùng cói, phòng khám đa khoa và một số hạng mục phát triển xí nghiệp gạch, dược, cơ khí và các công trình trong chương trình đầu tư cho xuất khẩu. Thực hiện sưa chữa lớn chợ Xóm Củi đến năm 1988 hoàn chỉnh. Tiếp tục cải tạo chợ Rạch Ông, Phạm Thế Hiển, xây dựng tiếp một số mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ, bãi chiếu phim Phạm Thế Hiển, sân bóng.
- Tăng cường công tác quản lý nhà, thực hiện sửa chữa nhà xuống cấp; nhà khu vực Tuyên huấn và Quận đội, chung cư Phạm Thế Hiển. Về xây dựng mới, phấn đấu thực hiện từ 500 – 700 căn hộ để giải tỏa nhà lụp xụp trong các khu vực đông dân cư, trong đó quận xây dựng để bán cho cán bộ công nhân viên chức, gia đình chính sách và nhân dân lao động nghèo 300 căn, số còn lại phân bổ cho các phường huy động thực hiện, quận có trách nhiệm bố trí mặt bằng, giúp thiết kế và một số thủ tục cần thiết để phường đảm bảo thực hiện. Riêng nhà dân tự xây dựng theo các loại hình kiên cố, bán kiên cố và giản đơn, ngành chức năng có trách nhiệm hướng dẫn xây dựng theo quy hoạch, giải quyết mặt bằng và những thủ tục cần thiết khác. Chú ý, trong việc mua bán nhà cần đảm bảo hai tính chất kinh doanh và phục vụ.
- Thực hiệnt iếp Chỉ thị 216 trên diện rộng, quản lý tốt nhà xuất cảnh theo phân cấp. Việc cấp nhà cho cán bộ c6ng nhân viên cần giải quyết bằng nhiều hình thức như: bán trả góp, cấp rồi hóa giá. Cần xây dựng quy chế, quy trình hợp lý giúp cho việc phân phối nhà ở đúng đối tượng, đúng chính sách, đảm bảo tương đối công bằng hợp lý. Phân cấp cho phường trong việc quản lý nhà, thủ tục mua bán, xây dựng sửa chữa trên cơ sở nâng cao quyền hạn trách nhiệm.
2- Giao thông vật tải:
Tiếp tục củng cố hợp tác xã vận tải thủy, bộ, đẩy mạnh khai thác giao thông thủy, phấn đấu đưa khối lượng vận tải hàng hóa và hành khách tăng bình quân hàng năm từ 10 – 15%. Đảm bảo duy tu bảo dưỡng đường xá theo phân cấp quản lý, phát triển đội vận tải quốc doanh thủy, bộ, tăng cường năng lực sửa chữa, đóng mới tàu thuyền trọng tải nhỏ ở các hợp tác xã. Mặt khác, để tăng cường khả năng ngành giao thông, kiến nghị thànhphố – Sở giao thông vận tải giao về cho quận quản lý cơ sở sửa chữa đóng mới tàu, thuyền Phước Sanh; phân cấp và giao cả kinh phí về cho quận để quận chủ động sửa chữa các cầu, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại của nhân dân; giải quyết chỉ tiêu nhiên liệu và phân công tuyến đường cho quốc doanh vận tải thủy, bộ của quận sau khi thành lập.
IV. VỀ DÂN SỐ, PHÂN BỐ LAO ĐỘNG, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM.
Đưa tốc độ giải quyết việc làm tăng lên với nhịp độ cao hơn các năm trước. Dự kiến mức tăng bình quân hàng năm từ 20 – 30% (khoảng 20 đến 25 ngàn người), ưu tiên giải quyết số thanh niên xung phong, bộ đội xuất ngũ. Hướng phân bổ chủ yêu là trên địa bàn, một ít đưa đi nơi khác theo phân công của thành phố và Duyên Hải; tuyển mới thanh niên xung phong; tuyển công an, tuyển sinh… Ngoài các hướng kể trên cần bố trí thích hợp một lực lượng lao động cho yêu cầu thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất lao động trong khu vực nông nghiệp song song với việc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, mở rộng sản xuất kinh tế gia đình và các dịch vụ phục vụ cảng.
- Trong phân bố và sử dụng lao động, cần làm đồng bộ với công tác kế hoạch hóa dân số và gia đình với các biện pháp khẩn trương và chính sách cụ thể để giảm nhịp độ tăng dân số.
- Sắp xếp lại bộ máy Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, bố trí lại cho đúng người đúng việc, đưa số dôi ra chuyển sang sản xuất và dịch vụ để cho mọi người làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
- Mặt khác, để phân bố và sử dụng lao động thuận lợi, cần phát triển mạnh trường vừa học vừa làm, giáo dục hướng nghiệp và trung tâm dạy nghề cho cả học sinh và lao động xã hội. Chú ý giải quyết số học sinh thi rớt lớp 10, phổ thông trung học và đại học để tạo những khả năng cần thiết bố trí vào những khu vực cho thích hợp. Đối với trung tâm dạy nghề phải mạnh dạn đầu tư mở rộng theo khả năng của quận, đào tạo được nhiều người theo nhiều loại hình nghề nghiệp, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ đạt từ 4000 đến 5000 người.
V. KHOA HỌC KỸ THUẬT.
- Đưa công tác khoa học kỹ thuật vào kế hoạch, đảm bảo chế độ chính sách thỏa đáng và cơ sở vật chất hợp lý với khả năng của quận. Về kinh phí cho phép trích 21% ngân sách và thực hiện quy định tạm thời của Hội đồng Bộ trưởng về việc trích lợi nhuận thu được do ứng dụng các đề tài khoa học. Về nhiệm vụ cần tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách của sản xuất, chủ yếu là nghiên cứu ứng dụng nhằm khắc phục nhược điểm về hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp.
- Ở lĩnh vực công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nghiên cứu khắc phục khó khăn về nguyên liệu, phụ tùng thay thế, cải tiến thiết bị, công nghệ đưa việc sử dụng công suất máy móc đât từ 70 – 80%. Cần có chương trình cụ thể đầu tư thời gian khảo sát từng xí nghiệp để chủ động đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thiết thực cho việc tổ chức chỉ đạo phát triển sản xuất ở các xí nghiệp.
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, tập trung nghiên cứu cây trồng, vật nuôi từ đó xây dựng chương trình mục tiêu về các đề tài nghiên cứu nhằm ứng dụng thúc đẩy nông nghiệp phát triển một bước toàn diện. Bên cạnh đó cần mở rộng nghiên cứu các đề tài khác phục vụ đời sống và sức khỏe nhân dân như nghiên cứu sản xuất các loại dược phẩm mới, vấn đề môi trường, môi sinh, công tác sinh đẻ có kế hoạch…
- Nâng cao chất lượng hoạt động Hội đồng quản lý sáng kiến của quận và các tổ quản lý sáng kiến ở cơ sở, đẩy mạnh hoạt động câu lạc bộ giám đốc, câu lạc bộ khoa học kỹ thuật và hoạt động của Ban khoa học kỹ thuật. Cho thành lập trung tâm sản xuất thử và thông tin khoa học kỹ thuật để tạo điều kiện thực hiện các đề tài nghiên cứu trước khi đưa vào sản xuất.
VI. ĐẨY MẠNH CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUAN HỆ SẢN XUẤT MỚI TRÊN MỘT SỐ LĨNH VỰC TRỌNG YẾU.
Trong ba năm tới, nhất là một số năm đầu (1986 – 1987) phải bằng mọi hình thức, biện pháp tập trung sức mạnh tổng hợp làm cải biến tình hình cải tạo xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực công, nông, thương nghiệp, dịch vụ, văn hóa xã hội… Để đạt mục tiêu đó, biện pháp cơ bản là phải đi vào cải tạo từng ngành kinh tế kỹ thuật một cách vững chắc, đảm bảo khi xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ phải xác lập và xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt: chế độ sở hữu; chế độ phân phối và chế độ quản lý, tận dụng được mọi khả năng các thành phần kinh tế, không chủ quan nóng vội chạy theo số lượng, hình thức.
- Ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: sắp xếp lại sản xuất theo ngành kinh tế kỹ thuật trọng điểm đã nêu trong nghị quyết. Chú ý đáp ứng các yêu cầu về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật (kể cả đầu tư cán bộ), ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh… làm chuyển biến một bước quan trọng về chất lượng thàhhphần kinh tế quốc doanh và tập thể. Kiểm tra thường xuyên các hợp tác xã và tổ sản xuất, nơi nào chưa đúng tính chất sản xuất xã hội chủ nghĩa để tiếp tục uốn nắnm nơi nào bệ rạc quá cho giải tán đồng thời tổ chức lại sản xuất theo đúng quy định của Nhà nước.
- Đối với người sản xuất nhỏ, cá thể, hướng chính là giáo dục, từng bước vận động đi vào làm ăn tập thể với những hình thức thích hợp từ thấp đến cao dựa trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi và sau này đối với thành phần kinh tế cá thể còn tồn tại theo quy định chung thì sẽ thi hành những chính sách đúng đắn để sử dụng, hướng họ đi vào làm ăn theo quỹ đạo kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Ở lĩnh vực nông nghiệp, tiếp tục giác ngộ chính trị lực lượng lao động, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Năm 1986, xây dựng thêm 2 hợp tác xã phường 9 và phường 22. Phấn đấu giữ vững danh hiệu hai đơn vị tiên tiến là hợp tác xã Quyết Thắng (phường 5), nhân thêm một hợp tác xã tiên tiến ở phường 9; đưa hợp tác xã phường 21 và khu vực An Phú Tây lên dạng khá, không có hợp tác xã trung bình và yếu kém. Riêng hợp tác xã Phú Lợi phường 22, cần tập trung củng cố tổ chức, đảm bảo giữ vững danh hiệu đạt được trong những năm qua.
