Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh có những thuận lợi: Sự ổn định chính trị được giữ vững, quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại của đất nước tiếp tục phát triển, vị thế chính trị của Việt Nam được nâng cao; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh; sự phân cấp quản lý của Thành phố đối với quận, huyện ngày càng mở rộng hơn; nhiều công trình xây dựng của Thành phố được thi công và đưa vào hoạt động (đại lộ Đông Tây giai đoạn 1, Trung tâm thương mại Bình Điền,...); nhiều công trình quan trọng trên địa bàn quận được đầu tư, nâng cấp, sửa chữa (như: Quốc lộ 50, đường vào Trung tâm thương mại Bình Điền, đường Tạ Quang Bửu, cầu Nguyễn Văn Cừ, cầu Chà Và,...). Đồng thời, truyền thống đoàn kết thống nhất, sự năng động, sáng tạo của toàn Đảng bộ được giữ gìn và phát huy; sự đồng thuận của nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được củng cố và nâng lên.
Song, vẫn còn nhiều khó khăn ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của quận: Tình hình thế giới và khu vực diễn biến nhanh và phức tạp; khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, giá cả leo thang, hạ tầng kỹ thuật xã hội chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển; cách biệt giữa sự phát triển của khu đô thị mới với khu đô thị hiện hữu ngày càng lớn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc đặt ra phải giải quyết: tăng dân số cơ học, nhu cầu đời sống - việc làm; tái định cư bộ phận dân cư sống trên và ven kênh rạch; ô nhiễm môi trường và dịch bệnh; tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý;...
Đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ X có nhiệm vụ đánh giá sát đúng những thành tựu, yếu kém, khuyết điểm, rút ra nguyên nhân – kinh nghiệm thực tiễn; xác định phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu trong 5 năm tới để Quận 8 tiếp tục phát triển theo hướng đô thị hoá, văn minh, hiện đại.
Phần thứ nhất
KIỂM ĐIỂM VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUẬN 8 LẦN THỨ IX (2005 – 2010)
A.- NHỮNG THÀNH TỰU:
I.- VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI:
1- Kinh tế quận tiếp tục phát triển gắn với tiến trình đô thị hoá và theo quy hoạch được duyệt:
Với nhận thức lãnh đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, ngay sau Đại hội, Quận uỷ đã chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện việc cụ thể hoá Nghị quyết đại hội bằng Nghị quyết 10-NQ/QU về chỉnh trang đô thị và phát triển đô thị - phát triển kinh tế quận (2006 – 2010). Đồng thời, trong từng thời gian, trên cơ sở chỉ đạo của Đảng cấp trên và tình hình thực tiễn, Quận uỷ đã xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch, chương trình, chỉ thị, như: Chương trình hành động 10-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 08 của Trung ương (khoá X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, Chương trình hành động 28-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương (khoá X) về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Chỉ thị 08-CT/QU về chấn chỉnh tình hình xây dựng trái phép trên địa bàn, Chỉ thị 10-CT/QU về tăng cường lãnh đạo phong trào vận động nhân dân hiến đất làm đường, mở rộng hẻm, Nghị quyết 35-NQ/QU về lãnh đạo thực hiện chỉnh trang đô thị, di dời, tái định cư các hộ dân sống trên và ven rạch Ụ Cây,…Do đó, việc lãnh đạo phát triển kinh tế quận đạt những kết quả khả quan.
Kinh tế quận tiếp tục chuyển dịch theo hướng dịch vụ, thương mại – công nghiệp gắn với quy hoạch tổng mặt bằng, quy hoạch phát triển mạng lưới trung tâm thương mại – siêu thị - chợ, bước đầu đạt một số kết quả:
Hoạt động dịch vụ, thương mại phát triển mạnh với nhiều loại hình đa dạng, phong phú đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá và đời sống xã hội, hình thành và đưa vào hoạt động Trung tâm thương mại Bình Điền, khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ như: chợ, dịch vụ bất động sản, tư vấn, tài chính – ngân hàng,… Tổng doanh thu dịch vụ, thương mại trên địa bàn tăng bình quân 41,14%/năm (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 23 - 25%/năm). Các chợ trên địa bàn được đầu tư sửa chữa, nâng cấp; tổ chức đấu thầu quản lý và khai thác nhằm tăng hiệu quả hoạt động, chất lượng phục vụ. Các thành phần kinh tế có bước phát triển; số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng bình quân 20,37%/năm, số cơ sở kinh doanh cá thể tăng bình quân 2,69%/năm.
Kinh tế hợp tác, hợp tác xã được tập trung củng cố, phát triển và lĩnh vực hoạt động đa dạng hơn. Hiện có 23 hợp tác xã, 01 quỹ tín dụng nhân dân, 01 siêu thị Coopmart và Trung tâm thương mại Bình Điền đang hoạt động trên địa bàn, góp phần bình ổn giá cả và nâng chất lượng dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân. Riêng Trung tâm thương mại Bình Điền là chợ đầu mối lớn nhất cả nước, cung cấp nguồn lương thực thực phẩm cho Thành phố và các tỉnh lân cận với khoảng 1.300thương nhân hoạt động, tạo nguồn thu ngân sách khá lớn cho quận.
Sản xuất công nghiệp giữ được mức tăng trưởng khá, tăng bình quân 19,67%/năm (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 15 - 17%/năm); tăng chủ yếu ở các ngành thế mạnh như: chế biến thực phẩm, may – da giày, thiết bị điện - điện tử, giấy, nhựa, sản phẩm cơ khí,... Các doanh nghiệp đã chú trọng hơn việc đầu tư đổi mới công nghệ để xây dựng và bảo vệ thương hiệu, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường cơ bản được di dời ra khỏi khu dân cư theo quy hoạch của Thành phố.
Tiến trình đô thị hoá địa bàn được quan tâm thực hiện, công tác quản lý và phát triển đô thị được tập trung tạo chuyển biến cụ thể.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư. Các tuyến đường chính kết nối với trung tâm Thành phố và khu đô thị mới Nam Sài Gòn được đầu tư sửa chữa, nâng cấp hoặc xây mới, như: đại lộ Đông Tây, Quốc lộ 50, đường vào Trung tâm thương mại Bình Điền, đường Tạ Quang Bửu, cầu Nguyễn Văn Cừ, cầu Chà Và, cầu Chữ Y, các tuyến đường nội bộ; gần 200 hẻm được nâng cấp, bê tông hoá với vốn sự nghiệp và thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, tổ chức “vận động nhân dân hiến đất làm đường, mở rộng hẻm”. Một số công trình phúc lợi công cộng được quan tâm đầu tư nâng cấp, xây dựng mới như: các trạm y tế phường, phòng khám đa khoa Xóm Củi, trường mầm non, trường tiểu học, Nhà Thiếu nhi, trung tâm văn hoá thể thao phường và trụ sở làm việc phường, trường trung học kỹ thuật nghiệp vụ Nam Sài Gòn, trung tâm hành chính quận. Hoạt động đầu tư các dự án ngoài ngân sách nhà nước tăng mạnh, đã thu hút các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng nhiều dự án nhà ở góp phần cải tạo, nâng cấp và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu dân cư mới ở các phường 4, 5, 6, 7, 16,…
Việc triển khai chương trình chỉnh trang đô thị được tập trung thực hiện. Đã triển khai các giải pháp thực hiện Chương trình chỉnh trang đô thị, di dời, tái định cư nhà trên và ven kênh rạch, trong đó, tập trung chỉ đạo thắng lợi việc thực hiện Chương trình di dời, tái định cư 905 căn hộ dân sống trên rạch Ụ Cây nhân kỷ niệm 35 năm ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và phấn đấu đến năm 2015 hoàn thành dự án. Đang triển khai phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ tái định cư các dự án Bờ Đông rạch Xóm Củi, dự án khu công viên văn hoá Đồng Diều - phường 4. Đồng thời,đã xây dựng và triển khai các dự án xây dựng công trình công cộng và nhà ở phục vụ tái định cư từ các kho bãi sử dụng không đúng mục đích mà Thành phố đã bàn giao cho quận. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách trong 5 năm (2006 – 2010) đạt 1.344,931 tỷ đồng.
Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được tăng cường chỉ đạo. Đã hoàn thành việc lập, phê duyệt và công bố các đồ án quy hoạch: quy hoạch mạng lưới giáo dục, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị 1/2000 ở 6 phường, đồ án quy hoạch chung tỷ lệ 1/5000 của quận. Việc quản lý xây dựng và trật tự đô thị được tăng cường hơn,thực hiện ngày càng có hiệu quả, làm giảm đáng kể các trường hợp vi phạm xây dựng không phép, sai phép trên địa bàn; việc sắp xếp, lập lại tình hình kinh doanh lấn chiếm lòng lề đường ở các tuyến đường trọng điểm và các khu vực họp chợ tự phát được duy trì thường xuyên và mang lại kết quả đáng kể.
Công tác điều hành cân đối ngân sách được tập trung theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, có tích luỹ đầu tư cho phát triển. Mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu trong nửa cuối nhiệm kỳ Đại hội đến nay, việc chỉ đạo thu ngân sách Nhà nước được tập trung đạt kết quả khích lệ. Tổng thu ngân sách nhà nước tăng bình quân 24,36%/năm (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 12%/năm); trong đó, thuế công thương nghiệp tăng bình quân 28,81%/năm, tỷ trọng tăng dần trong tổng thu ngân sách nhà nước, chiếm từ 42,32% năm 2006 lên 48,71% năm 2010. Cơ cấu chi ngân sách địa phương được bố trí theo hướng tăng chi cho đầu tư phát triển (chiếm tỷ trọng 15,68% so tổng chi ngân sách, tăng bình quân 12,59%/năm), đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm chi thường xuyên từ ngân sách (5 năm qua, đã tiết kiệm được 55,989 tỷ đồng).
2- Công tác chăm lo đời sống nhân dân và các mặt văn hoá – xã hội được tập trung thực hiện có kết quả khả quan.
Quận uỷ đã tập trung xây dựng và thực hiện: Nghị quyết09-NQ/QU về phát triển văn hoá – xã hội (2006 – 2010), Nghị quyết 30-NQ/QU về giảm nghèo, tăng hộ khá, Kế hoạch 57-KH/QU thực hiện Chỉ thị 11 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, đề án nâng cao chất lượng giáo dục, phân luồng giáo dục,... với kết quả cụ thể:
Đời sống nhân dân được cải thiện hơn, việc thực hiện các chế độ, chính sách xã hội đảm bảo chính xác, kịp thời và đúng quy định. Đã giới thiệu và giải quyết việc làm cho hơn 8.000 lao động/năm làm việc trong các cơ sở, doanh nghiệp trong và ngoài quận, đồng thời, quan tâm tổ chức hỗ trợ học nghề ngắn hạn và giúp vốn làm ăn nhằm góp phần tự tạo việc làm của người dân. Các chế độ, chính sách xã hội được quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời đã góp phần ổn định, nâng mức sống của diện chính sách, người có công với nước, gia đình thương binh, liệt sĩ; các Mẹ Việt Nam anh hùng đều được phụng dưỡng, nhiều thương binh nặng được đỡ đầu; đã cơ bản hoàn thành công tác xây dựng nhà tình nghĩa (42 căn).
Việc thực hiện Chương trình xoá đói giảm nghèo được lãnh đạo tập trung có kết quả. Đến cuối năm 2008, quận đã hoàn thành cơ bản không còn hộ nghèo (theo tiêu chí cũ 6 triệu đồng/người/năm); xây dựng và tổ chức thực hiện Nghị quyết 30-NQ/QU “về lãnh đạo thực hiện chương trình “giảm nghèo, tăng hộ khá” giai đoạn 2009 – 2015” theo tiêu chí 12 triệu đồng/người/năm, dự kiến đến cuối năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo còn 5,97%. Phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, Cuộc vận động “Vì người nghèo” được cán bộ đảng viên và nhân dân, doanh nghiệp, các tôn giáo, dân tộc nhiệt tình ủng hộ, đã xây tặng 357 nhà tình thương, sửa chữa chống dột 314 căn; ngoài ra, đã tiến hành hỗ trợ xe gắn máy và thực hiện bù cấp hỗ trợ chuyển đổi nghề cho người nghèo sử dụng các loại phương tiện xe 3, 4 bánh tự chế trên địa bàn. Các hoạt động xã hội nhân đạo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, đời sống đồng bào các vùng căn cứ cách mạng cũ cũng được chăm lo khá tốt.
Việc đảm bảo người dân được sử dụng nước sạch được quan tâm thực hiện, tỷ lệ người dân trên địa bàn quận sử dụng nước sạch đạt trên 95%.