- Về văn hóa xã hội, đến năm 1988 mỗi hợp tác xã có một nhà trẻ và tổ chức được nhóm giữ trẻ theo từng cụm dân cư. Xây dựng và củng cố mạng lưới y tế, cụm văn hóa, thông tin ở 7 phường nông nghiệp; thành lập tủ sách và tủ thuốc y tế ở từng tập đoàn và hợp tác xã; đưa công tác kế hoạch hóa gia đình phát triển mạnh, hạ tỷ lệ phát triển dân số xuống dưới 1,4%. Về nguồn vốn xây dựng cơ sở vật chất trong các tập đoàn và hợp tác xã nông nghiệp, ngoài một phần vốn Nhà nước hỗ trợ chủ yếu là vốn ở bản thân cơ sở và được trích từ quỹ không chia.
- Làm quy hoạch bố trí lại dân cư và triển khai từng bước.
- Ở lĩnh vực lưu thông, sắp xếp lại thương nghiệp tư doanh theo từng ngành hàng đồng bộ với quản lý thị trường nhằm ổn định mua bán, ổn định giá cả. Phải tiến hành đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, giáo dục, tư pháp, trong đó biện pháp kinh tế là chủ yếu, song phải đảm bảo các yêu cầu sử dụng quản lý hướng họ theo đúng quỹ đạo kinh tế xã hội chủ nghĩ, chấp hành các chính sách quản lý và pháp luật Nhà nước song song với việc phấn đấu không ngừng đưa thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa từng bước tiến lên nắm vai trò chủ đạo, kiểm soát cho được thị trường tự do, làm cho nó trở lên lành mạnh đi vào thị trường có tổ chức, gắn được sự liên kết chặt chẽ giữa các thành phần thương nghiệp nhằm góp phần phục vụ đời sống xã hội, không để xảy ra bế tắc lưu thông. Về biện pháp cơ bản là điều tra, phân loại nắm bọn gian thương đầu cơ, buôn lậu, làm hàng gian hàng giả, kinh doanh trái phép để trừng trị thích đáng. Đối với một số ngành mà Nhà nước thống nhất quản lý, phải loại tư thương ra khỏi thị trường như: lương thực, thịt, cá, chiếu cói, in ấn, văn hóa phẩm, thuốc chữa bệnh, nông sản, nguyên liệu, vật tư, phê liệu, rượu, chất đốt, nước mắm, nước chấm, vải sợi và các mặt hàng xuất khẩu ngoại nhập… Trong các mặt hàng nói trên, có thể xem xét cụ thể năng lực quản lý và tổ chức kinh doanh của ta mà cho phép mở ra các hình thức đại lý bán lẻ, hợp tác kinh doanh đối với số có tay nghề, có biểu hiện tích cực với mục tiêu là quốc doanh từng bước tiến lên chiếm lĩnh độc quyền tổ chức kinh doanh. Đối với người buôn nhỏ, có chuyên môn tay nghề mà thương nghiệp xã hội chủ nghĩa chưa thay thế ngay được và không nằm trong diện các mặt hàng Nhà nước độc quyền quản lý thì tổ chức sắp xếp cải tạo sử dụng dưới nhiều hình thức phù hợp. Cần kiểm tra lại các hình thức tổ chức kinh tế quá độ trên một số lĩnh vực đã được hình thành, nơi nào làm ăn tốt thì cho tiếp tục, nơi nào làm ăn không tốt, klhông có khả năng cải tạo thì đình chỉ hoạt động và giải tán. Hình thức liên doanh hợp tác nào mà Nhà nước đảm bảo thay thế được cần thiết thì xóa luôn và chuyển họ sang sản xuất, dịch vụ (vật tư, phế liệu, vải sợi, vật liệu xây dựng). Mặt khác cần tăng cường lãnh đạo của Đảng và hoạt động của các đoàn thể, giải quyết tốt vấn đề tổ chức và cán bộ, xây dựng chế độ quản lý, phân phối, phát triển mạnh mẽ lực lượng chính trị, chấp hành tốt chính sách giá cả, mua bán, chống có hiệu quả việc móc ngoặc tuồn hàng cho tư thương, tranh mua tranh bán, tùy tiện định giá, nâng giá, thanh lọc đối với những cán bộ công nhân viên chức thoái hóa biến chất trong khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể, trong đó phát động quần chúng tham gia kiểm soát và quản lý thị trường giá cả, từng bước tăng cường sức mạnh thị trường có tổ chức làm cho thị trường này chiếm tỉ trọng ngày càng lớn đủ sức chi phối thị trường xã hội. Các ngành khác cũng phải ra sức tiến hành cải tạo ngành mình nhằm tạo ra chuyển biến đồng bộ góp phần với sản xuất và kinh doanh đầy mạnh mọi hoạt động trong đời sống xã hội tiến lên. Nói tóm lại, mục đích cuối cùng của cải tạo là phải nhằm đảm bảo các thành phần kinh tế quốc doanh cũng như tập thể liên kết chặt chẽ với các thành phần kinh tế khác tạo nên sức mạnh tổng hợp làm cho sản xuất, lưu thông ngày càng phát triển nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đề ra.
VII. CÁC NHIỆM VỤ VĂN HÓA – XÃ HỘI:
1- Văn hóa, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền:
Các hoạt động ở lĩnh cực này phải đảm bảo tạo ra động lực phát triển kinh tế, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Nội dung cơ bản của các hoạt động cần nhắm vào việc nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, xây dựng con người mới, động viên phong trào thi đua lao động sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý, thực hành tiết kiệm, xây dựng nếp sống mới xã hội chủ nghĩa, làm việc có kỹ thuật, có kỷ luật đảm bảo trật tự vệ sinh công cộng, sinh đẻ kế hoạch, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cức và thực hiện sự công bằng xã hội, chống các hủ tục mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác, phấn đấu nâng mức hưởng thụ văn hóa ở mỗi người dân tăng cừ 1,5 trở lên; 1/3 phường đạt từ 4 – 6 mặt văn hóa; 2/3 phường đạt từ 3 – 4 mặt.
Nhằm đạt mục tiêu trên, cần đảm bảo giải quyết tốt một số công tác cụ thể như sau:
- Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động thư viện quận, phát triển thêm thư viện phường, đảm bảo mỗi phường có phòng đọc sách, từng bước xuống khu phố. Tổ chức câu lạc bộ những người yêu sách, thi kể chuyện sách, xây dựng những đội kể chuyễn mẫu, phát triển thêm nhiều điểm bán sách.
- Nâng cao công tác trưng bày của nhà truyền thống quận đảm bảo là mô hình mẫu mực để các cơ sở học tập, tiếp tục sưu tầm thêm hiện vật truyền thống làm phong phú thêm công tác trưng bày, phát triển thêm các góc truyền thống, nhà truyền thống cơ sở, xây dựng bản đồ địa chỉ đỏ và gấp rút hoàn thành sơ thảo lịch sử truyền thống của Đảng bộ, lấy đó làm một trong những nội dung phục vụ cho công tác giáo dục truyền thống.
- Khẩn trương đổi mới hoạt động của Nhà văn hóa và các câu lạc bộ đảm bảo theo kịp yêu cầu nhiệm vụ mới. Hoạt động của Nhà văn hóa cần làm tốt ba chức năng: đào tạo năng khiếu; giải trí lành mạnh, thẩm mỹ, văn học nghệ thuật có tính giáo dục cao và là nơi hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động văn hóa cơ sở, chống có hiệu quả các tàn dư văn hóa, văn nghệ phản động, lai căng, khuynh hướng thương mại hóa trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ. Tổ chức sơ, tổng kết việc xây dựng cụm văn hóa và nhân ra rộng rãi.
- Chú ý giáo dục chính trị đội ngũ làm công tác văn nghệ quần chúng. Thường xuyên tổ chức hội diễn văn nghệ quần chúng liên cơ quan vừa trao đổi văn hóa vừa phát hiện tài năng mới bổ sung vào đội ngũ. Nội dung các chương trình biểu diễn cần gắn với nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, đảm bảo có tính tư tưởng giáo dục cao, thể hiện tính Đảng, tính dân tộc, tính nhân dân và nhất là tính hiện thực xã hội, nhạy bén chống lại sự tấn công của địch, vạch trần thói hư tật xấu, tệ quan liêu cửa quyền vá các lĩnh vực khác phi xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội.
- Đảm bảo công tác thông tin, tuyên truyền nhanh nhạy sắc bén vừa chống có hiệu quả các luận điệu chiến tranh tâm lý của địch vừa kịp thời phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, những dữ kiện có quan hệ đến đời sống và hoạt động xã hội. Để cho chất lượng thông tin tuyên truyền ngày càng tăng, cầnxây dựng chế độ và mối quan hệ làm việc giữa các lực lượng làm công tác thông tin tuyên truyền nhằm thống nhất nội dung (văn hóa thông tin, Đài truyền thanh, các đoàn thể và bộ phận khoa giáo…) dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của cấp ủy. Mặt khác tăng cường công tác triển lãm lưu động và cố định nhân các ngày lễ, các chiến dịch đến tận cơ sở. Xây dựng mỗi phường một trạm tin; củng cố hệ thống đài truyền thanh quận, phường, mạng lưới biên tập tin cơ sở, tăng cường số lượng và chất lượng bản tin của quận.
2- Y tế:
- Đảm bảo góp phần tốt nhất vào việc bảo vệ và tăng cường, sức khỏe nhân dân, tạo ra sự tiến bộ cần thiết trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho toàn dân, nhất là cho các bà mẹ và trẻ em. Giáo dục y tế thường thức cho mọi người dân làm cho mọi người tự chữa được bệnh thông thường.
- Thực hiện mạnh mẽ phong trào 5 dứt điểm, làm tốt công tác vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch mùa mưa, mùa nắng, các ổ dịch cũ, vệ sinh lao động, học đường. Duy trì nề nếp các cơ quan làm vệ sinh chiều thứ bảy và nhân dân sáng chủ nhật; giải quyết cầu tiêu trên sông; xây dựng cầu tiêu hợp vệ sinh trên bộ các phường 3, 5, 6 và một số phường dọc Phạm Thế Hiển, Nguyễn Duy. Kiểm tra chặt chẽ mọi hoạt động làm ô nhiễm môi trường.
- Kiện toàn dự án 2651. Thực hiện tiêm chủng mở rộng cho trẻ em theo lứa tuổi quy định và đảm bảo đến năm 1988 đạt từ 80 – 82%. Vận động sinh đẻ kế hoạch đảm bảo hạ tỷ lệ phát triển dân số xuống còn 1,2%. Đối với khu vực Nhà nước cần đưa yêu cầu sinh để có kế hoạch vào tiêu chuẩn xét lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua cho cá nhân, xét chi bộ trong sạch vững mạnh và xét hoàn thành kế hoạch ở từng đơn vị.
- Vận động nhân dân trồng và sử dụng thuốc nam, phát triển mạng lưới y học dân tộc đến cơ sở phường. Nâng cao năng lực sản xuất thuốc bệnh xí nghiệp hiện có và bước đầu phối hợp với Phòng nông nghiệp sản xuất thuốc thú y.
- Tổ chức công tác điều trị của các phòng khám khu vực và trạm y tế phường, không để xảy ra tai biến; quản lý tốt các bệnh xã hội, bệnh mãn tính và có biện pháp cho điều trị tại nhà. Năm 1986 phát triển chuyên khoa tai, mũi, họng ở quận; xây dựng phòng xét nghiệm trung tâm. Sắp xếp đưa công tác khám đa khoa xuống hỗ trợ các phường.
- Quản lý chặt các đại lý thuốc, các tủ thuốc dân lập ở phường, các cửa hàng liên doanh, phòng khám tập thể ngoài giờ; xây dựng các tổ chữa răng tập thể theo từng khu vực và tăng cường lực lượng y tế cơ sở, đảm bảo mỗi phường có từ 3 – 4 cán bộ y tế trong đó có một trung cấp và một nữ hộ sinh tùy theo số lượng dân cư.
3- Giáo dục:
Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách giáo dục, đưa sự nghiệp giáo dục phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, phấn đấu nâng tỷ lệ lên lớp và chuyển cấp từ 90% trở lên (trong đó có 60% khá và giỏi). Xây dựng hầu hết các ban giám hiệu trường mạnh, đến năm 1988 tất cả các trường đều có đảng viên, có trường có tổ Đảng hoặc chi bộ. Song song với xây dựng mới đảm bảo quản lý và sử dụng hợp lý cơ sở hiện có nhằm giải quyết dứt điểm về căn bản ca ba trong năm 1988.
Hoạt động của ngành giáo dục trong dạy và học cần đảm bảo kết hợp gắn công tác giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu và khả năng xây dựng kinh tế; kết hợp học tập với lao động sản xuất và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa toàn diện về mọi mặt: đạo đức, kiến thức, thể lực, ý thức lao động xây dựng xã hội mới và tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng.
- Để rút kinh nghiệm chỉ đạo về việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp ba môi trường, sẽ chọn trường Đồng Tháp làm điểm và sau đó nhân rộng ra các trường khác.
- Phát triển phân hiệu trường vừa học vừa làm. Các cơ sở sản xuất có trách nhiệm giúp nhà trường thực hiện mục tiêu đào tạo theo công thức: trường – phường – xưởng.
- Trang bị thêm kỹ thuật cho trung tâm kỹ thuật tổng hợp, phát triển cụm kỹ thuật tổng hợp khu vực ở nơi xa trung tâm.
- Hệ bổ túc văn hóa tiếp tục thực hiện Chỉ thị 115/CT của Ban Bí thư Trung ương, Chỉ thị 15/CT của Thành ủy và Chỉ thị 19/CT của Ủy ban nhân dân thành phố về việc nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ chủ chốt và thanh niên ưu tú. Phấn đấu đến hết năm 1988 phổ cập cấp 3 cho cán bộ chủ chốt dưới 35 tuổi. Đưa chỉ tiêu phổ cập văn hóa vào việc xét chi bộ vững mạnh và hoàn thành kế hoạch ở từng đơn vị. Vận động trên 90% thiếu nhi nghèo thất học vào các lớp đêm. Phấn đấu xóa bỏ tình trạng tái mù chữ trở lại trong nhân dân và đến hết những năm 90 phổ cập cấp 1 cho toàn dân.
- Nhà trẻ phấn đấu thu nhận trẻ đạt từ 13 – 15%, 100% các cô nuôi đều có trình độ văn hóa phổ cập cấp 2 và làm tốt việc nâng cao chất lượng bữa ăn cho các cháu. Đối với lứa tuổi mẫu giáo, phấn đấu thu hầu hết lứa tuổi 5. Tận dụng các điều kiện để mở thêm nhiều lớp mẫu giáo bán trú, ưu tiên các phường nông nghiệp.
4- Thể dục thể thao:
Ngoài việc rèn luyện sức khỏe cần đảm bảo giáo dục phong cách thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong thanh thiếu niên. Chú ý những bộ môn ít tốn kém dụng cụ, quần chúng ưa thích như điền kinh, bơi lội, bóng đá, bóng chuyền, thể dục dưỡng sinh… Trong điều kiện chưa có sân bãi, cần đưa cán bộ xuống tận cơ sở, chú ý lĩnh vực trường học để tổ chức phong trào, phấn đấu đến năm 1986 có 30 đơn vị tiên tiến, mạng lưới chuyên trách 22 phường biết nghiệp vụ.
5- Thương binh xã hội:
Chi trả trợ cấp các đối tượng theo đúng chính sách chế độ Nhà nước quy định cùng với giải quyết công ăn việc làm. Thành lập quỹ cứu tế xây dựng quận, phường và phân công các đơn vị sản xuất, kinh doanh chăm lo đời sống cho thương binh. Đối với những người già yếu neo đơn, tàn tật, trẻ mồ côi và gia đình nhân dân nghèo, vận động nhân dân và các đoàn thể trợ cấp, đỡ đầu kết nghĩa, giúp vốn làm ăn hoặc trích quỹ cứu tế xã hội để giải quyết, chú ý các đồng chí cán bộ, đảng viên nghỉ hưu.
- Kết hợp với ngành công an, lao động và các phường giải quyết dứt điểm người cư trú lang thang ở vỉa hè, ở các chợ, số người cùi hủi ăn xin.
- Kiểm tra việc thực hiện chính sách ở 22 phường, phong trào toàn dân chấp hành chính sách thương binh xã hội, xây dựng 45 căn nhà tình nghĩa, câu lạc bộ hưu trí, một cơ sở sản xuất quận và động viên các phường tổ chức các cơ sở sản xuất để giải quyết việc làm cho con em gia đình diện chính sách.
6- Chữ thập đỏ:
Nâng cao vai trò trợ thủ đắc lực cho ngành y tế trong công tác chăm sóc sức khoẻ, hỗ trợ cho ngành thương binh xã hội trong công tác cứu tế, giải quyết tệ nạn xã hội, nòng cốt cho ngành văn hóa thông tin trong phong trào xây dựng nếp sống mới con người mới xã hội chủ nghĩa.
Củng cố Ban chấp hành quận hội và chi hội các phường yếu, tiếp tục xây dựng mạng lưới chữ thập đỏ tại các cơ quan, xí nghiệp, công nông trường, phấnđấu đến hết năm 1988 tất cả các cơ quan xí nghiệp đều có tổ chức chữ thập đỏ.
VIII. CÁC NHIỆM VỤ AN NINH NỘI CHÍNH VÀ QUÂN SỰ ĐỊA PHƯƠNG.
1- Nhiệm vụ an ninh nội chính:
- Ngành công an cần tiếp tục làm chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng chính trị và chuyên môn nghiệp vụ trong lực lượng của mình, trong đó chú trọng các ban, đội chuyên nghiệp, các đội hình sự, bảo vệ chính trị, cảnh sát kinh tế, cảnh sát đường phố. Ở các địa bàn trọng điểm phải đảm bảo bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, đủ sức đảm đương nhiệm vụ, chú ý các vùng Thiên chúa giáo và người Hoa. Thực hiện bố trí lại thế tiến công chiến lược, chiến thuật, tăng cường đủ lực lượng chiến đấu, nhất là cảnh sát đường phố, thu thập cho được diện chống đối, đảm bảo khi tác chiến là thu được thắng lợi.
- Cần đẩy mạnh công tác làm trong sạch hóa đội ngũ, kiên quyết loại ra khỏi ngành những người không đủ phẩm chất, thoái hóa, không đủ tiêu chuẩn, song song với việc ra sức xây dựng lực lượng chính trị phát triển nhiều đảng viên, đoàn viên phấn đấu đạt danh hiệu đảng bộ trong sạch vững mạnh; 30% công an phường đạt quyết thắng, 50% đạt tiên tiến, không có yếu kém; giảm tỷ lệ sai phạm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ toàn ngành dưới 0,7% không có ai vi phạm kỷ luật nghiêm trọng.