Chất lượng giáo dục đào tạo có tiến bộ rõ nét. Công tác giáo dục – đào tạo tiếp tục được quan tâm và đạt một số tiến bộ. Quy mô và mạng lưới trường lớp được phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Quy mô học sinh tăng, tỷ lệ học sinh học 02 buổi/ngày đạt 50,99% ở tiểu học và 32,59% ở trung học cơ sở. Xây dựng và thực hiện có kết quả Đề án nâng cao chất lượng giáo dục và việc phân luồng giáo dục sau trung học cơ sở. Việc đổi mới phương pháp giáo dục được chú trọng, công tác chuẩn hoá trình độ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục được quan tâm bồi dưỡng (có 80% giáo viên đạt trình độ trên chuẩn - đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội); ngày càng xuất hiện nhiều gương giáo viên dạy giỏi, học sinh học giỏi, đạt các giải thưởng cao cấp Thành phố. Hiệu suất đào tạo bậc tiểu học, bậc trung học cơ sở, tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1, 5 tuổi vào mẫu giáo đều đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đề ra. Đạt chuẩn giáo dục phổ cập bậc trung học vào năm 2007. Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đạt kết quả bước đầu đáng trân trọng, đã hình thành 8 trường mầm non dân lập, tư thục, 24 nhóm trẻ gia đình cùng 1 trường phổ thông trung học tư thục, góp phần giảm bớt áp lực trường lớp. Đến cuối 2010, có 5 trường đạt chuẩn quốc gia (trường tiểu học Nguyễn Trung Ngạn, Mầm non Tuổi Ngọc, Mầm non dân lập Hoàng Mai I, Mầm non 19/5, Mầm non Bông Sen) (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là xây dựng 4 trường đạt chuẩn quốc gia).
Công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng thực hiện tốt. Mạng lưới cơ sở vật chất của bệnh viện, y tế cơ sở từng bước được đầu tư nâng cấp, sửa chữa, đội ngũ y bác sĩ được quan tâm củng cố, bổ sung đã góp phần cải thiện điều kiện phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân. Các mặt hoạt động của y tế dự phòng được chủ động triển khai, công tác truyền thông sức khoẻ được đầu tư, kiến thức y học thường thức và ý thức phòng chống dịch bệnh của nhân dân được nâng lên, đã khống chế hiệu quả không để dịch bệnh lan rộng, nhất là sốt xuất huyết, tay chân miệng, cúm A/H5N1, A/H1N1. Công tác khám chữa bệnh đảm bảo quy chế chuyên môn, triển khai thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi. Tổ chức các kế hoạch đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, không để xảy ra ngộ độc thực phẩm. Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng đạt trên 95%, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi đạt3,5%; khống chế được tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1% (năm 2009, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 0,75%).
Các hoạt động văn hoá văn nghệ tiếp tục phát triển tốt, hướng vào việc xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, việc thực hiện Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị về “xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội” ngày càng phát huy tính tích cực trong việc cải thiện đời sống, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn minh, nâng cao tính cộng đồng, phát huy truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam; phong trào xây dựng công sở văn minh, đơn vị văn hoá được các đơn vị hưởng ứng mạnh mẽ, tạo sự chuyển biến trong xây dựng môi trường văn hoá nơi làm việc, có tinh thần thái độ phục vụ nhân dân. Công tác quản lý và củng cố, chấn chỉnh các hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá ngày càng đi dần vào nền nếp, tạo môi trường văn hoá lành mạnh. Công tác bảo tồn các giá trị truyền thống văn hoá được quan tâm, đã có 6 di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật được Thành phố công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố (đình Phong Phú, đình Hưng Phú, đình Vĩnh Hội, chùa Pháp Quang, chùa Thiên Phước, chùa Huệ Lâm), đang lập thủ tục đề nghị công nhận 2 di tích mới (đình Bình Long, Tứ Xuân). Đã xây dựng được 48 khu phố đạt chuẩn khu phố văn hoá, đạt tỷ lệ 49,5% tổng số khu phố trên địa bàn (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội: 50% khu phố).
Toàn quận có 9 phường đăng ký xây dựng phường văn hoá. Đảng bộ quận đã xây dựng và triển khai thực hiện Nghị quyết 27-NQ/QU về xây dựng phường văn hoá, tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí, phấn đấu đến cuối năm 2010 có ít nhất 1 phường đạt chuẩn phường văn hoá (đạt yêu cầu chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đã được Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ quận điều chỉnh).
Thực hiện cuộc vận động “Thực hiện nếp sống văn minh đô thị”, quận đã triển khai có kết quả bước đầu phong trào Toàn dânhành động “vì đường phố không rác”,xây dựng mô hình điểm phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường” tại phường 3 và mô hình điểm “phường không rác” tại phường 5.
Phong trào thể dục thể thao có bước phát triển, thu hút nhiều ngành, nhiều giới tham gia, nhất là thanh thiếu niên, người cao tuổi; số người luyện tập thường xuyên đạt 25% tổng số dân (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội: 17%). Công tác xã hội hoá hoạt động thể dục thể thao bước đầu đạt kết quả khá tốt, thu hút được nguồn lực tham gia đầu tư. Các bộ môn thể thao chủ lực (như: Vovinam, điền kinh, cờ vua,…), lực lượng vận động viên năng khiếu được quan tâm đầu tư, bồi dưỡng, đạt nhiều thành tích cao trong thi đấu ở các giải Thành phố, toàn quốc và quốc tế (đạt 1.737 huy chươngcác loại, trong đó, huy chương vàng: 702).
3- Nhiệm vụ quốc phòng – an ninh và hoạt động tư pháp được lãnh đạo thực hiện có kết quả.
Nhận thức việc củng cố, xây dựng nền quốc phòng – an ninh là nhiệm vụ thường xuyên, Quận uỷ đã xây dựng và thựchiện: Chương trình hành động 05-CTr/QU về quân sự - quốc phòng (2006 – 2010),Chương trình hành động 07-CTr/QU về an ninh – trật tự (2006 – 2010), Chỉ thị 11-CT/QU về đẩy mạnh công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, Nghị quyết 29-NQ/QU về vận động đưa người nghiện vào cơ sở chữa bệnh, Kế hoạch 10-KH/QU thực hiện Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Kế hoạch 90-KH/QU thực hiện Nghị quyết 28 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng quận thành khu vực phòng thủ vững chắc, Kế hoạch 92-KH/QU thực hiện Chỉ thị 21 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới, Kế hoạch 97-KH/QU thực hiện Kết luận 47 của Trung ương về đấu tranh chống quan điểm sai trái trong văn học, về bảo đảm an ninh quốc gia,…Kết quả cụ thể:
Công tác xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ được đảm bảo theo yêu cầu kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng – an ninh, giữa quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế ngày càng vững mạnh. Công tác quân sự - quốc phòng địa phương được củng cố và phát huy, đạt nhiều tiến bộ trong hiệp đồng tác chiến trị an, phòng chống tội phạm, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng và thực hành các phương án, kế hoạch diễn tập phòng thủ, phòng chống gây rối, biểu tình, bạo loạn, lật đổ kết hợp phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ hàng năm đều đảm bảo chỉ tiêu trên giao và chất lượng chính trị ngày càng nâng lên. Việc xây dựng, huấn luyện cho lực lượng vũ trang nhân dân (quân sự, công an, dân quân tự vệ) đáp ứng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và thành tích trong hội thao quốc phòng hàng năm ngày càng cao. Đã xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,57% tổng số dân; huy động tốt lực lượng dự bị động viên, xây dựng lực lượng thường trực quận đủ quân số; 100% phường đội trưởng, phường đội phó, nhân viên thống kê là đảng viên.
Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn tiếp tục giữ vững sự ổn định. Ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần chủ động đấu tranh có hiệu quả các hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân được thường xuyên củng cố, phát huy. Thế trận an ninh nhân dân, công tác nắm tình hình, quản lý địa bànđược tăng cường, đã kịp thời phát hiện và giải quyết các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến bồi thường giải phóng mặt bằng, quyền lợi của công nhân – lao động, không để phát sinh thành điểm nóng. Công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng và an ninh nội bộ luôn được chú trọng, tập trung công tác bảo đảm tình hình tư tưởng và nội bộ, phòng chống và đấu tranh với những luận điệu, luồng tư tưởng xấu và bọn cơ hội chính trị.
Tình hình trật tự an toàn xã hội được tập trung lãnh đạo, tạo những chuyển biến tích cực. Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” ngày càng đi vào chiều sâu, xuất hiện nhiều mô hình tự quản có hiệu quả trong nhân dân. Các nội dung liên tịch, quan hệ phối hợp, hiệp đồng giữa lực lượng vũ trang và mặt trận, các đoàn thể được chú trọng duy trì; thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu quả lực lượng bảo vệ dân phố từ cuối năm 2008. Đã kéo giảm tình hình tội phạm hình sự (giảm 31,77% các vụ phạm pháp hình sự so giai đoạn 2000 – 2005), chuyển hoá cơ bản các tụ điểm phức tạp về ma tuý ở các phường 6, 12, 14, không để tái phức tạp và phát sinh các tụ điểm mới, đưa hơn 700 người nghiện vào cơ sở chữa bệnh, tiếp nhận và quản lý, giúp đỡ gần 1.400 người tái hoà nhập cộng đồng.
Công tác xây dựng lực lượng công an – quân sự về tư tưởng, chính trị và tổ chức, được quan tâm thường xuyên, hàng năm đều đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị tiên tiến, quyết thắng, từng bước vươn lên đáp ứng được yêu cầu quốc phòng – an ninh trong tình hình mới. Mối quan hệ phối hợp giữa công an – quân sự trong tác chiến, giữ gìn an ninh trật tự địa bàn theo Quyết định 107 của Thủ tướng Chính phủ ngày càng đồng bộ, chặt chẽ và hiệu quả.
Công tác cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị được quan tâm thực hiện có kết quả. Mối quan hệ phối hợp trong điều tra, truy tố, xét xử của các ngành tư pháp được duy trì thường xuyên theo quy chế; tỷ lệ điều tra khám phá án được nâng lên (61,7%), tỷ lệ xét xử đạt 91,47%, đảm bảo yêu cầu không để oan sai, sót lọt tội phạm. Đội ngũ cán bộ các ngành tư pháp nói chung, cơ quan thi hành án dân sự nói riêng, được quan tâm củng cố, bồi dưỡng nâng lên về trình độ nghiệp vụ, phẩm chất chính trị và hiệu quả hoạt động.
II.- VỀ XÂY DỰNG, KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:
Đảng bộ luôn tập trung lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, chăm lo củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị - xem đây là nhiệm vụ then chốt, để đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của tình hình mới; phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc được đổi mới theo hướng sát thực tế, sát cơ sở, giảm hội họp. Qua đó, góp phần quan trọng trong việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, quyết định của cấp trên và cấp mình, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của tổ chức đảng, giúp công tác lãnh đạo, chỉ đạo cóhiệu quả hơn.
1- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên theo yêu cầu của tình hình mới.
Quận uỷ đã xây dựng và tổ chức thực hiện nhiều văn bản trên lĩnh vực này, như: Chương trình hành động 02-CTr/QU thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 12 (khoá IX) về tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay, Chương trình hành động 13-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 16 của hội nghị Trung ương (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận trước yêu cầu mới, Kế hoạch 92-KH/QU thực hiện Chỉ thị 34 của Ban Bí thư về tăng cường đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá, Kế hoạch 28-KH/QU thực hiện Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị về Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chương trình hành động 19-CTr/QU thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ương lần 6 (khoá X) về tăng cường nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên, Chương trình hành động 14-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 14 của hội nghị Trung ương (khoá X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng,…Qua đó, đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, cụ thể:
Công tác chính trị tư tưởng được tiến hành thường xuyên, liên tục. Đã tổ chức sâu rộng các đợt nghiên cứu, quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng các cấp, nhất là quán triệt và cụ thể hoá các nghị quyết hội nghị Trung ương – khoá X; giáo dục truyền thống cách mạng, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; chế độ thông tin thời sự, tình hình kinh tế - xã hội, báo cáo chuyên đề cho cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức – lao động và nhân dân. Nội dung và hình thức tổ chức học tập, quán triệt, giáo dục được cải tiến phong phú hơn, góp phần tạo sự thống nhất cao trong nhận thức tư tưởng và hành động của cán bộ, đảng viên gắn với việc thực hiện nghị quyết của Đảng, gắn bó chặt chẽ và khơi dậy các phong trào của quần chúng, làm cho công tác tư tưởng gắn liền với cuộc sống và góp phần xây dựng môi trường văn hoá xã hội lành mạnh phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở. Công tác nghiên cứu dư luận xã hội được tăng cường và luôn cải tiến, giúp cấp uỷ kịp thời nắm bắt được tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, giải quyết nhanh các kiến nghị, bức xúc của nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức về các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, chống các quan điểm sai trái và âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”được tập trung chỉ đạo với nhiều hình thức phong phú, sinh động, có kết quả thiết thực. Đã tổ chức các đợt học tập chuyên đề, hội thi kể chuyện gương điển hình “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, kể chuyện tấm gương đạo đức Bác Hồ trong lễ chào cờ hàng tuần, tháng, sinh hoạt chi bộ, sáng tác truyện ngắn, thơ, chiếu phim tài liệu về Bác; phát động phong trào rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ, vận động “Mỗi người hãy giúp đỡ người nghèo, khó khăn xung quanh mình”, “Mỗi cán bộ, đảng viên gắn với một địa chỉ nhân đạo”; hướng dẫn và chỉ đạo tổ chức đảng cơ sở xây dựng các công trình thi đua cụ thể tập trung hướng về công tác chăm lo và cải thiện đời sống cho nhân dân, đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, như: xây dựng nhà tình thương, chống dột cho dân nghèo, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Qua đó, đã tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, ý thức trách nhiệm và hành động cụ thể của các cấp uỷ và cán bộ, đảng viên, đồng thời, có tác động lan toả ngày càng mạnh mẽ đến các tầng lớp nhân dân; hàng trăm công trình có ý nghĩa thiết thực đã được đăng ký và thực hiện có kết quả; xuất hiện ngày càng nhiều gương điển hình của tập thể và cá nhân trong “nỗ lực làm theo” tấm gương, đạo đức của Bác Hồ. Qua 3 năm thực hiện Cuộc vận động, đã có 103 tập thể, 29 cá nhân được tuyên dương cấp quận và 4 tập thể, 9 cá nhân được tuyên dương cấp Thành phố.
Công tác tổ chức – cán bộ có nhiều tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Nghị quyết Trung ương 6 – khoá X được tập trung thực hiện thường xuyên có kết quả: chất lượng sinh hoạt chi bộ được nâng cao qua triển khai thực hiện Chỉ thị 10 của Ban Bí thư, hầu hết các chi bộ, đảng bộ đều chú ý cải tiến nội dung sinh hoạt; năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang, các cơ quan quản lý nhà nước có bước củng cố, nâng lên đáp ứng được yêu cầu; chất lượng hệ thống chính trị phường được tiếp tục đổi mới và nâng cao theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 – khoá IX; hoạt động chi bộ khu phố, trường học, công an, quân sự phường được quan tâm củng cố, nâng chất gắn với kiện toàn hệ thống chân rết các tổ chức đoàn thể ở khu phố, tổ dân phố nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trên địa bàn dân cư. Từ sau Đại hội Đảng bộ Quận lần IX, đã giữ vững số cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh; chất lượng đảng viên được phân tích, đánh giá ngày càng đi vào thực chất hơn (đến cuối năm 2009, toàn Đảng bộ quận có 43/67 cơ sở đạt trong sạch vững mạnh, có 9 cơ sở đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu, 15 cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ, 6 cơ sở hoàn thành nhiệm vụ); có 2.230 /2644 đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó, có 414 đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ).
Công tác phát triển tổ chức đảng, đoàn thể, đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp tư nhân theo tinh thần Chỉ thị 11 của Thành uỷ được đẩy mạnh. Đãxây dựng được 17 chi bộ, 212 tổ chức công đoàn, 15 chi đoàn, 125 chi hội thanh niên trong các doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời, đã thường xuyên củng cố, nâng chất lượng hoạt động chi bộ các công ty tư nhân, công ty cổ phần, chi bộ chợ.
Công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ được thực hiện theo đúng chỉ đạo và theo hướng trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đã tập trung hoàn thành công tác quy hoạch cán bộ giai đoạn 2010 – 2015 theo tinh thần Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị,Chỉ thị 02 của Thành uỷ trên cơ sở đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quận, trước hết là cán bộ chủ chốt, cán bộ trẻ trong diện quy hoạch đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá cán bộ về trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn. Trong nhiệm kỳ, Quận đã phối hợp mở các lớp tại chức đại học ngành xây dựng Đảng, chuyên ngành tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế luật, quản trị kinh doanh; các lớp trung cấp chính trị, hành chính, xây dựng tại quận cho cán bộ trong diện quy hoạch và cử nhiều cán bộ dự các lớp lý luận chính trị, nghiệp vụ chuyên môn do Thành phố tổ chức để nâng trình độ học vấn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quận. Đến nay, đội ngũ cán bộ chủ chốt quận và cơ sở hầu hết đều có trình độ chuyên môn nghiệp vụ đại học và lý luận chính trị cao cấp trở lên (đạt yêu cầu của Nghị quyết Đại hội).
Công tác luân chuyển cán bộ được tập trung thực hiện gắn với việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy từ quận đến cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Trong nhiệm kỳ, đã luân chuyển 92 cán bộ (21 cán bộ trẻ); phần lớn số cán bộ trẻ trong diện quy hoạch được đề bạt, bổ nhiệm đáp ứng khá tốt yêu cầu nhiệm vụ được phân công; đề bạt, bổ nhiệm 512 cán bộ, kịp thời thay đổi những cán bộ lãnh đạo ở những nơi trì trệ, phong trào kém, mất đoàn kết, tín nhiệm thấp. Việc nhận xét, đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ được thực hiện theo quy trình và phù hợp với năng lực của cán bộ. Cán bộ nữ được Đảng bộ quan tâm đào tạo, bồi dưỡng để phát huy năng lực, sở trường; tỉ lệ nữ cán bộ chủ chốt đạt gần 30%.
Thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân quận – phường và bí thư đảng uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân phường có kết quả bước đầu. Quận đã tổ chức tổng kết hoạt động Hội đồng nhân dân Quận – phường nhiệm kỳ 2004 – 2009; sắp xếp lại cán bộ Hội đồng nhân dân quận, phường theo yêu cầu nhiệm vụ và năng lực cán bộ; qua thực hiện thí điểm ở 4 phường (3, 8, 9, 10), các đồng chí bí thư đảng uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân phường đã có nhiều nỗ lực đảm đương khá tốt nhiệm vụ, phân định ngày càng rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của chính quyền.
Công tác kết nạp đảng viên được chú trọng cả về số lượng và chất lượng. Các cấp uỷ đã quan tâm tạo nguồn, bồi dưỡng kết nạp được những quần chúng ưu tú vào Đảng; coi trọng chất lượng kết nạp đảng viên mới với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, quy hoạch dài hạn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, công nhân lao động, giáo viên, dân quân tự vệ, người dân tộc, người có đạo, cán bộ khu phố – tổ dân phố. Trong nhiệm kỳ, đã kết nạp được 693 đảng viên mới (chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ là 500), tập trung là khu vực phường, trường học, lực lượng công an, quân sự, nguồn sẵn sàng nhập ngũ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện đảm bảo yêu cầu theo Quy định 57-QĐ/TW của Bộ Chính trị, các chỉ đạo của Thành uỷ và sự phân cấp quản lý, phục vụ có hiệu quả yêu cầu xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị, công tác kết nạp đảng viên và công tác cán bộ của Quận.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được Quận uỷ và cấp uỷ cơ sở tập trung chỉ đạo thực hiện khá tốt chương trình kiểm tra, giám sát toàn khoá và hàng năm, triển khai thực hiện nghiêm túc việc quán triệt, sơ kết, tổng kết các nghị quyết, quyết định, quy định, hướng dẫn của Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng, về tăng cương công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ được tăng cường, chủ động triển khai toàn diện, thực chất, sâu rộng, không hình thức, nhất là lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra việc chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác cán bộ; kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra với việc xử lý vi phạm góp phần tích cực vào thực hiện nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ xây dựng đảng, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật Đảng, củng cố đoàn kết nội bộ, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; kịp thời ngăn ngừa các vi phạm, xử lý nghiêm và đồng bộ hơn giữa kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý theo pháp luật. Trong nhiệm kỳ, cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra quận và cơ sở đã tiến hành kiểm tra 60 cán bộ, đảng viên và 40 tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm, 81 tổ chức đảng thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật Đảng; giám sát thường xuyên 450 lượt tổ chức đảng cấp dưới; giám sát chuyên đề 33 tổ chức đảng cấp dưới, 56 cán bộ, đảng viên; việc chấp hành kỷ luật trong Đảng chuyển biến tích cực, nhiều tổ chức đảng và cán bộ đảng viên gương mẫu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định, quyết định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống; qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và thanh tra của Nhà nước đã xử lý kỷ luật 87 đảng viên, 2 đảng uỷ cơ sở, giảm hơn 50% so với nhiệm kỳ 2000 – 2005.
2- Hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước được tập trung củng cố, nâng lên.
Trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 08-NQ/QU về xây dựng chính quyền (2006 – 2010), Chương trình hành động số 22-CTr/QU thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước trên địa bàn và Chương trình cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” gắn với ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001: 2000 và tin học hoá công tác quản lý, điều hành, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước có nhiều chuyển biến tích cực. Các thủ tục hành chính và quy trình giải quyết công việc được tập trung đổi mới theo hướng hợp lý, khoa học hơn, rút ngắn thời giờ giải quyết công việc, bảo đảm tính công khai minh bạch, giảm phiền hà và tốn kém thời gian, tiền của của nhân dân và tổ chức. Hệ thống tổ chức bộ máy các phòng ban quận được thường xuyên củng cố, kiện toàn nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động; đội ngũ cán bộ công chức được quan tâm bồi dưỡng, đào tạo về lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học và chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá giao tiếp ứng xử,… theo chức danh và hướng chuẩn hoá, nâng cao được ý thức trách nhiệm, thể hiện khá tốt văn hoá công sở khi thực hiện công vụ. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở được quan tâm chỉ đạo thường xuyên và có kết quả; qua đó, đã tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy chế, bổ sung những quy định cụ thể phù hợp với chức năng của đơn vị; chấn chỉnh việc xây dựng quy ước của tổ dân phố và tổ chức tốt hội nghị nhân dân, giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc đặt ra của nhân dân trên địa bàn dân cư.
Uỷ ban nhân dân quận có nhiều đổi mới trong công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng sát dân, sát cơ sở, giảm hội họp, giải quyết kịp thời những khó khăn của cơ sở và vướng mắc của doanh nghiệp. Tổ chức ngày càng hiệu quả hơn việc phân công, phân cấp đối với phường, các phòng ban trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tạo được mối quan hệ tốt và tranh thủ được sự hỗ trợ, giúp đỡ của các ngành và lãnh đạo Thành phố trong giải quyết các khó khăn của quận trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Duy trì tốt chế độ tiếp dân của chính quyền và các phòng, ban chức năng; tăng cường giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân theo luật định, không để tồn đọng, kéo dài. Chú trọng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước, nhất là đối với việc thực hiện các chỉ tiêu trọng yếu có tác động đến quá trình phát triển và công tác kiểm tra, giám sát của nhân dân,giám sát cộng đồng.
Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng theo Nghị quyết Trung ương 3 khoá X luôn được chỉ đạo gắn với cuộc đấu tranh chống quan liêu, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Hoạt động của Ban chỉ đạo quận và cơ sở có nhiều tiến bộ, đã thực hiện hàng ngàn cuộc thanh, kiểm tra, tập trung vào các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, xây dựng, quản lý tài chính, cấp phép xây dựng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở… để ngăn ngừa tiêu cực, nâng cao ý thức tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách, tài sản công, tài chính, xử lý nghiêm các vi phạm.
3- Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố và phát huy hiệu quả trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển địa phương.