- Phối hợp với các ngành nhất là các đoàn thể và mặt trận, tiếp tục đẩy mạnh các phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc nhằm vào mục tiêu xây dựng khu phố, tổ dân phố, phường, cơ quan đơn vị an toàn, đưa phường an toàn lên khu vực liên hoàn an toàn và các trọng điểm an toàn. Xây dựng nhiều cốt cán quần chúng trước hết là củng cố lực lượng an ninh cơ sở, kiện toàn lực lượng bảo vệ khu phố tổ dân phố, quản lý chặt chẽ tạm trú, tạm vắng, chú trọng các vùng tôn giáo nhằm đưa phong trào này ngày càng đi vào chiều sâu, nhất là trong các cơ quan xí nghiệp, phấn đấu đạt 70% khu phố an toàn và văn hóa mới; trên 95% cơ quan xí nghiệp đạt tiêu chuẩn an toàn và văn hóa mới.
- Tiếp tục nhân rộng ra như: mô hình nắm hộ nắm người, xây dựng khu phố tổ dân phố an toàn ở phường 01, mô hình lực lượng bảo vệ an ninh phường 10.
- Phối hợp với các ngành trong khối, tổ chức nhiều đợt truy quét liên tục trừng trị các tội phạm, chú ý lĩnh vực kinh tế, quản lý thị trường, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tính mạng, tài sản công dân, bọn thoái hóa biến chất, sa đọa, bóc lột, ăn cắp, hối lộ, bọn đầu sỏ buôn lậu, lưu manh kinh tế, bọn côn đồ hung hãn, băng, ổ, nhóm… Cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan trên từng khâu công việc khẩn trương chuẩn bị và đưa ra xét xử kịp thời các vụ vi phạm pháp luật đảm bảo phục vụ các nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ trong từng thời gian. Các vụ vi phạm kỷ luật Nhà nước có việc chưa đến mức xử lý hình sự cũng kiên quyết xử lý hành chánh kịp thời, đúng mức theo đúng thẩm quyền pháp luật qui định. Mặt khác tăng cường tổ chức xét xử công khai các vụ vi phạm theo đúng luật định, đồng thời đảm bảo thi hành nhanh chóng các bản án đã có hiệu lực pháp luật để phát huy tác dụng phòng ngừa vi phạm pháp luật và giáo dục ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật trong cán bộ và nhân dân làm cho quần chúng có ý thức tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Kết qủa xử lý các vụ vi phạm kỷ luật, pháp luật nghiêm trọng và gây ảnh hưởng xấu trong dư luận quần chúng cần được công bố công khai cho nhân dân biết.
- Các cơ quan chức năng thi hành pháp luật phải đảm bảo thi hành đúng luật định và chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc làm của mình.
- Đẩy nhanh tốc độ và chất lượng làm án, xét xử, thi hành đảm bảo đúng quy trình, nâng độ chính xác cao, hạn chế đến mức thấp nhất án tồn đọng. Các vụ án tranh chấp dân sự cố gắng hòa giải thành và làm theo trình tự từ cơ sở lên. Chú ý án hôn nhân gia đình.
- Các cấp ủy Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo quản lý kiểm tra các cơ quan pháp luật, giúp các cơ quan pháp luật làm tròn trách nhiệm, song tránh bao biện làm thay các loại việc cụ thể; mọi quyết định của cơ quan hành pháp phải đặt dưới sự kiểm tra chặt chẽ của Đảng, các quyết định quan trọng phải xin ý kiến chỉ đạo của Đảng. Cơ quan quản lý pháp luật: phòng tư pháp, các đồng chí phụ trách khối nội chính có nhiệm vụ làm tham mưu giúp cấp ủy kiểm soát các hoạt động của cơ quan hành pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc làm sai pháp luật.
- Tiếp tục mở rộng các cuộc vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân tìm hiểu pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật trên cơ sở tiếp tục phát huy chiến dịch tư pháp; củng cố vững chắc hệ thống thanh tra nhân dân và giải quyết thỏa đáng chế độ chính sách cho định biên thanh tra nhân dân cơ sở, củng cố ban tư pháp và các tổ hòa giải nhân dân; các hội thẩm nhân dân. Thực hiện công tác thanh tra thường xuyên, định kỳ, đặc biệt nhằm vào các khâu trọng yếu nhất là lĩnh vực kinh tế.
2- Công tác quân sự địa phương:
Lực lượng quân sự ngoài nhiệm vụ phối hợp với các ngành trong khối nội chính đảm bảo an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, cần thực hiện một số công tác cụ thể như sau:
- Kiện toàn ban chỉ huy thống nhất, củng cố sở chỉ huy động viên. Tiếp tục củng cố kế hoạch phòng thủ tác chiến, cơ bản xây dựng pháo đài quân sự bảo vệ tổ quốc, nắm chắc phương tiện kỹ thuật, tổ chức thực hiện công tác huấn luyện các lực lượng theo chương trình nội dung và thời gian cấp trên quy định nhằm bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chiến đấu cán bộ, chiến sĩ để chuẩn bị tốt nhất nhiệm vụ thực hiện chỉ lệnh diễn tập, thực tập phương án báo động chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu va chiến đấu đạt hiệu qủa cao nhất.
- Tăng cường hoạt động kiểm soát quân sự, liên kiểm. Đẩy mạnh giáo dục các lực lượng chấp hành nghiêm điều lệnh kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước; phấn đấu hạn chế đến mức thấp nhất kỷ luật thông thường, không phạm kỷ luật nghiêm trọng.
- Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng động viên cán bộ chiến sĩ sẵn sàng tham gia làm nghĩa vụ quốc tế.
- Nâng cao chất lượng tự vệ tập trung và bộ đội địa phương. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt từ 11 – 13% trên tổng số dân. Riêng cơ quan xí nghiệp không hạn chế số lượng. Xây dựng thêm 2 tiểu đoàn cơ động 2, nhóm A và đảm bảo thích đáng tỷ lệ Đảng – Đoàn trong lực lượng này nhằm tăng cường sức mạnh lãnh đạo. Hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân hàng năm, quản lý tốt quân dự bị, giải quyết cơ bản thanh niên không chấp hành luật nghĩa vụ quân sự. Phấn đấu giảm tỷ lệ đào ngũ xuống 1%.
- Thực hiện tốt yêu cầu huấn luyện các đối tượng, đưa công tác huấn luyện bắt buộc học sinh phổ thông lớp 10 theo yêu cầu của Bộ giáo dục. Trong huấn luyện chú trọng cơ bản có hệ thống, toàn diện, từng bước nâng cao bản lĩnh chiến đấu cán bộ chiến sĩ, tác phong trình độ chỉ huy. Song song với công tác huấn luyện tổ chức hội thao quốc phòng hàng năm trên cơ sở đó đánh giá kết quả trên các mặt công tác huấn luyện.
- Ra sức xây dựng lực lượng chính trị, phấn đấu đạt danh hiệu chi bộ trong sạch vững mạnh, các sĩ quan phải là đảng viên. Đưa Đoàn cơ sở đạt vững mạnh. Về đơn vị, đưa 30% đơn vị đạt quyết thắng, 20% khá và không còn yếu kém, 100% an toàn. Xây dựng 22 phường đội từ khá trở lên và phát triển vào Đảng hầu hết cán bộ phường đội, từng bước bồi dưỡng nâng cao năng lực phẩm chất đảm bảo lần lượt bố trí hầu hết vào cấp ủy phường.
- Thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội, chăm lo đời sống lực lượng vũ trang bằng nhiều biện pháp thiết thực nhằm động viên sức mạnh chiến đấu. Về ăn, cố gắng nâng mức ăn lên 10 đồng/ngày/người năm 1986 lên 20 đồng/ngày/người năm 1988. Đưa mức thu nhập bình quân đầu người 600 đồng năm 1986 lên 1200 đồng năm 1988.
IX. KIỆN TOÀN, NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC.
Tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là công tác cấp bách nhằm đảm bảo huy động sức mạnh to lớn của quần chúng để hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Một bộ máy Nhà nước mạnh phải đảm bảo cụ thể hóa chiến lược kinh tế – xã hội của Đảng thành những kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ làm chủ tập thể của nhân dân lao động và quản lý hoạt động kinh tế – xã hội theo pháp luật ấy.
Để đảm bảo yêu cầu đó, trước hết là phải phát huy vai trò của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các công cụ chủ yếu của Nhà nước, bao gồm các cơ quan hành pháp, tư pháp, các cơ quan tham mưu quản lý hành chánh, kinh tế… từ quận đến cơ sở.
- Đối với Hội đồng nhân dân các cấp, phải nhanh chóng khắc phục tình trạng hoạt động còn hình thức, phải đi vào nếp làm việc theo đúng luật định và theo quy chế của Hội đồng nhân dân, từng bước bổ sung quy chế, quy định, quy trình hoạt động của Hội đồng nhân dân phù hợp với mọi quá trình phát triển. Phải giải quyết triệt để tư tưởng xem thường vai trò của Hội đồng nhân dân ở từng cấp. Việc lựa chọn người để bầu vào Hội đồng nhân dân phải được xm xét một cách cẩn thận, đúng tiêu chuẩn, tránh chạy theo số lượng, gò ép, thiếu dân chủ. Thường xuyên bồi dưỡng cho các đại biểu Hội đồng nhân dân về nhiệm vụ, quyền hạn và phương pháp hoạt động. Bản thân từng đại biểu Hội đồng nhân dân phải thực hiện đầy đủ tư cách trách nhiệm của mình.