Đảng bộ đã thường xuyên tăng cường lãnh đạo củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhất là chú trọng phát huy năng lực trí tuệ, vốn, tay nghề, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh của trí thức, doanh nhân, đồng bào Hoa, các tôn giáo, các thành phần kinh tế, góp phần vào phát triển kinh tế, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ quận đã kịp thời tổ chức quán triệt và cụ thể hoá thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Trung ương về công tác vận động nhân dân, như: Chương trình hành động số 07-CTr/QU về công tác vận động nhân dân (2006 -2010), Chương trình hành động số 17-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ, Chương trình hành động số 29-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 27 của Ban chấp hành Trung ương khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức, Chương trình hành động số 23-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 22 của Ban chấp hành Trung ương khoá X về giai cấp công nhân, Chương trình hành động số 27-CTr/QU thực hiện Nghị quyết 25 của Ban chấp hành Trung ương khoá X về công tác thanh niên trong thời kỳ mới; tập trung thực hiện có kết quả công tác vận động nhân dân, chăm sóc người cao tuổi, cựu chiến binh, công tác tôn giáo, dân tộc, xây dựng củng cố lực lượng chính trị nòng cốt, bồi dưỡng cán bộ làm công tác dân vận; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể, nhất là Đoàn thanh niên, tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận, các đoàn thể thực hiện các chương trình, phong trào và quan tâm đào tạo cán bộ làm nguồn bổ sung cán bộ cho Đảng. Các tổ chức cơ sở đảng có nhiều nỗ lực thực hiện nghiêm túc công tác xã hội và phân công đảng viên trực tiếp làm công tác vận động nhân dân, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giúp nhân dân hiểu và chấp hành tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thuận với các chủ trương, giải pháp của quận vì sự phát triển của địa phương và bảo đảm an sinh xã hội; đồng thời, tích cực tham gia giám sát hoạt động của chính quyền. Qua đó, cấp uỷ và cán bộ, đảng viên có chuyển biến tốt hơn về thực hiện công tác vận động nhân dân theo phân công và trong tham gia sinh hoạt tại nơi cư trú.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể có nhiều cố gắng đổi mới nội dung, phương thức và hiệu quả hoạt động, tập trung hướng về cơ sở, địa bàn dân cư. Tổ chức được nhiều loại hình tập hợp, giáo dục thu hút lực lượng quần chúng vào tổ chức theo giới và ngành nghề; chú trọng công tác củng cố tổ chức bộ máy và phát triển đoàn viên, hội viên trong khu vực kinh tế tư nhân, đi sâu nắm bắt tình hình quần chúng các giới; tích cực cùng chính quyền các cấp trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, vận động nhân dân chấp hành chủ trương quy hoạch, các chính sách về bồi thường, hỗ trợ tái định cư góp phần hạn chế những vụ khiếu nại và các điểm nóng phát sinh trên địa bàn. Phối hợp tốt với chính quyền trong việc đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, phong trào “Toàn dânbảo vệ an ninh Tổ quốc”, cuộc vận động thực hiện nếp sống văn minh đô thị, chương trình xoá đói giảm nghèo, vì người nghèo, phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm,… thu hút khá đông quần chúng hưởng ứng đạt kết quả thiết thực. Thực hiện tốt công tác quản lý và hướng dẫn các hoạt động tôn giáo đúng pháp luật;quan tâm giải quyết các nhu cầu hợp lý của đồng bào dân tộc Hoa, Chăm về phát triển văn hoá, hỗ trợ đời sống, học hành của con em người dân tộc. Vận động các gia đình có thân nhân ở nước ngoài và kiều bào tham gia đóng góp xây dựng đất nước, xây dựng địa phương. Từ các phong trào quần chúng đã xuất hiện nhiều mô hình hoạt động có kết quả, như: “Thanh niên tình nguyện sau 24 giờ”, “Ngày Chủ nhật xanh”, công trình “Vì nguồn sáng an toàn, văn minh, tiết kiệm” cải tạo hệ thống điện, nước sạch cho các hộ nghèo của Đoàn Thanh niên; mô hình “Gia đình không có người thân vướng vào tệ nạn xã hội”, gia đình “5 không, 3 sạch”, “câu lạc bộ tiền hôn nhân” của Hội Phụ nữ; mô hình “vận động các ngành, các giới tham gia vào công tác chăm lo cho người nghèo”, “cải thiện việc cung cấp nước sạch” của Mặt trận Tổ quốc;…
Tổ chức bộ máy của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể được quan tâm củng cố, kiện toàn và có chiều hướng vươn lên đảm đương tốt nhiệm vụ, nhất là qua tổ chức đại hội nhiệm kỳ; tiến hành sắp xếp, củng cố tổ chức bộ máy Hội Nông dân quận, phường cho phù hợp tình hình, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác vận động nhân dân được quan tâm bồi dưỡng, nâng lên về trình độ năng lực và bản lĩnh công tác. Hệ thống chân rết mặt trận, các đoàn thể ở khu phố được quan tâm củng cố về tổ chức và nâng chất lượng hoạt động, nhất là từ sau thực hiện Chỉ thị 12-CT/QU “về tăng cường vai trò lãnh đạo của chi bộ khu phố và củng cố hoạt động của mặt trận, các đoàn thể ở khu phố”; đã củng cố 15 chi bộ khu phố, kiện toàn đủ nhân sự có năng lực để hoạt động ở khu phố, tổ dân phố, đến nay, 100% các khu phố đều có tổ chức mặt trận, các đoàn thể, 100% tổ dân phố có tổ trưởng, tổ phó; tỷ lệ số hộ dân tham gia hội nghị nhân dân tổ dân phố được nâng lên, hoạt động của các chi bộ khu phố, Mặt trận, các đoàn thể bước đầu có chuyển biến khá, thể hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo công tác vận động nhân dân, góp phần cùng với Đảng bộ phường hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể đã thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội về xây dựng tổ chức, tập hợp lực lượng (đã xây dựng 80% ban công tác mặt trận khu phố vững mạnh; thành lập 100% công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước đủ điều kiện và 75% công nhân lao động vào tổ chức công đoàn; tập hợp 48% thanh niên trong diện quản lý vào các loại hình tổ chức, trong đó, có 18% là đoàn viên thanh niên; 55% lực lượng phụ nữ;90% lực lượng cựu chiến binh).
B.- NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM:
1- Về kinh tế - xã hội:
Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế chưa đảm bảo tính bền vững, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm chưa cao. Số cơ sở, doanh nghiệp tăng nhưng quy mô đầu tư nhỏ, doanh thu thấp. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã còn nhiều khó khăn, hiệu quả hoạt động thấp (trong tổng số 23 hợp tác xã có 5 hợp tác xã hoạt động tương đối ổn định, 4 hợp tác xã mới thành lập, 3 hợp tác xã khó khăn về vốn và mô hình hoạt động). Phương thức hoạt động thương mại vẫn là kinh doanh nhỏ lẻ; việc đầu tư xây dựng chợ - siêu thị - trung tâm thương mại theo quy hoạch chưa theo kịp nhu cầu, các ngành dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch… ) chưa phát triển. Hiệu lực quản lý nhà nước khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế, tình trạng gian lận thương mại, vi phạm pháp luật lao động, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, gây ô nhiễm môi trường, còn xảy ra chưa được xử lý kịp thời.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tuy được quan tâm đầu tư xây dựng nhưng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, ảnh hưởng nhất định đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Việc chỉnh trang đô thị còn nhiều khó khăn. Chưa thực hiện được chỉ tiêu xây dựng 600 – 1.000 căn hộ cho thuê và bán cho người có thu nhập thấp. Công tác quản lý và thực hiện quy hoạch nói chung chưa đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh tiến trình đô thị hoá, tình trạng xây dựng trái phép, không phép có lúc có nơi còn xảy ra; tình trạng ô nhiễm môi trường chưa được khắc phục.
Việc cải thiện và nâng cao mức sống nhân dân, diện chính sách chưa có sự thay đổi lớn. Tình hình thực hiện chương trình “giảm nghèo, tăng hộ khá” với các giải pháp chỉ giải quyết trước mắt, chưa căn cơ; nhiều lao động tuy có việc làm nhưng không ổn định, lao động chủ yếu là phổ thông, thiếu tay nghề chuyên môn.
Chất lượng giáo dục – đào tạo tuy có chuyển biến, nhưng tỷ lệ bỏ học ở bậc trung học cơ sở có năm học còn cao phải tập trung giải quyết, hiệu suất đào tạo bậc trung học cơ sở còn ở mức thấp. Cơ sở vật chất ngành giáo dục nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nội dung chương trình đổi mới ở các bậc học, sĩ số học sinh còn cao, chưa đáp ứng đủ phòng học 2 buổi/ngày ở tiểu học và trung học cơ sở. Chưa thực hiện được việc tách cấp Trường phổ thông cơ sở Hưng Phú A.
Sự phát triển các mặt hoạt động văn hoá chưa thật phong phú, chưa đi vào chiều sâu. Công tác quản lý nhà nước về văn hoá chưa đồng bộ, nhất là lĩnh vực truyền thông, internet, quảng cáo. Công tác tuyên truyền vận động thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá chưa được thường xuyên, liên tục và sâu rộng, tiến độ xây dựng phường văn hoá còn nhiều khó khăn (đến cuối năm 2009, chưa có phường nào đạt chuẩn phường văn hoá).
2- Về quốc phòng – an ninh:
Công tác giáo dục ý thức quốc phòng – an ninh, tuyên truyền phổ biến pháp luật, Luật Nghĩa vụ quân sự, Pháp lệnh dân quân tự vệ, dự bị động viên chưa đạt hiệu quả cao. Một số cơ quan quân sự phường hoạt động hiệu quả thấp; công tác xây dựng, huấn luyện lực lượng tự vệ ở một số cơ quan, doanh nghiệp chưa được coi trọng; chất lượng chính trị của lực lượng dân quân còn thấp so yêu cầu.
Tình hình phạm pháp hình sự có thời điểm tăng cao. Tình trạng tàng trữ, mua bán và sử dụng các chất ma tuý có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp. Việc quản lý nhân hộ khẩu, quản lý địa bàn chưa thật chặt chẽ. Công tác tuyên truyền về phòng cháy chữa cháy còn hạn chế; việc xây dựng mô hình nhóm hộ tự quản còn mang tính hình thức, chưa phát huy được hiệu quả. Tai nạn giao thông còn ở mức cao.
Công tác cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị tuy có chuyển biến nhưng chưa đạt yêu cầu, số lượng án dân sự, hôn nhân gia đình, phạm pháp hình sự tăng cao nhưng thiếu chủ động đề xuất các biện pháp phòng ngừa; thi hành án còn tồn đọng nhiều; công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân còn hạn chế.
3- Về củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị:
Công tác triển khai, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng ở một số cơ sở đảng còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu chỉ đạo; cấp uỷ cơ sở còn thiếu đầu tư cụ thể hoá nghị quyết của Đảng phù hợp với tình hình địa phương. Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm trạng xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa thường xuyên. Chất lượng hoạt động của một số chi bộ quân sự phường còn hạn chế. Việc thực hiện Chỉ thị 11-CT/TU về phát triển tổ chức đảng, đoàn thể và kết nạp đảng viên, đoàn viên trong khu vực doanh nghiệp tư nhân chưa đạt yêu cầu. Công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ có lúc chưa đáp ứng yêu cầu bố trí cán bộ theo tình hình nhiệm vụ. Một vài cấp uỷ cơ sở chưa quan tâm tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; chưa chủ động phát hiện, phòng ngừa vi phạm.
Công tác cải cách hành chính tuy được quan tâm thực hiện, song, ở một số khâu, thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà. Việc sử dụng thời giờ làm việc, thực hiện chỉ đạo của uỷ ban nhân dân quận của một số cơ quan, phường chưa thật hiệu quả. Các ngành chức năng quận chưa thật chủ động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và trong mối quan hệ phối hợp với sở ngành thành phố trong quá trình tổ chức thực hiện.
Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể tuy có cố gắng đổi mới, song chưa theo kịp nhu cầu của tình hình chung, một số phong trào quần chúng còn thiên về bề nổi, nhất là ở cơ sở; hệ thống tổ chức đoàn thể ở khu phố, tổ dân phố tuy đã được tập trung củng cố song hiệu quả hoạt động chưa cao; chất lượng lực lượng chính trị nòng cốt yếu; công tác tập hợp thanh niên vào tổ chức đoàn, hội ở địa bàn dân cư, khu vực doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế.
C.- NGUYÊN NHÂN – BÀI HỌC KINH NGHIỆM THỰC TIỄN:
1- Nguyên nhân chủ yếu của những mặt làm được:
Nguyên nhân khách quan:
Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ và chính quyền quận luôn được sự chỉ đạo sâu sát của Ban Thường vụ, Thường trực Thành uỷ. Lãnh đạo chính quyền Thành phố cũng luôn quan tâm hỗ trợ, tiếp sức với quận giải quyết những khó khăn trong quá trình phát triển địa phương. Đây là nguồn động lực to lớn giúp cho Đảng bộ và chính quyền quận khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trong thời gian qua.
Nguyên nhân chủ quan:
Trong điều kiện của một quận còn nhiều khó khăn, chịu tác động của suy giảm kinh tế chung, Đảng bộ và chính quyền quận đã đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu cao, tập trung trí tuệ và vận dụng sáng tạo nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước vào hoàn cảnh, tình hình cụ thể của địa phương; chủ động đề xuất Thành phố ban hành các cơ chế, chính sách đặc biệt phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, đặc điểm của quậntạo sự chuyển biến rõ nét.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, Quận uỷ luôn sâu sát, kiểm tra, chấn chỉnh những vướng mắc, khó khăn nảy sinh; kịp thời động viên, khuyến khích, huy động sức mạnh cán bộ đảng viên toàn tâm toàn lực vì nhiệm vụ chính trị chung. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng và sự năng động, nhiệt tình của đội ngũ cán bộ, đảng viên được thường xuyên củng cố, kiện toàn và phát huy, công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ nâng lên về trình độ được quan tâm, cơ bản đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của tình hình nhiệm vụ đặt ra.
Các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ quận phù hợp với tâm tư nguyện vọng của nhân dân, tạo được sự đồng tình hưởng ứng của nhân dân tham gia đẩy mạnh thực hiện các phong trào, chương trình hành động cách mạng, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và phát huy, huy động được nguồn lực xã hội trong quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn.
Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm, đã góp phần tích cực vào thực hiện nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ xây dựng đảng, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật Đảng, củng cố đoàn kết nội bộ, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; kịp thời ngăn ngừa các vi phạm.
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo – chính quyền điều hành – sức mạnh của mặt trận và các đoàn thể được thực hiện ngày càng đồng bộ, chặt chẽ, huy động được cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện có kết quả Nghị quyết đại hội của Đảng bộ quận. Trong nhiệm kỳ, Quận uỷ luôn quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình; chỉ đạo sâu sát và hướng dẫn hoạt động các tôn giáo, dân tộc theo đúng quy định của pháp luật; đã củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị chung.
2- Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém:
Nguyên nhân khách quan:
Đặc điểm của một quận nội thị còn nhiều khó khăn chưa được khắc phục hiệu quả: dân cư đa số là lao động có thu nhập thấp, trình độ học vấn không đồng đều; hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị còn yếu và chưa đồng bộ; môi trường ô nhiễm của cả thành phố chưa được cải thiện. Do ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế toàn cầu, dịch vụ mua bán bất động sản bị “đóng băng” đã ảnh hưởng đến việc triển khai các dự án đầu tư xây dựng các khu dân cư mới, làm chậm tiến trình phát triển đô thị của quận
Nguyên nhân chủ quan:
Việc lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng từng nơi từng lúc chưa đồng bộ, chưa tuân thủ nghiêm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; công tác chỉ đạo, điều hành của chính quyền một số phường có lúc có nơi thể hiện sự buông lỏng dẫn đến việc kiểm tra, tổ chức thực hiện chậm trễ, chưa hiệu quả.
Hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có lúc còn nặng về hành chính. Công tác vận động còn đơn thuần, chưa tác động sâu sắc đến nhận thức của người dân, do đó, chưa làm chuyển hoá từ nhận thức thành hành động tự giác của người dân trong việc thực hiện các chủ trương của thành phố và quận.
Công tác quản lý nhà nước chưa theo kịp tiến trình phát triển của xã hội. Công tác tuyên truyền các quy định pháp luật trong nhân dân tuy có thực hiện, nhưng chưa thường xuyên, liên tục và sâu rộng nên kết quả thực hiện một số chủ trương, chính sách còn hạn chế.
Một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu đơn vị chưa chủ động sáng tạo trong tổ chức thực hiện các chỉ đạo của quận. Một số cấp uỷ đảng thiếu chủ động kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm để ngăn ngừa đảng viên vi phạm; một số đảng viên thiếu ý thức rèn luyện dẫn đến sai phạm phải xử lý kỷ luật.
Việc đánh giá cán bộ ở từng đơn vị chưa sát với thực tế; công tác đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn.
3- Bài học kinh nghiệm thực tiễn:
Trên cơ sở những mặt làm được, chưa được và nguyên nhân, Ban chấp hành Đảng bộ quận rút ra một số bài học kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, như sau:
1/ Thường xuyên quan tâm củng cố, giữ gìn và phát huy sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng và hành động của toàn Đảng bộ. Trong tình hình khó khăn chung và trong điều kiện của một quận nội thị còn nhiều khó khăn, để tổ chức thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị, đòi hỏi mỗi thành viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ, nhất là Thường trực Quận uỷ, phải luôn giữ gìn sự đoàn kết thống nhất, thể hiện là trung tâm đoàn kết thống nhất của toàn Đảng bộ. Đoàn kết phải gắn với việc nghiên cứu quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội, các chỉ đạo của Trung ương, Thành uỷ; giữ gìn các nguyên tắc lãnh đạo, phát huy dân chủ trong Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền với nhân dân.
2/ Trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội, không ngừng phát huy tính năng động, sáng tạo của Ban chấp hành Đảng bộ, của mỗi tổ chức và cá nhân là yếu tố mang tính quyết định. Trong từng thời gian, trên cơ sở quán triệt chủ trương của Đảng cấp trên và yêu cầu của tình hình, mỗi tổ chức và mỗi cán bộ, đảng viên phải chủ động cụ thể hoá các chủ trương bằng các giải pháp phù hợp, khả thi để tập trung giải quyết. Khi đã có chủ trương, giải pháp đúng, phải tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, sâu rộng từ trong nội bộ cán bộ đảng viên cho đến các tầng lớp nhân dân để toàn xã hội cùng đồng thuận và nỗ lực thực hiện. Trong quá trình tổ chức thực hiện, phải phân công, phân nhiệm cụ thể; lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, có trọng tâm, trọng điểm gắn với việc tiến hành công tác chính trị tư tưởng và củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy; thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, giải pháp đề ra nhằm vừa giúp lãnh đạo nâng cao trách nhiệm, bám sát địa bàn, sát dân hơn, vừa kịp thời đề xuất giải quyết các vướng mắc, khó khăn từ thực tiễn.
3/ Công tác vận động nhân dân có vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Phải thường xuyên tiến hành công tác tuyên truyền vận động, đối thoại với nhân dân một cách sâu sát nhằm tăng cường tính thuyết phục, tạo được sự đồng thuận của nhân dân trong thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Thời gian qua, Đảng bộ chúng ta đã thực hiện có kết quả công tác vận động nhân dân trên nhiều lĩnh vực, như: bồi thường giải phóng mặt bằng các công trình trọng điểm, hiến đất làm đường mở rộng hẻm, di dời và chỉnh trang khu dân cư rạch Ụ Cây, tấn công tội phạm,...
4/ Để đẩy nhanh tiến trình đô thị hoá, tăng tốc vì sự nghiệp phát triển theo hướng văn minh – hiện đại, ngoài sự nỗ lực chủ quan của các ngành, các cấp trong việc huy động và phát huy tốt các nguồn lực của xã hội, của các tầng lớp nhân dân, sự tiếp sức, hỗ trợ của Thành phố luôn là nhân tố đảm bảo điều kiện cần thiết cho sự nghiệp phát triển của địa phương. Để tranh thủ tốt sự tiếp sức, hỗ trợ của Thành phố, cần coi trọng và quan tâm xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa lãnh đạo quận với lãnh đạo Thành phố, giữa các ngành chức năng với các sở, ngành Thành phố; chuẩn bị tốt các phương án, chương trình, dự án phục vụ sự nghiệp phát triển.
5/ Công tác cán bộ là yếu tố quyết định. Đội ngũ cán bộ phải được thường xuyên đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đáp ứng yêu cầu phát triển của quận. Việc bố trí, sử dụng cán bộ phải chú trọng việc đánh giá cán bộ trong hiệu quả công việc, phẩm chất đạo đức và xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ để bố trí. Việc luân chuyển cán bộ cần được tiến hành chặt chẽ, thường xuyên ở từng đơn vị và mở rộng luân chuyển giữa các ngành chuyên môn và ở các đơn vị để phát huy năng lực của cán bộ.
Phần thứ hai
TIẾP TỤC ĐẨY NHANH SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN QUẬN 8 THEO HƯỚNG ĐÔ THỊ HOÁ, VĂN MINH, HIỆN ĐẠI;CỦNG CỐ,KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ ĐỦ SỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦUCỦA TÌNH HÌNH MỚI TRONG GIAI ĐOẠN 2010 – 2015
Năm năm tới là thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của địa phương theo hướng đô thị hoá, văn minh, hiện đại, trong bối cảnh có những thuận lợi, như: Kinh tế toàn cầu dần hồi phục và phát triển ổn định, tạo điều kiện cho sự nghiệp phát triển của nước ta ngày càng mạnh hơn; sự ổn định chính trị được giữ vững, quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại của đất nước tiếp tục phát triển; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiếp tục được đẩy mạnh vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020; nhiều công trình xây dựng của Thành phố sẽ hoàn thành và phát huy hiệu quả, như: đại lộ Đông Tây, cải thiện môi trường nước, Trung tâm thương mại Bình Điền giai đoạn 2, cảngPhú Định, các tuyến đường kết nối với thành phố đã hình thành,... Song, đan xen với những thuận lợi trên là các khó khăn, thách thức phải nỗ lực khắc phục, vượt qua, đó là: Tăng trưởng kinh tế chưa đảm bảo tính bền vững; kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém và chưa đồng bộ; nhiều vấn đề xã hội bức xúc tiếp tục đặt ra, nhất là về tăng dân số cơ học; xoá đói giảm nghèo – nâng chất lượng sống của người dân; chất lượng giáo dục, sức khoẻ; yêu cầu di dời, tái định cư các hộ dân gắn với tiến trình đô thị hoá và chỉnh trang đô thị; ô nhiễm môi trường; tội phạm và tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, mức độ và tính chất nguy hiểm hơn;...
Tình hình đó, đòi hỏi Đảng bộ phải đoàn kết thống nhất, tập trung trí tuệ, năng động sáng tạo, ý chí quyết tâm cao và có những giải pháp đột phá nhằm chung sức tăng tốc vì sự nghiệp phát triển của địa phương.
A.- PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU CHỦ YẾU VÀ CÔNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM:
I.- MỤC TIÊU TỔNG QUÁT:
Năm năm tới, Đảng bộ và nhân dân quận 8 sẽ tập trung tiếp tục phát huy và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế quận phát triển theo hướng dịch vụ, thương mại – công nghiệp sạch trên cơ sở tiếp tục đầu tư cải thiện và hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng giao thông, xây dựng các tuyến đường trục kết nối với các quận trung tâm Thành phố; phát huy lợi thế hệ thống kênh rạch, khôi phục và phát triển truyền thống kinh tế “trên bến dưới thuyền” mang tính hiện đại gắn với việc quy hoạch và chỉnh trang đô thị dọc tuyến Kênh Đôi, Kênh Tàu Hũ nhằm từng bước xây dựng Quận 8 trở thành quận trung tâm thương mại – dịch vụ – du lịch của Thành phố, cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết cơ bản nhà trên kênh rạch, cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội, xây dựng mỹ quan đô thị.
II.- PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU CHUNG:
1- Tiếp tục đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng dịch vụ, thương mại – công nghiệp sạch gắn với tiến trình đô thị hoá. Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển. Tiếp tục ưu tiên đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế – xã hội; gắn phát triển kinh tế với quốc phòng – an ninh, tiến bộ và an sinh xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường, huy động tốt mọi nguồn lực nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững.
2- Thực hiện tốt công tác chăm lo đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện chương trình “giảm nghèo, tăng hộ khá”, kịp thời ngăn chặn tình trạng tái nghèo. Tập trung nâng chất lượng sự nghiệp giáo dục – đào tạo một cách toàn diện, xác định đầu tư giáo dục là cơ sở, là nền tảng của sự phát triển quận; đầu tư đưa văn hoá phát triển kịp với tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, văn minh đô thị, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” rộng khắp từ khu phố, tổ dân phố. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cải thiện môi trường sống, phòng chống dịch bệnh.
3- Giữ vững ổn định chính trị, làm chuyển biến tình hình trật tự an toàn xã hội; củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc, phục vụ tốt sự nghiệp phát triển của địa phương.
4- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng. Bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vào sự nghiệp phát triển và gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đẩy mạnh, nâng chất lượng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.
5- Tập trung xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới.Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tổ chức đảng và đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật.
III.- CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU:
1- Phấn đấu đạt tốc độ tăng về tổng doanh thu dịch vụ, thương mại bình quân từ 30 – 40%/năm.
2- Phấn đấu tốc độ tăng của giá trị sản xuất công nghiệp bình quân từ 10 - 15%/năm.
3- Hàng năm, đảm bảo tổ chức thu ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu pháp lệnh được giao từ 10% trở lên.
4- Đến 2015, cơ bản trên địa bàn không còn hộ nghèo (dưới 12 triệu đồng/người/năm)
5- Giới thiệu và giải quyết việc làm hàng năm từ 8.000 lao động, trong đó, số lao động thất nghiệp có việc làm là 2.300 người.
6- Đến 2015, có từ 75% giáo viên mầm non, 100% giáo viên tiểu học đạt trình độ cao đẳng và 85 – 90% giáo viên trung học cơ sở đạt trình độ đại học trở lên.
7- Đến 2015, huy động từ 75% trở lên trẻ từ 3 – 5 tuổi vào mẫu giáo.
8- Đến năm 2015, có 55 – 60 khu phố đạt chuẩn khu phố văn hoá; 2 – 3 phường đạt chuẩn phường văn hoá; 1 – 2 chợ đạt chuẩn chợ văn minh thương nghiệp.
9- Số người tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 25% tổng số dân trở lên.
10- Duy trì tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1%.
11- Hàng năm, phấn đấu kéo giảm từ 10% số vụ phạm pháp hình sự.
12- Phấn đấu tỷ lệ khám phá án từ 65% trở lên.
13- Hàng năm, xây dựng từ 65% trở lên cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh.
14- Trong nhiệm kỳ, phấn đấu kết nạp từ 650 đảng viên mới trở lên.
15- Đến năm 2015, xây dựng từ 85% ban công tác mặt trận khu phố vững mạnh.
16- Đến năm 2015, tập hợp từ 50% lực lượng thanh niên trong diện quản lý trở lên; trong đó, có 25% là đoàn viên.
17- Đến năm 2015, tập hợp từ 63% trở lên phụ nữ trong độ tuổi tham gia tổ chức Hội.
18- Đến năm 2015, tập hợp vào tổ chức công đoàn từ 80% lực lượng công nhân- lao động ngoài nhà nước, 95% lực lượng lao động trong nhà nước.