- Đối với Ủy ban nhân dân các cấp, cần phải tập trung kiện toàn đủ mạnh đảm bảo điều hành có hiệu quả toàn bộ máy Nhà nước, thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý hành chính và trật tự xã hội, quản lý sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật, đúng chủ trương nghị quyết của Đảng và của Hội đồng nhân dân. Yêu cầu then chốt trong việc xây dựng Ủy ban nhân dân, bộ máy Nhà nước các cấp mạnh phải trên cơ sở giải quyết tốt các vấn đề cơ bản như sau:
+ Phải xây dựng cho được Hội đồng nhân dân ở từng cấp mạnh theo các yêu cầu nêu trên thể hiện được tính chất cơ quan quyền lực cao nhất của một địa phương trong đó chú ý bố trí lực lượng các ban chuyên trách của Hội đồng nhân dân có trình độ tương ứng với chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân.
+ Thực hiện đầy đủ các yêu cầu phân cấp quản lý ở từng cấp theo quy định trên cơ sở mở rộng quyền hạn cho cơ sở, đảm bảo các yêu cầu cơ bản: trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với lợi ích, không nặng trên, nhẹ dưới theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý lãnh thổ. Tiểu ban được phân công nghiên cứu, sắp xếp tổ chức sớm trình đề án sắp xếp lại phường, ngay từ đầu nhiệm kỳ để kịp trình duyệt với trên.
+ Kiện toàn hệ thống bộ máy Nhà nước từ quận đến phường kể cả khu phố, tổ dân phố, tinh giản biên chế ở từng đơn vị, giảm trung gian cách bức. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất đạo đức, kiến thức chuyên môn nhất là các ngành trọng yếu như: Tổ chức chính quyền, Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Quân sự, Tư pháp, các công ty thương nghiệp; các ngành kinh tế tổng hợp như Kế hoạch, Tài chính – Thuế – Giá cả, Ngân hàng, Phòng Công nghiệp – Liên hiệp xã, Văn phòng Ủy ban quận đảm bảo giúp Ủy ban nhân dân trong công tác quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế và quản lý xã hội.
+ Phải thật sự đổi mới phong cách làm việc của tập thể Thường trực Ủy ban nhân dân và Ủy ban nhân dân, ở cơ quan đơn vị trong hệ thống Nhà nước, đảm bảo từng nơi xây dựng cho được quy chế làm việc và đảm bảo thực hiện nếp làm việc theo quy chế. Giải quyết tốt tệ làm việc quan liêu nặng hình thức giấy tờ, chậm chạp, trì trệ, hội họp liên miên song kém chất lượng, đi họp trễ trốn về sớm…
+ Thay đổi phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan quản lý Nhà nước đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối song không bao biện làm thay, tác nghiệp sâu vào các lĩnh vực chuyên môn cụ thể.
+ Xây dựng và thực hiện cho được quy chế làm việc gắn chặt giữa các cơ quan Nhà nước với các đoàn thể quần chúng và cơ chế đảm bảo quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, công nhân viên chức, chế độ tiếp dân, chăm lo đời sống nhân dân, giải quyết khiếu tố và các kiến nghị; các quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất, kinh doanh theo quy định và tất cả các vấn đề khác theo chức năng của bộ máy Nhà nước theo luật định.
X. ĐẢM BẢO VÀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG:
Trong tình hình hiện nay đang đòi hỏi một cách cấp thiết đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách, đổi mới tổ chức và cán bộ. Và tình hình cũng đòi hỏi các cấp các ngành đổi mới cách chỉ đạo và tổ chức phong trào quần chúng thi đua thực hiện các công việc cấp bách trước mắt về kinh tế xã hội; sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu của địch, giữ vững quốc phòng và an ninh.
Phong trào quần chúng thi đua trên các lĩnh vực đó phải mang lại hiệu quả thiết thực, có những kết quả cụ thể, kiên quyết chống bệnh hình thức, phô trương, lãng phí, chiếu lệ, báo cáo không trung thực làm mất sức và thời giờ của quần chúng.
- Để đạt hiệu quả thiết thực phong trào cách mạng của quần chúng đòi hỏi các cấp ủy Đảng, các cơ quan Nhà nước cần đổi mới phong cách, đổi mới quản lý, cải tiến lề lối làm việc, kiên quyết xóa bỏ tập trung quan liêu, hành chính bao cấp, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính năng động sáng tạo, bảo đảm dân chủ, củng cố kỷ luật Đảng, tôn trọng pháp luật Nhà nước, tăng cường đoàn kết nhất trí, giữ vững những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, của bộ máy Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Phải xây dựng cho được một Nhà nước mạnh thể hiện là công cụ chủ yếu của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa theo quan điểm: Nhà nước mạnh thì Đảng càng mạnh và nhân dân càng được làm chủ. Làm giảm sút hiệu lực của Nhà nước tức là làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và trực tiếp xâm phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
- Trong toàn bộ hoạt động của các tổ chức Đảng, của Ủy ban nhân dân và các ngành cần khắc phục tư tưởng chuyên môn đơn thuần. Phải chú trọng công tác quần chúng và công tác quần chúng phải được đặt ở vị trí quan trọng trong các công tác. Phải quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, ra sức chăm lo đời sống nhân dân, hướng về cơ sở và người lao động tạo điều kiện giúp đỡ họ khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản xuất, đồng thời đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ trên mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.
- Trong từng thời kỳ các cấp ủy Đảng cần có nội dung công tác vận động quần chúng gắn liền với việc triển khai các nhiệm vụ kinh tế – xã hội; xây dựng chế độ làm việc định kỳ với các tổ chức đoàn thể quý, 6 tháng, năm và tổ chức tự phê bình trước quần chúng mỗi năm một lần. Mặt khác các cấp ủy cần chỉ đạo các tổ chức quần chúng hướng dẫn quầnchúng tự phê bình bề vai trò của mình trong tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội, thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội và sử dụng quyền làm chủ tập thể trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát các hoạt động của cán bộ đảng viên, các tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước và các tổ chức Đoàn thể.
- Các cơ quan chính quyền, các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải từng bước thể chế hóa cơ chế làm chủ tập thể của quần chúng trên các lĩnh vực. Việc thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cần lấy việc vận động, thuyết phục quần chúng làm chính và theo quan điểm “dân biết, dân hiểu, dân làm”, có việc cần sử dụng biện pháp hành chính thì phài hết sức thận trọng và đảm bảo đúng người, đúng việc, đúng pháp luật,… Mặt khác phải loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi cơ quan Nhà nước. Giáo dục cho cán bộ, nhân viên Nhà nước nhất là những người thường xuyên tiếp xúc với quần chúng có ý thức và biết cách làm công tác vận động quần chúng: các mậu dịch viên, các cảnh sát đường phố, các cán bộ làm công tác hành chính giấy tờ trong việc giải quyết ăn, ở, đi lại, sản xuất, kinh doanh… định kỳ sơ kết, tổng kết công tác tiếp dân. Đảm bảo giữ vững và phát huy tốt chế độ làm việc giao ban ba Thường trực từ quận đến phường; chế độ làm việc của Ban dân vận Mặt trận với các chi ủy phường để kịp thời nắm tâm tư nguyện vọng của quần chúng đề ra những giải pháp đúng đắn giải quyết những vấn đề bức xúc do quần chúng đặt ra.
- Trách nhiệm của các đoàn thể và Mặt trận là tiếp tục giáo dục nâng cao giác ngộ cách mạng của quần chúng mà cụ thể là tiếp tục quán triệt các nghị quyết của Đảng về công tác quần chúng như: Chỉ thị 53 của Ban Bí thư Trung ương, Chỉ thị về tăng cường công tác Mặt trận, Chỉ thị 44 của Ban Bí thư về công tác cán bộ nữ, Nghị quyết 26 của Bộ chính trị về công tác thanh niên, Nghị quyết 11 của Thành ủy, 11 của Quận ủy về công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em… Mặt khác cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của ban chấp hành đoàn thể các cấp, phát triển nhiều đảng viên mới đảm bảo các chủ chốt đoàn thể phải là đảng viên.
Để tăng thêm sức mạnh của các tổ chức đoàn thể, cơ quan có thẩm quyền cần giải quyết thỏa đáng cơ sở vật chất như nhà làm việc, bút mực giấy tờ, định biên hợp lý đảm bảo huy động được quần chúng, giúp vốn và hướng dẫn cho các tổ chức quần chúng tham gia sản xuất tăng thu nhập nhằm động viên nhiệt tình công tác của anh chị em.
- Một số công tác cụ thể:
+ Công đoàn: Tiếp tục phát động phong trào công nhân viên chức ký kết hợp đồng trách nhiệm, tham gia xây dựng kế hoạch và duyệt kế hoạch hàng năm. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện những điều cam kết, luôn nâng chất lượng, tránh hình thức. Phối hợp với Đoàn thanh niên, Liên hiệp xã để ôn luyện thi tay nghề, phát động phong trào phát huy sáng kiến trong công nhân viên chức, nhất là trong lĩnh vực sản xuất để nhân ra. Tiếp tục bồi dưỡng các công đoàn cơ sở đảm bảo nắm vững những vấn đề cơ bản trong quản lý kinh tế, phấn đấu đưa hầu hết công đoàn các đơn vị sản xuất, kinh doanh vững mạnh; các nơi còn lại khá và trung bình, không có yếu kém.