19- Đến năm 2015, tập hợp từ 95% lực lượng cựu chiến binh vào tổ chức, xây dựng từ 95% trở lên cơ sở hội vững mạnh.
IV.- CÁC CÔNG TRÌNH, CHƯƠNG TRÌNH TRỌNG ĐIỂM:
Trên cơ sở phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu trên, Đảng bộ xác định các công trình, chương trình trọng điểm cần tập trung lãnh đạo hoàn thành từ nay đến năm 2015, như sau:
1- Trên lĩnh vực kinh tế xã – hội:
* Tập trung đẩy mạnh thực hiện chương trình chỉnh trang đô thị trên địa bàn, trong đó, phấn đấu hoàn thành cơ bản dự án trung tâm dịch vụ thương mại và dân cư rạch Ụ Cây; dự án bờ Đông rạch Xóm Củi; dự án công viên văn hoá – du lịch Đồng Diều; dự án chỉnh trang đô thị bờ bắc và bờ nam Kênh Đôi.
* Về hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội:
- Phấn đấu đầu tư xây dựng hoàn chỉnh tuyến đường trục Tạ Quang Bửu, nâng cấp đường Phạm Thế Hiển;
- Thực hiện và quản lý tốt quy hoạch, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng quỹ nhà tái định cư với 15.000 căn hộ phục vụ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các dự án trên địa bàn quận và chương trình chỉnh trang đô thị;
- Cải tạo, nâng cấp các chung cư cũ xuống cấp: chung cư Phạm Thế Hiển (phường 4), chung cư Đinh Hoà (phường 11), chung cư Bình Đông (phường 13), chung cư Bình Đăng (phường 6);
- Xây dựng trụ sở các phường: 1, 3, 6, 7, 8, 11, 13, 14, 15.
* Về văn hoá – xã hội:
- Hoàn thành sớm việc tách cấp trường phổ thông cơ sở Hưng Phú A; xây dựng trường Nguyễn Thị Định giai đoạn 2;
- Hoàn thành việc đầu tư nâng cấp Bệnh viện, Trung tâm Y tế dự phòng; phòng chống lao, xây dựng hệ thống trạm y tế phường;
- Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới 19 trường học đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo.
2- Về xây dựng hệ thống chính trị:
* Xây dựng chương trình hành động về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ ChíMinh”.
* Xây dựng chương trình hành động về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước.
* Xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ công chức giai đoạn 2010 – 2020 nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
* Xây dựng kế hoạch về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện dân chủ cơ sở, củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp phát triển của địa phương.
* Đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 12-CT/QU của Quận uỷ nhằm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, hiệu quả hoạt động cao.
B.- CÁC NHIỆM VỤ CHỦ YẾU:
I.- VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ:
1-Tập trung chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế quận theo hướng dịch vụ, thương mại – công nghiệp sạch:
Phát triển dịch vụ, thương mại phải gắn liền với quản lý và thực hiện tốt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung, quy hoạch mạng lưới chợ - siêu thị - trung tâm thương mại được duyệt. Gắn phát triển dịch vụ, thương mại với phát triển sản xuất nhằm hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Chú trọng khuyến khích, hỗ trợ phát triển các hoạt động dịch vụ công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh: tư vấn kinh doanh, tư vấn pháp luật, dịch vụ xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực, dịch vụ xuất khẩu, dịch vụ tài chính – tín dụng – ngân hàng – bảo hiểm, vận tải công cộng, triển lãm tại Trung tâm thương mại Bình Điền, cảng sông Phú Định. Hình thành các trung tâm thương mại, cao ốc, văn phòng cho thuê, dịch vụ cao cấp tại tuyến đường Tạ Quang Bửu, Phạm Hùng, Bến Bình Đông, quy hoạch phát triển kinh tế dịch vụ - du lịch ở tuyến đường dọc kênh Tàu Hũ, Kênh Đôi; các khu vực chuyên doanh ở phường 4, 5, 7, 16.
Tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động và phát triển loại hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã; khuyến khích thành lập mới các hợp tác xã thương mại, hợp tác xã dịch vụ trên địa bàn theo hướng chuyên ngành hoặc đa ngành, các tổ hợp tác, hợp tác xã dịch vụ cộng đồng ở các cụm dân cư.
Phát triển sản xuất công nghiệp trên cơ sở ưu tiên phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh, mũi nhọn, các ngành sản xuất sạch, không gây ô nhiễm môi trường, các ngành có ưu thế về xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: điện tử - tin học, cơ khí chính xác, chế biến thực phẩm, công nghệ sinh học, may mặc, công nghiệp phụ trợ,… Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị, quy trình công nghệ và quản trị doanh nghiệp, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo hướng áp dụng công nghệ cao, ưu tiên ứng dụng công nghệ nguồn, công nghệ hiện đại.
2- Đẩy nhanh tiến trình đô thị hoá địa bàn:
Tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật thiết yếu, ưu tiên đầu tư hệ thống hạ tầng giao thông theo từng cụm, từng khu vực để nâng cao hiệu quả đầu tư. Nâng cấp, mở rộng các trục giao thông hiện hữu, cầu đường huyết mạch kết nối với các quận, huyện lân cận. Chú trọng khai thác các nguồn lực đầu tư, tiến hành nâng cấp, mở rộng hệ thống giao thông hẻm, đường nội bộ trong các khu dân cư. Tiếp tục cải tạo, nâng cấp các chung cư cũ đã hư hỏng, xuống cấp chủ yếu từ nguồn vốn xã hội hoá qua việc kêu gọi đầu tư. Đồng thời, quan tâm đầu tư nâng cấp, mở rộng hoặc xây dựng mới cơ sở vật chất phục vụ sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá và trụ sở các phường theo kế hoạch và quy hoạch được duyệt. Đẩy mạnh tiến độ thực hiện chương trình chỉnh trang đô thị, di dời, tái định cư nhà trên và ven kênh rạch; tiếp tục nâng cấp, chỉnh trang đô thị các khu dân cư hiện hữu (mở rộng hẻm, thay đổi hiện trạng khu dân cư,…) nhằm góp phần xây dựng mỹ quan đô thị, nâng cao điều kiện sống cho nhân dân.
Tăng cường hiệu quả công tác quản lý và phát triển đô thị. Hoàn chỉnh, công bố và quản lý tốt đồ án quy hoạch chung 1/5000; quy hoạch 1/2000 tại 16 phường, phủ kín quy hoạch hẻm dưới 2m trên địa bàn quận. Xây dựng quy hoạch chi tiết 1/500 thiết kế đô thị khu vực trung tâm quận, các khu chỉnh trang và tái định cư trọng điểm, các tuyến cảnh quan chính dọc kênh Đôi, kênh Tàu Hũ; điều chỉnh và phủ kín quy hoạch hẻm trên địa bàn; quy hoạch mạng lưới cơ sở vật chất cho y tế, văn hoá, thể thao phù hợp với quy hoạch chung, từng bước triển khai quy hoạch chi tiết xây dựng ra thực địa. Tiếp tục tăng cường lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý quy hoạch, đất đai, xây dựng, vệ sinh môi trường; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp xây dựng vi phạm quy hoạch, xây dựng sai phép, không phép.
3- Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước; đảm bảo tốt chi ngân sách cho đầu tư phát triển:
Trên cơ sở đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã xác định, tập trung đầu tư đẩy nhanh tiến trình đô thị hoá, phấn đấu thực hiện tốt công tác thu ngân sách nhà nước đảm bảo yêu cầu nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, khai thác các nguồn thu mới. Nhiệm vụ chi ngân sách phải đảm bảo yêu cầu có tích luỹ đầu tư cho phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân gắn với tăng cường thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
II.- VỀ CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN VÀ CÁC MẶT VĂN HOÁ – XÃ HỘI:
1- Tiếp tục cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân:
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có công với nước, thương binh, gia đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam anh hùng và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng thu nhập gia đình chính sách vượt tiêu chí hộ nghèo, chăm lo đời sống cho công nhân – lao động. Quan tâm chăm lo người già yếu neo đơn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Tập trung thực hiện chương trình “giảm nghèo, tăng hộ khá” theo hướng toàn diện và bền vững gắn với tăng cường công tác hướng dẫn cách làm ăn, hỗ trợ đào tạo nghề tạo điều kiện vươn lên trong cuộc sống. Tổ chức thực hiện và nâng cao hiệu quả các hoạt động thông tin, giới thiệu và giải quyết việc làm trong các đơn vị kinh tế trên địa bàn; phấn đấu giải quyết 100% hộ dân có nước sạch sinh hoạt.
2- Làm chuyển biến rõ rệt chất lượng sự nghiệp giáo dục – đào tạo phục vụ sự nghiệp phát triển địa phương:
Tập trung xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng bền vững, xác định đầu tư phát triển giáo dục là đầu tư nguồn nhân lực cho sự phát triển trước mắt và lâu dài của quận. Do đó, cần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; coi trọng giáo dục kỹ năng sống, nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối sống. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm và mô hình giáo dục tiên tiến. Đẩy mạnh đào tạo nghề, phát triển và đa dạng hoạt động giáo dục thường xuyên. Duy trì, củng cố kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục;phấn đấu tỷ lệ phổ cập bậc trung học đạt từ 83%; 84,6% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; 80 - 85% học sinh lớp 9 được vào học lớp 10 công lập, 15 - 20% học tại các trung tâm giáo dục thường xuyên kết hợp học nghề, kỹ thuật nghiệp vụ, trung học chuyên nghiệp.
Tăng cường công tác quản lý của ngành giáo dục, thực hiện tốt các cuộc vận động: “Nói không với bệnh thành tích trong giáo dục và tiêu cực trong thi cử”, “Dân chủ – kỷ cương – tình thương – trách nhiệm”, “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”; thường xuyên rà soát và nâng chuẩn của đội ngũ giáo viên.
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá và tập trung đầu tư nâng cấp, xây dựng mới cơ sở vật chất giáo dục. Phấn đấu đến 2015, 100% trẻ 5 tuổi được học 01 năm mẫu giáo chuẩn bị vào lớp 1; hiệu suất đào tạo tiểu học từ 99%, trung học cơ sở từ 90% trở lên.
3- Tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với thực hiện nếp sống văn minh và mỹ quan đô thị:
Đẩy mạnh thực hiện Kết luận hội nghị Trung ương 10 (khoá IX) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội theo Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị, nếp sống văn minh và mỹ quan đô thị, Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2010-2020, phát huy các mô hình gia đình văn hoá, gia đình hạnh phúc, gia đình thể thao. Quan tâm đầu tư quy hoạch, xây dựng các thiết chế văn hoá, nâng cao chất lượng hoạt động các trung tâm văn hoá thể thao phường, đầu tư xây dựng Trung tâm văn hoá, cải tạo, nâng cấp Trung tâm Thể dục thể thao quận; đa dạng các hoạt động văn hoá thông tin, các loại hình vui chơi giải trí lành mạnh, tăng nguồn lực và cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển văn hoá – thể thao, nhằm nâng cao mức hưởng thụ văn hoá – thể thao của nhân dân. Tăng cường quản lý nhà nước trong việc tổ chức quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống, tác dụng giáo dục của các di sản văn hoá trên địa bàn; kiên quyết bài trừ các sản phẩm độc hại, đẩy lùi tiêu cực, tệ nạn xã hội.
Phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng, giáo dục thể chất cho thanh thiếu niên, học sinh, đưa võ thuật vào chương trình chính khoá ở trường học; đầu tư đào tạo và nâng cao trình độ vận động viên năng khiếu và thành tích thi đấu, nhất là các môn có thế mạnh.
4- Tăng cường công tác dân số và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân:
Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông dân số và kế hoạch hoá gia đình, công tác y tế dự phòng, phòng chống các loại dịch bệnh như sốt xuất huyết, tay chân miệng và HIV/AIDS; kiểm soát tốt vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, ngăn chặn các điểm kinh doanh gia cầm sống, các chợ tự phát. Trên cơ sở đầu tư nâng cấp, xây dựng mới cơ sở vật chất và trang thiết bị cho ngành y tế, phấn đấu nâng cao chất lượng khám, điều trị bệnh cho nhân dân và diện chính sách, dân nghèo, nhất là từ tuyến cơ sở, nhằm giảm tải cho tuyến trên. Phấn đấu đến năm 2015, đạt tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới 3,5%. Nâng dần chất lượng dân số, chất lượng cung cấp dịch vụ sức khỏe sinh sản và kế hoạch hoá gia đình.
5-Tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên môi trường:
Tiến hành xây dựng quy hoạch, phương án, đề án, kế hoạch cải tạo, nạo vét hệ thống kênh rạch trên địa bàn, nhất là kênh Tàu Hũ, Kênh Đôi và các kênh rạch tiêu thoát nước. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra các khu vực sản xuất xen cài dân cư, kiên quyết không để tình trạng nước thải chưa qua xử lý tiêu thoát qua kênh rạch. Nâng cao ý thức tự giác, trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân bảo vệ môi trường; tích cực giải quyết các điểm ô nhiễm môi trường trên địa bàn; phát động trồng cây xanh ở khu dân cư và các khu công cộng.