+ Hội lao động hợp tác: Tập trung xây dựng hoàn chỉnh tổ chức Hội và đi vào hoạt động có chất lượng gắn với nhiệm vụ sản xuất cụ thể trong từng tổ sản xuất, hợp tác xã sản xuất, duy trì chế độ sinh hoạt, chú ý mở hội nghị xã viên để phát huy quyền làm chủ tập thể của người lao động trong sản xuất, quản lý chất lượng sản phẩm…
+ Hội liên hiệp nông dân tậ: Tiếp tục phong trào học tập và làm theo lời phát biểu của đồng chí Bí thư Thành ủy trong nông dân, làm nòng cốt xây dựng mô hình nông thôn mới ở các tập đoàn và hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng cho được mô hình liên kết giữa phường tiểu thủ công nghiệp với nông nghiệp, phát triển mạnh kinh tế gia đình; vượt năng suất khoán; nâng cao quyền làm chủ tập thể của Hội trong việc tham gia xây dựng kế hoạch ăn chia phân phối; làm tròn nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước.
+ Hội Liên hiệp phụ nữ: Nâng cao chất lượng các phong trào người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phong trào nuôi con khỏe dạy con ngoan; nòng cốt trong phân phối lưu thông và quản lý thị trường, đưa cốt cán trực tiếp tham gia xây dựng các chế độ chính sách và bảo vệ phụ nữ và trẻ em theo tinh thần Chỉ thị 44 của Ban Bí thư và Chỉ thị 54/CT-Ủy ban nhân dân của Ủy ban nhân dân thành phố về chế độ chính sách đối với lao động nữ. Tập hợp giáo dục số phụ nữ chậm tiến, ra sức nâng cao chất lượng hoạt động của Hội ở cơ sở. Phấn đấu đạt 70% người phụ nữ mới, 60% người mẹ nuôi con giỏi; làm tốt công tác hậu phương quân đội (đỡ đầu diện chính sách, nghĩa vụ quân sự, thực hiện hũ gạo tình thương…)
+ Mặt trận Tổ quốc: Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 17, tham gia xây dựng cơ chế đảm bảo quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và hướng nhân dân biết làm chủ trong mọi lĩnh vực, góp phần xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền và yêu cầu những cơ quan đó phải trả lời nhanh chóng những vấn đề mà nhân dân có ý kiến. Mạnh dạn phê phán và kiến nghị bãi miễn thành viên Hội đồng nhân dân vi phạm pháp luật, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân nghiêm trọng, làm nòng cốt phát động phong trào “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để thực hiện những công trình phúc lợi cho nhân dân; phối hợp với chính quyềnchăm lo đời sống quầnchúng lao động ở địa bàn dân cư. Tập trung xây dựng lực lượng chính trị trong khu vực đồng bào người Hoa và Thiên chúa giáo, quản lý hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động theo kỷ cương pháp luật Nhà nước.
+ Hội phụ lão: Tiếp tục phát triển phong trào phụ lão 3 giỏi; phát triển quỹ bảo thọ, thu hút đông đảo các cụ vào Hội; đẩy mạnh phong trào tập luyện dưỡng sinh và xây dựng cho được câu lạc bộ phụ lão ở quận cũng như phường hoặc từng cụm phường.
+ Ủy ban thiếu niên nhi đồng: Đảm bảo giúp cấp ủy và chính quyền xây dựng một phong trào rộng lớn trong toàn dân thực hiện tốt các quyền cơ bản của trẻ em từ sơ sinh đến hết tuổi 15 về đời sống, sức khỏe, học hành, vui chơi, tôn trọng nhân phẩm như Chỉ thị 197 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu và pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Ban Thường vụ Quốc hội của Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành.
Để cho hoạt động của Ủy ban thiếu niên nhi đồng ngày càng tăng cường tính hiệu quả cần đảm bảo bố trí cán bộ chuyên trách giàu nhiệt tình, yêu trẻ có hiểu biết nhất định về khoa học giáo dục, có kiến thức và kinh nghiệm hoạt động xã hội để bố trí.
+ Ban dân vận: Giúp cấp ủy xây dựng từng đề án và lãnh đạo, chỉ đạo công tác từng đối tượng quần chúng, kịp thời nắm chắc tâm tư của quần chúng giúp cấp ủy và chính quyền có biện pháp thực hiện chủ trương, chính sách cho sát thực. Duy trì công tác kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của từng cấp ủy cơ sở có liên quan đến công tác quần chúng của Đảng. Phối hợp với Ban Tổ chức Quận ủy quy hoạch đào tạo cán bộ đoàn thể liên tục để đủ nguồn cung cấp cho Đảng khi cần thiết.
XI. NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG.
1- Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý:
Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định và hết sức cấp thiết, là mắt xích quan trọng nhất phải được tiến hành khẩn trương và triệt để nhằm thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Ngay sau khi Đại hội Đảng bộ quận, phải tiếp tục sắp xếp lại bộ máy và cán bộ ở các đơn vị. Hướng đổi mới cán bộ nói chung là đánh giá đúng năng lực và sự cống hiến cho từng người để bố trí phù hợp. Trong bố trí cần chú trọng chủ chốt các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, trước hết là cơ quan làm công tác cán bộ, chú trọng cơ sở phường – những nơi đang gặp khó khăn, các đơn vị kinh tế trọng điểm và các cơ quan tham mưu tổng hợp. Mạnh dạn cắt bỏ những tổ chức trung gian không cần thiết.
Đối với cấp ủy quận, cần phân công đúng với năng lực, trình độ của từng cấpủy viên và cấu tạo cho được một tập thể Ban Thường vụ thể hiện tiêu biểu là hạt nhân đoàn kết, có năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện được nghị quyết của Ban chấp hành và của cấp trên.
Để đảm bảo bố trí đúng cán bộ cần đưa công tác đánh giá cán bộ định kỳ hàng năm vào nề nếp ở từng đơn vị. Việc đánh giá cán bộ phải làm đúng quy trình từ cơ sở lên – phải trên cơ sở bản tự kiểm của cán bộ đó; biên bản góp ý của quần chúng; nhận xét của chi bộ và đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ đó; nhận xét của cơ quan chức năng quản lý cấp trên và cuối cùng là kết luận của tập thể lãnh đạo có thẩm quyền.
Ban tổ chức Quận ủy có trách nhiệm xây dựng hoàn chỉnh quy trình đánh giá cán bộ – đề án kiện toàn tổ chức, tinhgiảm biên chế và sắp xếp lại phường trình cho Ban Thường vụ và Ban chấp hành thông qua và Ban Tổ chức báo cáo về tình hình cán bộ, nhận xét cán bộ để tập thể Ban Thường vụ có ý kiến chỉ đạo giải quyết.
Mặt khác để đảm bảo bố trí đúng cần xác định đúng chức năng của từng tổ chức và chức danh của từng cán bộ. Về quan điểm, cần thống nhất là lấy nhu cầu nhiệm vụ làm căn cứ, lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất, năng lực và phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng và từ chính sách cán bộ thống nhất của Đảng mà lựa chọn bố trí, đảm bảo công minh, vô tư, loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên may rủi, những động cơ không lành mạnh trên cơ sở đó khi xét thấy cán bộ nào có đủ năng lực, phẩm chất, hoàn thành được nhiệm vụ thì mạnh dạn bố trí ngay.
Về tiêu chuẩn, cần chọn những cán bộ có tư duy nhất là tư duy kinh tế, có lập trường vững chắc, năng nổ, tháo vát, quyết đoán, có uy tín với quần chúng, đoàn kết nội bộ và chấp hành kỷ cương và pháp luật Nhà nước, có sức tiếp thu và vận dụng sáng tạo đường lối chính sách của Đảng, nhạy cảm với cái mới, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, có hiệu quả. Chú ý cán bộ trẻ, nữ, công nhân trực tiếp sản xuất, song việc trẻ hóa cán bộ nhất thiết phải đảm bảo hai mặt: năng lực và phẩm chất.
Cần chỉ đạo thật tập trung công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ ở từng tổ chức cơ sở và toàn quận tương đối ổn định trong nhiệm kỳ để từ đó có kế hoạch giải quyết chủ động vấn đề cán bộ bao gồm việc lựa chọn, bố trí, sử dụng và bồi dưỡng trên cơ sở đánh giá cán bộ hàng năm mà điều chỉnh, quy hoạch. Cán bộ nhiều tuổi có nhiệm vụ giúp đỡ lớp cán bộ kế cận. Mọi cán bộ lãnh đạo đều có nhiệm vụ cùng tập thể lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ kế tục phải đảm bảo có được từ 1 đến 2 chức danh mình phụ trách. Việc đào tạo nói chung cần làm theo quy trình có tính nguyên tắc là: kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức ở các trường học với việc rèn luyện trong thực tiễn, phấn đấu đảm bảo:
- Đảng viên chính thức có từ 1 đến 2 năm tuổi Đảng phải qua chương trình sơ cấp.
- 50% cán bộ chủ chốt phải qua chương trình trung cấp chính trị.
- 1/4 Quận ủy viên qua chương trình cao cấp, 1/4 qua trung cấp chính trị và đa số phải có trình độ văn hóa từ cấp 3 trở lên.
- Cán bộ chủ chốt trực tiếp quản lý các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải qua trung cấp chính trị và trung cấp nghiệp vụ.