III.- VỀ NHIỆM VỤ QUỐC PHÒNG – AN NINH VÀ HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP:
Tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh, xây dựng quận thành khu vực phòng thủ vững chắc trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng – an ninh, giữa quốc phòng – an ninh với phát triển kinh tế. Củng cố, xây dựng quận thành khu vực phòng thủ vững chắc bảo vệ Thành phố, bảo vệ Tổ quốc. Kịp thời rà soát, bổ sung, điều chỉnh các kế hoạch, phương án phòng thủ, phòng chống biểu tình bạo loạn, lật đổ sát hợp với yêu cầu của tình hình mới.
Đảm bảo giữ vững sự ổn định an ninh chính trị trên địa bàn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Thường xuyên tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức quốc phòng – an ninh nhằm củng cố, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; tăng cường xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc; kịp thời nắm chắc diễn biến tình hình và đối tượng để chủ động đấu tranh có hiệu quả các hoạt động “diễn biến hoà bình”, biểu tình, bạo loạn lật đổ, tập trung đấu tranh có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh văn hoá tư tưởng và an ninh nội bộ, đấu tranh mạnh mẽ với những luận điệu xuyên tạc, kích động và bọn cơ hội chính trị. Tập trung đấu tranh với tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, buôn lậu, gian lận thương mại, mua bán phụ nữ và trẻ em...
Củng cố và phát huy hiệu quả phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, các hoạt động liên tịch, hiệp đồng tác chiến trị an giữa lực lượng công an, quân sự phối hợp chặt chẽ với Mặt trận, các đoàn thể trong công tác giữ gìn an ninh trật tự, tập trung đấu tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, nhất là tội phạm ma tuý, hình sự. Tập trung mọi biện pháp nhằm thực hiện có kết quả chương trình mục tiêu 3 giảm, nỗ lực hạn chế và kéo giảm các loại tội phạm, tệ nạn xã hội. Phấn đấu chuyển hoá dứt điểm số tụ điểm phức tạp về ma tuý, không để phát sinh mới; kéogiảm từ 8% số tai nạn giao thông trên cả 3 mặt (số vụ, số người chết, số người bị thương).
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng; xây dựng lực lượng vũ trang có phẩm chất chính trị vững vàng, khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, nhất là đảm bảo độ tin cậy đối với lực lượng dân quân, bảo vệ dân phố. Xây dựng lực lượng công an – quân sự luôn thực sự trong sạch vững mạnh, chính quy và từng bước hiện đại. Dành một phần ngân sách đầu tư bổ sung, hoàn thiện trang bị kỹ thuật cho lực lượng công an – quân sự nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu nghiệp vụ chuyên môn hoặc khi có tình huống xảy ra.
Đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49–NQ/TW của Bộ Chính trị. Đảm bảo tính kịp thời, nghiêm minh trong công tác điều tra, truy tố, xét xử; không để oan sai, sót lọt tội phạm. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự gắn với triển khai tổ chức hoạt động thừa phát lại; giải quyết nhanh các việc có điều kiện thi hành, cố gắng giải quyết dứt điểm án tồn chưa thi hành trong thời gian tới. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật sâu rộng, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, giữ gìn kỷ cương pháp luật trong các mặt của đời sống xã hội. Thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
IV.- VỀ CỦNG CỐ, KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:
1/ Không ngừng củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của tình hình mới:
Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chính trị tư tưởng trong toàn Đảng bộ nhằm nâng cao nhận thức của các cấp uỷ về vai trò của công tác tư tưởng; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng trên cơ sở đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quán triệt, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng; đấu tranh bảo vệ lý tưởng của Đảng; cổ vũ, động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến; củng cố và phát triển thế giới quan, nhân sinh quan khoa học nhằm tạo sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tiếp nhận có chọn lọc các luồng tư tưởng – văn hoá từ bên ngoài. Giữ gìn và phát huy sự thống nhất về tư tưởng trong toàn Đảng bộ trên cơ sở thường xuyên tiến hành công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nâng cao nhận thức, lập trường giai cấp, trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn, xây dựng phẩm chất đạo đức, nếp sống lành mạnh, nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Duy trì và chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thông tin thời sự; nắm, xử lý và điều chỉnh dư luận xã hội một cách kịp thời, hiệu quả, góp phần tạo sự nhất trí cao của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân trong quá trình thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước..
Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm tạo sự lan toả sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về “nỗ lực làm theo” tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người. Cấp uỷ cơ sở cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có kết quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; chú trọng việc xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu nêu gương cụ thể của mỗi cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và định kỳ có kiểm tra, đánh giá việc thực hiện. Kịp thời phát hiện và nhân rộng các nhân tố mới, điển hình tiêu biểu của các tập thể, của cán bộ, đảng viên, của các tầng lớp nhân dân về thực hiện Cuộc vận động.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận đảm bảo yêu cầu trẻ hoá, thực sự có trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn. Định kỳ, cần tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cán bộ cho phù hợp với tình hình thực tiễn, sự nỗ lực phấn đấu, trình độ năng lực của cán bộ và yêu cầu chỉ đạo của Đảng cấp trên. Đổi mới công tác đánh giá và sử dụng, bố trí cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, hiệu quả công tác, sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên quyết khắc phục tình trạng nể nang, ngại đụng chạm, coi trọng thành tích. Thực hiện nền nếp công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý để tạo môi trường cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Kiên quyết thay đổi những cán bộ lãnh đạo ở những nơi trì trệ, phong trào kém, mất đoàn kết, tín nhiệm thấp. Thực hiện tốt việc tuyển dụng cán bộ phải đảm bảo đúng tiêu chuẩn theo chức danh, nhiệm vụ quy định và phù hợp ngành, nghề đào tạo.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải theo yêu cầu chuẩn hoá, nhất là cán bộ cơ sở, cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về những kiến thức mới, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành, phương pháp công tác, văn hoá ứng xử,... Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ đương chức, cán bộ đã nghỉ hưu, cán bộ lão thành cách mạng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng và sự phát triển của địa phương.
Tiếp tục tăng cường chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 11 của Thành uỷ về phát triển tổ chức đảng, đoàn thể, đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp tư nhân trên cơ sở củng cố, nâng chất lượng hoạt động của ban chỉ đạo, tổ giúp việc quận, phường.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác kết nạp đảng viên. Mỗi tổ chức cơ sở đảng phải làm tốt công tác tạo nguồn, tạo môi trường thử thách, giáo dục nhằm kết nạp đảng viên có chất lượng, gắn với yêu cầu nhiệm vụ, quy hoạch cán bộ, cơ cấu hợp lý, nhất là lực lượng dân quân, dự bị động viên, trường học, khu phố, tổ dân phố, công nhân lao động ngoài nhà nước. Thực hiện nghiêm Quy định 57-QĐ/TW, các chỉ đạo của Thành uỷ và sự phân cấp quản lý về công tác bảo vệ chính trị nội bộ phục vụ yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng của đội ngũ cán bộ đảng viên, công tác cán bộ, công tác kết nạp đảng viên.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng tạo bước chuyển mạnh trong nhận thức và trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp uỷ vận hành đồng bộ từ quận đến cơ sở, đồng thời phát huy vai trò của uỷ ban kiểm tra nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật Đảng; thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát “mở rộng giám sát, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm’; tập trung kiểm tra, giám sát các nội dung, lĩnh vực: tư tưởng chính trị, chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thực hiện cải cách thủ tục hành chính liên quan đến giải quyết công việc của tổ chức và công dân; thực hiện cải cách tư pháp; công tác tổ chức và cán bộ; giải quyết khiếu nại tố cáo của đảng viên và công dân; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; người đứng đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy uỷ ban kiểm tra và thực hiện tốt các quy chế giữa uỷ ban kiểm tra với các tổ chức đảng có liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng.
2- Củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền vững mạnh:
Thường xuyên tiến hành củng cố, xây dựng bộ máy chính quyền quận, phường trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả cao trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy tổ chức, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục rà soát các quy trình, thủ tục hành chính, nhất là lĩnh vực đất đai, xây dựng, các loại lệ phí để kịp thời đề xuất điều chỉnh, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, giảm phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; mở rộng mô hình “một cửa liên thông”, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cho công dân và doanh nghiệp. Sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp theo quy định của Chính phủ và Ủy ban nhân dân Thành phố. Tiếp tục thực hiện có kết quả chủ trương thí điểm bí thư đảng uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân phường. Thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, điều động, luân chuyển cán bộ, tăng cường cán bộ cho cơ sở; công tác công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước; quy hoạch và chuẩn hoá đội ngũ cán bộ công chức. Thực hiện đúng các quy định, quy chế về tuyển dụng, phân cấp quản lý cán bộ, công chức. Nâng cao ý thức trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong phòng chống tham nhũng, lãng phí; tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức. Chú trọng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước và kiểm tra, giám sát của nhân dân; thực hiện tốt chế độ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo luật định.
Kết hợp chặt chẽ việc củng cố, xây dựng bộ máy chính quyền với đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; cải cách hoạt động của các ngành tư pháp; tăng cường công tác giáo dục, xây dựng ý thức “sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, giữ gìn kỷ cương pháp luật trong các mặt hoạt động của đời sống xã hội.
3- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp phát triển của địa phương:
Tăng cường xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở: Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, nâng cao vai trò, vị trí của Mặt trận và các đoàn thể trong việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; Mặt trận, các đoàn thể phối hợp với các cơ quan nhà nước hướng hoạt động nhiều hơn về cơ sở, đến từng tổ dân phố, từng hộ dân; đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất và sự đồng thuận xã hội; phát động sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt các cuộc vận động, chương trình xã hội, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”;cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; chương trình “giảm nghèo, tăng hộ khá”, cuộc vận động “Vì người nghèo”.
Quán triệt và thực hiện tốt quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách nhất quán của Nhà nước về công tác dân tộc, công tác tôn giáo. Quản lý, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo, dân tộc hoạt động theo đúng quy định của pháp luật; kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng hoạt động của tôn giáo, dân tộc để gây kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tôn giáo, gây thương hại đến an ninh - trật tự của địa phương. Quan tâm giải quyết các nhu cầu chính đáng của đồng bào dân tộc Hoa, Chăm về phát triển sản xuất kinh doanh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc,… Vận động kiều bào và gia đình có thân nhân ở nước ngoài tham gia đóng góp trí tuệ, vốn, kinh nghiệm vào sự nghiệp phát triển của đất nước, của địa phương.
Các cấp uỷ cần chú trọng phát huy dân chủ, có biện pháp động viên sức sáng tạo của nhân dân vào việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xem đây là động lực quan trọng góp phần nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở; có chương trình công tác vận động nhân dân; phân công và kiểm tra cán bộ, đảng viên làm công tác vận động nhân dân, tham gia công tác xã hội ở nơi cư trú.
Phần thứ ba
CÁC NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
I.- CÁC NHÓM GIẢI PHÁP TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ:
1/ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực kinh tế, tăng cường kiểm soát thị trường, việc chấp hành pháp luật trong sản xuất kinh doanh, xử lý nghiêm minh, kịp thời việc sản xuất, mua bán hàng gian, hàng giả, đầu cơ nâng giá gây bất ổn trong nhân dân. Củng cố, nâng chất lượng và tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Doanh nghiệp hoạt động và phát triển, giúp các doanh nghiệp trao đổi kinh nghiệm, liên kết hợp tác tìm thị trường xuất khẩu.
2/ Tăng cường, nâng cao chất lượng công tác tổng hợp thông tin, dự báo kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp xúc tiến đầu tư, thực hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ về áp dụng ISO, hiện đại hoá với chi phí thấp. Tạo điều kiện thuận lợi, có biện pháp thúc đẩy kêu gọi đầu tư. Thường xuyên tổ chức tiếp xúc, đối thoại giữa lãnh đạo quận và doanh nghiệp để nắm chắc tình hình, kịp thời hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, giải quyết kiến nghị cho doanh nghiệp. Ngoài Trung tâm thương mại Bình Điền, nỗ lực đầu tư xây dựng cảng Phú Định tạo thành điểm nhấn đột phá trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại trên địa bàn.
3/ Tập trung củng cố, nâng cấp các chợ truyền thống; phát huy các trung tâm thương mại để phát triển dịch vụ – thương mại tạo nguồn thu cho ngân sách; tác động đẩy nhanh tiến độ xây dựng Trung tâm thương mại Bình Điền giai đoạn II; khuyến khích phát triển các hoạt động thương mại, dịch vụở các tuyến đường trục; xây dựng chợ đầu mối nông thuỷ sản; phát huy lợi thế tuyến Kênh Đôi, kênh Tàu Hũ nhằm xây dựng quận 8 trở thành một trong những trung tâm dịch vụ hoa kiểng Tết của thành phố.