- Trên phạm vi toàn quận và yêu cầu văn hóa đối với cán bộ chủ chốt trưởng phó ban ngành, bí thư, chủ tịch phường phải đảm bảo trình độ văn hóa ít nhất từ hết cấp 2 trở lên. Về phía lãnh đạo – Quận ủy và thủ trưởng các đơn vị cần tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ đi học, ngành giáo dục – hệ bỏ túc văn hóa có trách nhiệm chăm lo hoàn thành công tác này theo chức năng của ngành mình, phấn đấu trong những năm tới có được một số cán bộ có trình độ Đại học để bố trí vào các cương vị lãnh đạo chủ chốt.
Song song với lựa chọn bố trí phải mạnh dạn thay đổi những cán bộ bố trí chưa đúng chỗ, không phát huy được tác dụng, cán bộ thiếu năng lực, kém tinh thần trách nhiệm, kêu ca trước khó khăn, bảo thủ, cán bộ kém sức khỏe không đảm bảo thời gian công tác, cán bộ đến tuổi nghỉ hưu. Chăm lo giải quyết tốt chính sách cán bộ đảm bảo đúng quy định của Đảng và Nhà nước, chú ý cán bộ nghỉ hưu, cán bộ hiện đang giữ vị trí công tác mũi nhọn mà đời sống đang gặp khó khăn.
- Thực hiện luân chuyển cán bộ theo quy hoạch, coi đó cũng là phương pháp rèn luyện, đào tạo cán bộ, tất nhiên là cần tránh tạo ra sự bất ổn định về tổ chức, không được nóng vội làm tràn lan. Để cho chắc chắn cần thực hiện một bước quá độ – xác định đúng người kế tục để bố trí vào cấp phó.
2- Đổi mới phong cách làm việc trong Đảng:
- Việc đổi mới phong cách làm việc cơ bản là đảm bảo giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng, trong đó yêu cầu then chốt nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách.
Để đảm bảo tập trung cần phải mở rộng dân chủ. Khi đã mở rộng dân chủ thì phải nghiêm chỉnh tuân thủ điều hành tập trung và ngược lại điều hành tập trung phải đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ những nội dung quyết định của tập thể. Mọi năng động sáng tạo phải ở trong khuôn khổ đường lối, chính sách. Những việc chưa có chủ trương của cấp trên đều phải báo cáo và xin ý kiến trước khi làm. Mọi đảng viên, cán bộ bất kỳ ở cương vị nào cũng phải tự đặt mình trong tổ chức, nói và làm theo nghị quyết cấp trên và của tập thể cấp mình, chấm dứt tình trạng tùy tiện phân tán cục bộ về tổ chức, vô kỷ luật trong Đảng và phải lập lại kỷ cương một cách triệt để.
- Thực hiện cải tiến cách điều hành hội nghị, đảm bảo cung cấp những thông tin cần và đủ để mỗi cấp ủy viên, đảng viên nắm được tình hình góp ý tham gia tích cực vào quá trình ra quyết định. Trong hội nghị đảm bảo thảo luận dân chủ, thẳng thắn, chính xác các vấn đề đặt ra trong hội nghị và được kết luận rõ ràng, khi cần thì biểu quyết kể cả bằng phiếu kín.
- Xây dựng tác phong sâu sát thực tế, sát cơ sở, gần gũi với quần chúng, nắm bắt kịp thờinguyện vọng quần chúng, giảm bớt giấy tờ, hội họp, đảm bảo giành nhiều thời gian cho công tác cụ thể.
- Đấu tranh chống cho được căn bệnh quan liên, gia trưởng độc đoán cùng với việc phô trương hình thức tốn kém lãng phí, vô trách nhiệm trong phục vụ, thiếu quan tâm đến lợi ích toàn xã hội.
- Mọi tổ chức cơ sở Đảng, kể cả các ngành chính quyền, các đoàn thể quần chúng cần đảm bảo xây dựng cho được quy chế làm việc và đảm bảo làm việc theo quy chế, phấn đấu trong 6 tháng đầu năm 1987 tất cả các đơn vị đều có quy chế và làm việc theo quy chế.
- Đảm bảo trong từng thời gian, mọi khâu công tác đều phải được sơ, tổng kết rút kinh nghiệm.
- Các tổ chức cơ sở Đảng phải đảm bảo lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, thể chế hóa cơ chế làm chủ tập thể của nhân dân lao động, hướng dẫn nhân dân lao động phát huy quyền làm chủ tập thể của mình giám sát mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên.
- Xây dựng cho được nề nếp kiểm tra ở các chi bộ; nề nếp kiểm tra thực hiện các quyết định và phối hợp các hoạt động kiểm tra của các tổ chức Đảng, thanh tra Nhà nước chặt chẽ.
- Thực hiện chế độ tiếp dân, đưa chế độ tiếp dân vào nề nếp. Chăm lo đoàn kết nội bộ, thực hiện phê bình tự phê bình. Nơi nào để xảy ra mất đoàn kết nội bộ kéo dài, bí thư, cấp ủy và thủ trưởng có trách nhiệm trước hết và nơi đó cần phải được làm rõ và thi hành kỷ luật cá nhân vi phạm.
- Xây dựng quy trình ra quyết định, các quyết định phải chính xác, đảm bảo tính hiện thực.
3- Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng:
Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức xây dựng Đảng ngoài các vấn đề đổi mới đội ngũ cán bộ, phong cách làm việc phải bảo đảm nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức cơ sở Đảng. Sinh hoạt của các tổ chức cơ sở Đảng cần thể hiện cho được các yêu cầu chủ yếu là:
- Đề ra cho được nghị quyết và nội dung nghị quyết dù ở lĩnh vực nào cũng thể hiện xuất phát từ lợi ích của quần chúng. Kèm theo đó là giải pháp thực hiện các chủ trương và phân công được mọi đảng viên thực hiện.
- Ở mỗi kỳ sinh hoạt chi bộ cần được kiểm tra đánh giá chất lượng của nghị quyết và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mỗi đảng viên, cán bộ, có tự phê bình và phê bình nghiêm túc, đề ra những giải pháp tiếp theo để thực hiện.
- Triển khai đầy đủ trung thực nghị quyết, chủ trương của cấp trên.
- Phải đề cập đến công tác phát triển Đảng, công tác chính sách, quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ, đấu tranh giải quyết triệt để những biểu hiện tiêu cực trong Đảng, vi phạm kỷ luật của cán bộ đảng viên.
- Các tổ chức cơ sở Đảng trong sinh hoạt chi bộ cần thông qua các vấn đề trên mà quán triệt cho mọi đảng viên tham gia sinh hoạt, giúp cho đảng viên tiếp nhận được những kinh nghiệm những hiểu biết mới tăng thêm được ý thức trách nhiệm, tạo được sự đoàn kết nhất trí thể hiện quyết tâm thi hành tốt nhất các chủ trương chính sách của Đảng cấp trên và của cấp mình.
- Thực hiện chế độ kiểm tra từ trên xuống, từ dưới lên, một cách nghiêm túc và đưa chế độ kiểm tra vào nề nếp với yêu cầu là mọi chủ trương, nghị quyết đều phải được kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Mỗi cấp ủy trong từng thời gian phải có chương trình kiểm tra tập trung vào công tác trọng tâm. Và quá trình thực hiện kiểm tra phải đi đến kết luận đúng sai rõ ràng và có nghị quyết sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm.
4- Nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên:
- Việc nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên cần đảm bảo theo hướng là học tập và noi gương đạo đức tác phong Bác Hồ, chống chủ nghĩa cá nhân, giữ gìn và nêu cao danh hiệu cao quý của người đảng viên. Việc giáo dục và rèn luyện phẩm chất của cán bộ, đảng viên ngoài giáo dục về lý luận phải được thể hiện ở chương trính công tác, ở hoạt động thực tiễn của đảng viên. Chi bộ phải có biện pháp quản lý kiểm tra đảng viên, cấp ủy phải nắm được chính xác phẩm chất của từng người trong phạm vi mình quản lý.
- Đưa ra những quy định nhằm ngăn ngừa thói khoa trương thổi phồng thành tích, thi hành kỷ luật những cán bộ, những tổ chức báo cáo không trung htực; nghiêm khắc đối với những kẻ cơ hội, xu nịnh, chống thói cửa quyền ức hiếp quần chúng, độc đoán gia trưởng thiếu dân chủ, vô kỷ luật. Phải làm trong sạch Đảng không loại trừ một ai, trước hết phải loại bỏ ngay những phần tử thoái hóa, biến chất, vi phạm dân chủ, tùy tiện, không chấp hành nghiêm nghị quyết của Đảng, của tập thể nghiêm trọng. Có việc xét thấy làm ảnh hưởng lớn đến uy tín chính trị của Đảng cần đưa ra truy tố trước pháp luật, hoặc công khai qua các cuộc sinh hoạt của Đảng và các đoàn thể quần chúng.
- Chăm lo công tác phát triển đảng viên mới. Các tổ chức cơ sở Đảng mỗi nhiệm kỳ phải phấn đấu phát triển được đảng viên mới. Chi bộ nào yếu kém phải tập trung xây dựng lên khá mới cho phát triển đảng viên mới. Trong phát triển cần coi trọng chất lượng và cơ cấu, phải đảm bảo xóa trắng những nơi trọng yếu đã được xác định, chú ý trong lực lượng các tổ chức đoàn thể, những người lao động, thợ thủ công, lực lượng nữ, trẻ và trình độ văn hóa. Không quyết định kết nạp đảng viên có trình độ văn hóa chưa hết cấp 2, trừ trường hợp cá biệt.
5- Về công tác tư tưởng:
Làm tốt công tác tư tưởng là làm cho mọi đảng viên, cán bộ và quần chúng hiểu đúng chủ trương, nghị quyết của Đảng và tự giác làm theo.
Công tác tư tưởng sắp đến cần giải quyết tốt một số yêu cầu cụ thể như sau:
- Đảm bảo giáo dục về lý luận đi đôi với việc làm cụ thể của cán bộ, đảng viên với mục đích là làm cho cán bộ, đảng viên có ý thức mạnh mẽ về việc chăm lo lợi ích toàn xã hội, xông xáo năng động, dám nghĩ, dám làm có tính toán khoa học, hiệu quả, có trách nhiệm đầy đủ về công việc mình phụ trách, không lẩn tránh trách nhiệm khi tổn thất, gặp khó khăn lao vào tháo gỡ, không kêu ca.
- Nâng cao ý thức tự phê bình và phê bình để củng cố và tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Chú ý các đảng viên giữ vị trí chú chốt, cán bộ, đảng viên trong các ngành kinh tế, tài chính; những người hàng ngày tiếp xúc giải quyết những vấn đề có liên quan đến cuộc sống, sinh hoạt của quần chúng và đảng viên, nắm công cụ chuyên chính… Trong tự phê bình và phê bình, chú ý các vấn đề như: tính gương mẫu trong lao động; tác phong, lối sống; đoàn kết nội bộ, vấn đề dân chủ; mức độ hoàn thành nhiệm vụ và quan điểm quần chúng.
Để cho tự phê bình và phê bình được tốt, cần giáo dục đảng viên cán bộ tự giác, trung thực và không được trù dập. Khi đã phát hiện nơi nào đã có dấu hiệu trù dập cần truy cứu rõ và thi hành kỷ luật nghiêm minh.
- Xây dựng tác phong sâu sát thực tế, đi vào cuộc sống của các tầng lớp quần chúng, nắm bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng, những khó khăn, nguyện vọng bức xúc chính đáng của quần chúng để kịp thời đề xuất những giải pháp giải quyết đúng đắn.
- Chú trọng chỉ đạo tập trung công tác tổng kết nhân điển hình tiên tiến vì đó là biện pháp quan trọng để thống nhất đường lối, chủ trương, là cơ sở đề ra các quyết định đúng đắn, những giải pháp sáng tạo nhằm nâng chất công tác lý luận, cung cấp cho công tác tư tưởng những nội dung mới phong phú, sinh động.
- Quá trình thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, của tập thể khi xuất hiện những ý kiến khác nhau cần nêu ra thảo luận dân chủ và có kết luận rõ ràng. Phải làm thống nhất trong Đảng là công tác tuyên truyền chỉ có một tiếng nói – đó là tiếng nói chung của Đảng, của tập thể, mọi đảng viên không được phép tuyên truyền những quan điểm trái với nghị quyết Đảng. Mặt khác cần giáo dục cho đảng viên tích cực, chủ động chống tuyên truyền của địch đồng thời phê phán những biểu hiện bàng quan, bất lực, tê liệt trước sự tấn công về tư tưởng của địch và dư luận có ác ý.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức Đảng theo các yêu cầu đã nêu ở mục 3 về nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng vì đó là điều kiện đầu tiên để triển khai công tác tư tưởng có hiệu quả. Cần khắc phục bệnh quan liêu trong công tác tư tưởng, nói năng những vấn đề đâu đâu, nhạt nhẽo, dài dòng không liên quan đến những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Để làm chủ trận địa tư tưởng, mỗi cấp ủy kể cả các ngành chính quyền và các tổ chức đoàn thể phải có sự quan tâm thích đáng, có những biện pháp năng động nắm bắt được tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, từ đó mà xác định mục tiêu, chủ động đề ra kế hoạch công tác tư tưởng trước mắt và lâu dài.
Ban Tuyên giáo – trường Đảng cần có kế hoạch, chương trình công tác cụ thể hàng tháng, quý, 6 tháng, năm. Ngay sau khi Đại hội Đảng, tổ chức lớp bồi dưỡng ngắn ngày cho các cấp ủy mới được bầu đồng thời phối hợp với Ban Tổ chức biên soạn chương trình tập huấn cho các đồng chí Bí thư chi bộ của từng loại cơ sở Đảng (phường, đơn vị sản xuất, kinh doanh và cơ quan) về chức trách, nhiệm vụ bí thư và sau đó mở các lớp bồi dưỡng đối tượng Đảng, lớp sơ cấp; định kỳ tổ chức mời cán bộ, đảng viên nghe báo cáo thời sự hàng tháng, thông tin cho cán bộ, đảng viên những vấn đề mới mẻ nảy sinh trong cuộc sống, những vấn đề thời sự của thành phố, cả nước và thế giới, trong đó chú ý các đồng chí cán bộ nghỉ hưu… Để đảm bảo làm tốt chức năng của mình trước hết cần xây dựng chế độ làm việc của ban, phân công, phân nhiệm chức danh của từng cán bộ; có kế hoạch hướng dẫn các cơ sở Đảng đẩy mạnh công tác tư tưởng, tổ chức bồi dưỡng và sử dụng các lực lượng làm công tác tư tưởng thành một đội ngũ có sức chiến đấu cao; củng cố hệ thống làm công tác tư tưởng cơ sở và định kỳ sinh hoạt giao lưu. Đưa bộ môn khoa giáo đi vào hoạt động; bổ sung đội ngũ giảng viên về số lượng, trang bị lại cho cán bộ giảng dạy những kiến thức mới, có tác phong sâu sát cơ sở gắn với thực tiễn nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy sinh động hơn.
6- Nâng cao chất lượng của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đảm bảo xứng đáng là lực lượng kế cận Đảng:
Nhiệm vụ của Đoàn sắp đến là ra sức phát triển các phong trào hành động cách mạng trong thanh niên nhằm góp phần tạo ra động lực phát triển kinh tế và xã hội trên mọi lĩnh vực.
Để làm được việc đó, tập thể các cấp ủy cần có chế độ làm việc định kỳ với Đoàn thanh niên và giao cho Đoàn thanh niên những nhiệm vụ mũi nhọn, những công trình xung yếu và tạo điều kiện cho Đoàn thanh niên thực hiện. Về phía Đoàn phải đổi mới thật sự nội dung và phương thức hoạt động của Đoàn phù hợp với yêu cầu mới và đặc điểm của tuổi trẻ. Về nội dung giáo dục, cần tăng cường giáo dục truyền thống, lý tưởng, đạo đức mới làm cho đông đảo thanh niên có ý thức lao động sản xuất xây dựng xã hội mới gắn với tiền đề Tổ quốc. Về hoạt động cụ thể cần đẩy mạnh phong trào trung tâm là phong trào 3 xung kích làm chủ tập thể trong thanh niên, củng cố lực lượng thanh niên xung phong, xây dựng nhiều mô hình sản xuất và quản lý sản xuất, giải quyết việc làm trong thanh niên.
Tăng cường lãnh đạo Đội thiếu niên tiền phong và Đội nhi đồng Hồ Chí Minh. Phối hợp với Ủy ban thiếu niên nhi đồng – ngành giáo dục phát triển mô hình giáo dục kết hợp 3 môi trường. Các hoạt động Đoàn, Đội ở các trường phổ thông trung học và phổ thông cơ sở phải được tăng cường đúng mức đảm bảo đủ sức làm nòng cốt trong phong trào dạy và học, xây dựng nhiều lớp học sinh xã hội chủ nghĩa.
Phát triển toàn diện nhà văn hóa thiếu nhi, đảm bảo là nơi vui chơi giải trí và giáo dục thiếu nhi. Củng cố hoạt động của Hội đồng nữ thanh và Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam và đưa hoạt động các tổ chức này đi vào chất lượng và hiệu quả. Xây dựng câu lạc bộ khoa học kỹ thuật trẻ xung kích và phối hợp với Ban khoa học kỹ thuật quận đẩy mạnh phong trào thanh niên tiến quân vào lĩnh vực khoa học, tạo ra những công trình thanh niên mới.
Qua các hoạt động nói trên phấn đấu kết nạp thêm 4000 đoàn viên mới, giới thiệu 600 đoàn viên ưu tú cho Đảng bồi dưỡng kết nạp, phát triển 80% thanh niên vào Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam. Trong phát triển chú trọng chất lượng và cơ cấu, các nơi trọng điểm phải có đông đảo đoàn viên đủ sức làm nòng cốt trong các phong trào mũi nhọn và đoàn viên được phát triển trong thời kỳ này phải đảm bảo tiêu chuẩn chính trị, có khả năng phát triển vào Đảng nếu không thì nên đưa vào Hội liên hiệp thanh niên Việt Nam. Các cán bộ chủ chốt của Đoàn phải là đoàn viên chính thức hoặc dự bị còn trong tuổi Đoàn.
Kính thưa các đồng chí !
Những nhiệm vụ mục tiêu nêu ra trên đây là hết sức nặng nề đòi hỏi Đảng bộ phải phấn đấu rất cao. Phải đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy, có một sự chuyển biến mạnh mẽ về mặt tư tưởng và đặc biệt là đổi mới tổ chức. Ở Đại hội này, sau khi chúng ta thảo luận thống nhất đánh giá tình hình, thống nhất mục tiêu nhiệm vụ thì trên cơ sở mục tiêu nhiệm vụ đó là xây dựng một Ban chấp hành Đảng bộ có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo thực hiện. Chúng ta tin tưởng rằng với sức mạnh của Đảng bộ và nhân dân, chúng ta hoàn toàn có khả năng làm tốt việc đó và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đã đề ra.
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN 8