4/ Điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng lập, quản lý và thực hiện quy hoạch. Thực hiện tốt phân cấp của thành phố về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tăng cường quản lý chất lượng, khai thác sử dụng các công trình hạ tầng đô thị. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra giám sát đầu tư và xây dựng; xây dựng cơ chế phát triển hạ tầng đô thị bằng nhiều nguồn vốn, theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện thu hút sự tham gia của nhà đầu tư và doanh nghiệp ngoài nhà nước.
5/ Tăng cường các biện pháp quản lý thu ngân sách, chú trọng khai thác mọi nguồn thu, năng lực sản xuất tăng thêm, đồng thời nuôi dưỡng nguồn thu, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển; chủ động giảm tỷ lệ thuế nợ đọng, chống thất thu thuế,... nhằm phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán được giao hàng năm. Nâng cao chất lượng công tác lập dự toán và chấp hành ngân sách, đảm bảo tính cân đối tích cực trong quản lý điều hành ngân sách. Thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên chặt chẽ hơn, bố trí sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách. Điều hành chi ngân sách theo dự toán, sử dụng dự phòng ngân sách đúng quy định.
6/ Tiếp tục thực hiện có kết quả Đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, thương mại – công nghiệp; quy hoạch phát triển mạng lưới chợ – siêu thị – trung tâm thương mại; Chương trình hành động 28-CTr/QU ngày 14/4/2009 về thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
7/ Tiếp tục thực hiện việc chuyển đổi khu công nghiệp Bình Đăng sang mục đích đầu tư trở thành Trung tâm thương mại dịch vụ, văn phòng cho thuê và dân cư.
8/ Có biện pháp, cơ chế thực hiện nhằm huy động tốt các nguồn lực xã hội; thực hiện có kết quả phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” trong chỉnh trang đô thị, nâng cấp hạ tầng giao thông. Khảo sát, đề xuất cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới hệ thống cầu nhằm tạo sự kết nối giao thông của quận với các nơi khác. Ưu tiên đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật khu vực phường 4, 5 trở thành trung tâm của quận để thu hút đầu tư.
9/ Tiếp tục rà soát các kho bãi, các khu đất trên địa bàn để kiến nghị cấp trên ưu tiên dành quỹ đất phục vụ nhu cầu tái định cư trong thực hiện đô thị hoá.
10/ Nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích hình thành, phát triển các tuyến phố chuyên doanh, các trung tâm phân phối hàng hoá tại phường 6, 7; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
11/ Tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa lãnh đạo quận với Thành uỷ, Uỷ ban Thành phố, giữa các ngành chức năng quận với các sở, ngành Thành phố nhằm tranh thủ có hiệu quả sự hỗ trợ, tiếp sức của thành phố trong quá trình phát triển. Đồng thời, chủ động nghiên cứu đề xuất các phương án, chủ trương, giải pháp phù hợp với đặc điểm địa bàn quận.
II.- CÁC NHÓM GIẢI PHÁP TRÊN LĨNH VỰC CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN VÀ CÁC MẶT VĂN HOÁ -XÃ HỘI:
1/ Thực hiện đồng bộ các phong trào, chương trình xã hội, các cuộc vận động (giảm nghèo, tăng hộ khá; vì người nghèo; đền ơn đáp nghĩa;...) nhằm góp phần chăm lo và cải thiện đời sống của nhân dân.
2/ Sơ kết và bổ sung, tiếp tục thực hiện Kết luận hội nghị Trung ương 10 (khoá IX) về “tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết 27-NQ/QU ngày 16 tháng 12 năm 2008 về tăng cường lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng phường văn hoá.
3/ Tiếp tục thực hiện có kết quả Thông báo kết luận 242-TB/TW và Chỉ thị 03-CT/TU, chương trình hành động của Quận uỷ về nâng cao chất lượng công tác giáo dục; Nghị quyết 40/2000/QH10 về đổi mới nội dung chương trình, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; Đề án nâng cao chất lượng giáo dục; đề án phân luồng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh và phát huy hiệu quả sự phối hợp ba môi trường (nhà trường, gia đình, xã hội) nhằm ngăn chặn tình trạng bạo lực trong học đường.
4/ Ưu tiên nguồn kinh phí từ ngân sách và chú trọng đẩy mạnh xã hội hoá nhằm huy động tốt các nguồn lực đầu tư thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở vật chất, đa dạng hoá các mặt hoạt động giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao.
5/ Tăng cường công tác giáo dục các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên môi trường nhằm nâng cao ý thức và động viên sự tham gia của nhân dân trong việc bảo vệ tài nguyên môi trường. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ về bảo vệ tài nguyên môi trường, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh, kiên quyết các trường hợp vi phạm đến việc lấn chiếm kênh rạch, gây ô nhiễm tài nguyên môi trường.
6/ Nghiên cứu dành quỹ đất xây dựng trạm trung chuyển rác, đầu tư thực hiện việc ép rác kín nhằm giảm thiểu tối đa việc ô nhiễm môi trường trong khu dân cư.
III.- CÁC NHÓM GIẢI PHÁP TRÊN LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG – AN NINH:
1/ Thực hiện vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng đối với lực lượng vũ trang theo cơ chế lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền trong công tác củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân.
2/ Đẩy mạnh thực hiện chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới; xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ quốc phòng – an ninh, hàng năm có rà soát, kiểm tra, bổ sung các phương án an ninh, phương án phòng thủ khu vực nhằm giữ vững ổn định an ninh chính trị, giải quyết kịp thời khi có tình huống phức tạp xảy ra, không để bị động bất ngờ. Tăng cường các chương trình, kế hoạch phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; phát huy hiệu quả các hoạt động liên tịch, hiệp đồng tác chiến trị an, sự phối hợp các lực lượng dân phòng, dân quân, bảo vệ dân phố trong giữ gìn an ninh trật tự tại địa bàn dân cư.
3/ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu 3 giảm, tập trung cuộc đấu tranh phòng, chống ma tuý bằng nhiều biện pháp tích cực kết hợp giữa ”xây” và “chống”. Chuyển hoá các địa bàn trọng điểm, xây dựng các chuyên án triệt phá các đường dây mua bán ma tuý. Tăng cường công tác giáo dục thanh thiếu niên, xây dựng các điểm vui chơi giải trí lành mạnh, …
4/ Tăng cường công tác quản lý địa bàn, quản lý nhân hộ khẩu, các biện pháp phòng ngừa xã hội nhằm nắm chắc tình hình di biến động của đối tượng và kịp thời đấu tranh trấn áp, ngăn ngừa tội phạm.
5/ Củng cố và xây dựng lực lượng công an, an ninh cơ sở, bảo vệ dân phố, đủ sức đáp ứng yêu cầu của tình hình. Xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, có phẩm chất chính trị và năng lực chiến đấu cao.
6/ Tiếp tục tổ chức quán triệt, học tập các quan điểm, chủ trương về công tác cải cách tư pháp trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nâng cao chất lượng hoạt động và sự phối hợp hiệu quả của các ngành tư pháp trong tiến hành tố tụng nhằm thực hiện nghiêm minh các quy định của pháp luật, tránh oan sai; tăng cường công tác xét xử lưu động để tuyên truyền, phố biến, giáo dục pháp luật sâu rộng trong nhân dân, tạo tác dụng răn đe các hành vi vi phạm. Có biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Thi hành án dân sự, hạn chế thấp nhất số việc phải thi hành còn tồn đọng; tổ chức triển khai thực hiện thí điểm thừa phát lại.
7/ Tăng cường công tác giáo dục, phổ biến pháp luật, kiến thức quốc phòng – an ninh một cách sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân với các hình thức phong phú, thiết thực nhằm thực thi việc “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong việc đảm bảo nhiệm vụ quốc phòng – an ninh trong tình hình mới.
IV.- CÁC NHÓM GIẢI PHÁP TRÊN LĨNH VỰC XÂY DỰNG, KIỆN TOÀN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:
1/ Đẩy mạnh thực hiện các chỉ đạo của Đảng cấp trên và của Quận uỷ về công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt và cụ thể hoá thực hiện của nghị quyết, chủ trương của Đảng cấp trên mới ban hành; tổ chức nắm, xử lý và điều chỉnh dư luận xã hội, kịp thời nắm tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của cán bộ đảng viên và nhân dân để có hướng xử lý, giải quyết phù hợp. Định kỳ 6 tháng, tổ chức gặp gỡ với các cán bộ cao cấp, cán bộ chủ chốt của quận đã nghỉ hưu để trao đổi thông tin và động viên sự hiến kế về sự nghiệp phát triển quận. Định kỳ tổ chức giao ban giữa Thường trực Quận uỷ - Uỷ ban nhân dân – Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, đối thoại giữa Đảng, chính quyền với đại diện các tầng lớp nhân dân nhằm lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân.
2/ Tập trung thực hiện tốt công tác tổ chức – cán bộ. Tiếp tục thực hiện các chỉ đạo của Đảng cấp trên và của Quận uỷ về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở phường; về chiến lược cán bộ; công tác luân chuyển cán bộ; về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chấn chỉnh và nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ nhằm đảm bảo thực hiện việc đề bạt, bổ nhiệm và quy hoạch cán bộ đúng thực chất; triển khai thực hiệnkế hoạch đào tạo cán bộ giai đoạn 2010 – 2015 nhằm chuẩn hoá đội ngũ cán bộ của quận và cơ sở.
3/ Cấp uỷ các cấp phải thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, nhất là ở các lĩnh vực: tư tưởng chính trị, chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, về đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, về thực hiện cải cách thủ tục hành chính liên quan đến giải quyết công việc của tổ chức và cá nhân, về công tác tổ chức và cán bộ, về giải quyết khiếu nại tố cáo, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Kiểm tra, giám sát phải có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, nghiêm minh, có hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
4/ Sơ kết và tiếp tục thực hiện Chương trình hành động 22-CTr/QU ngày 19/12/2008 thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khoá X “về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước trên địa bàn” gắn với tăng cường ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành nhằm đảm bảo giảm thấp nhất thời gian và phiền hà của tổ chức và công dân.
5/ Thực hiện nghiêm chế độ thi tuyển cán bộ công chức, chế độ công vụ; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức theo hướng chuẩn hoá và theo chức danh. Tiến hành sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan chức năng cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới.
6/ Sơ kết và tiếp tục thực hiện Chương trình hành động 08-CTr/QU ngày 26/10/2006 thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện tốt Luật cán bộ công chức; Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật giải quyết khiếu nại, tố cáo;...
7/ Tiếp tục thực hiện các chỉ đạo của Trung ương, Thành phố về đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, về công tác tôn giáo trong tình hình mới về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
8/ Tập trung thực hiện tốt Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII), các nghị định của Chính phủ về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ và mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân. Gắn thực hiện quy chế dân chủ với việc phát triển kinh tế – xã hội; cải cách hành chính, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các phong trào thi đua yêu nước, phong trào “Dân vận khéo”; tăng cường đoàn kết đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống các luận điệu kích động, chia rẽ, gây mất ổn định chính trị, an ninh trật tự ngay trên từng địa bàn cơ sở.
9/ Tập trung tạo chuyển biến mạnh mẽ hiệu quả hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên trên địa bàn. Sơ kết và tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 27-CTr/QU ngày 14 tháng 4 năm 2009 thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW Hội nghị Trung ương 7 khoá X “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Cấp uỷ, chính quyền các cấp cần quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện cho hoạt động của Đoàn và phong trào thanh niên nhằm xây dựng Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh của quận và cơ sở thực sự vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, là nguồn cung cấp cán bộ trẻ có phẩm chất chính trị vững vàng, trình độ năng lực tốt cho Đảng, chính quyền.
10/ Bồi dưỡng, nâng cao hiệu quả hoạt động, chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận, các đoàn thể gắn với tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, chăm lo thiết thực quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên và nhân dân. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy Mặt trận, các đoàn thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
11/ Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên cơ sở mở rộng dân chủ trong Đảng, khơi dậy và phát huy được tính năng động, sáng tạo của cơ sở và đội ngũ đảng viên; tập trung trí tuệ của toàn Đảng bộ quận vào sự nghiệp phát triển địa phương; giảm hội họp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện và thường xuyên thực hiện chế độ đi cơ sở, làm việc với cơ sở; phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội.
*
**
Trong bối cảnh những thuận lợi đan xen cùng các khó khăn, thử thách, Đại hội đại biểu Đảng bộ quận lần thứ X (2010 – 2015) nhận thức sâu sắc trách nhiệm nặng nề trước yêu cầu phát triển quận theo hướng đô thị hoá, văn minh, hiện đại. Đại hội kêu gọi các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức, các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết và cách mạng, đồng tâm hiệp lực cùng với Ban Chấp hành Đảng bộ quận, ra sức khắc phục khó khăn, năng động sáng tạo, quyết tâm chung sức tăng tốc đưa Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận lần thứ X (2010 – 2015) đi vào cuộc sống một cách sinh động, thiết thực.