Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ nhất họp từ ngày 25/5 đến ngày 01/6/1977 đã thảo luận bản Báo cáo "Tình hình và nhiệm vụ" của Ban Chấp hành Đảng bộ Quận 6 do đ/c Bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ trình bày.
Đại hội nhất trí nhận định rằng, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, 2 năm quatoàn Đảng bộ và nhân dân Quận 6 phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết phấn đấu, nỗ lực vượt qua khó khăn thử thách, liên tục tấn công thu được những thành quả to lớn, toàn diện và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu, tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh cải tạo XHCN và xây dựng CNXH trong thời gain tới.
PHẦN THỨ NHẤT
KIỂM ĐIỂM TÌNH HÌNH SAU 2 NĂM GIẢI PHÓNG
I- ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG:
Quận 6 là một Quận có vị trí tiếp giáp vùng ven nông thôn, là cửa ngõ phía Tây của Thành phố. Có nền công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất đã một bước phát triển và đa dạng. Bên cạnh đó còn có cô chế thương mãi tư bản chủ nghĩa lớn tập trung ở chợ Bình Tây và 6 chợ khác, có hệ thống kho tàng và nhiều cơ sở sản xuất bán buôn, còn là đầu cầu đưa nền kinh tế miền Tây phong phú qua đây lên các tỉnh phía Bắc.
Quần chúng trong Quận đa số là công nhân lao động. Với 16.600 người có tay nghề, có kỹ thuật cao, cần cù thông minh lại có truyền thống đấu tranh cách mạng đã cùng với Đảng bộ chịu đựng gian khổ ác liệt suốt 2 thời kỳ chống Pháp và Mỹ. Hai năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, một cuộc thay đổi sâu sắc toàn diện và cơ bản đã diễn ra. Quần chúng lao động đã phấn khởi vùng lên nắm quyền làm chủ vượt qua những khó khăn thử thách xây dựng cuộc đời mới... Tất cả những vấn đề trên là những điều kiện thuận lợi và khả năng lớn.
Song chúng ta cũng có nhiều khó khăn phức tạp do hậu quả của chính sách xâm lược và chủ nghĩa thực dân mới để lại.
Trong Quận đất hẹp người đông với 250.000 người trong đó người Hoa chiếm 41% chen chúc nhau trên 7 Km2. Do địch càn quét ác liệt vùng ven và nông thôn đồng bào ta bỏ ruộng vườn chạy lên sống bám vào các kinh rạch sình lầy trong các ống cống, trong những khu ổ chuột tối tăm bệnh dịch nguy hiểm luôn xảy ra. Gần 10 vạn người thất nghiệp sống lây lất tạm bợ. Bên cạnh đó dịch để lại hàng ngàn gia đình sĩ quan, công chức, ngụy quân ngụy quyền trong các cư xá, sống dựa vào đồng lương,, trên 20.000 sĩ quan, binh sĩ rã tại chỗ. Bọn phản động lén lút hoạt động phao tin đồn nhảm gây hoang mang trong quần chúng.
Nền kinh tế của Quận vừa thoát ra từ chính sách thực dân kiểu mới. Tuy có một số cơ sở công nghiệp nhưng căn bản vẫn là các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, có trên 3000 hộ sản xuất nhỏ tản mạn nằm rải rác khắp nơi trong Quận. Quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa chiếm 74,4%, các cơ sở kinh tế nằm trong tay tư bản tư nhân. Trang thiết bị kỹ thuật nguyên vật liệu thuộc nước ngoài. Số người kinh doanh buôn bán quá lớn, chiếm 70.000 nhân khẩu, bằng 1/3 tổng số dân trong Quận, đa số là người Hoa. Nhiều vựa, nhiều chợ, trung tâm là chợ Bình Tây, tập trung đông đảo giai cấp tư sản thương nghiệp có nhiều mánh khóe xảo quyệt chống phá ta hàng ngày hàng giờ, chuyên đầu cơ tích trữ phá rối thị trường, buôn gian bán lận. Mặt khác những nọc độc của nền văn hóa nô dịch và những tệ nạn xã hội do chủ nghĩa thực dân mới gây ra vẫn đè nặng trong một bộ phận quần chúng. Ý thức lao động, ý thức giác ngộ XHCN chưa cao, họ còn mang nặng phong cách sinh hoạt cũ, ngán ngại đi vào nền kinh tế kế hoạch XHCN.
Về phần chủ quan của ta, là Đảng bộ từ đấu tranh giành chính quyền sang nắm chính quyền, cán bộ đảng viên còn non yếu chưa có kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý đời sống xã hội nên bở ngỡ, chuyển biến không kịp tình hình mới... Đó chính là những mặt cản ngại chúng ta cần nhanh chóng khắc phục trong bước đường đi lên XHCN.
II-NHỮNG MẶT ĐÃ LÀM ĐƯỢC, CHƯA LÀM ĐƯỢC VÀ NHỮNG CẢN NGẠI TỒN TẠI TRONG 2 NĂM QUA:
1- Thiết lập tăng cường hệ thống chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xóa bỏ giai cấp tư sản mại bản, ổn định căn bản tình hình an ninh chính trị - trật tự xã hội:
Ngay từ những ngày đầu giải phóng chúng ta nhanh chóng hình thành UBND Quận, 05 phường, 38 khóm và một số ban ngành cần thiết như an ninh, quân sự, thông tin văn hóa, kinh tài... Nhờ sớm hình thành bộ máy chính quyền, cho nên chúng ta đã chủ động được tình hình, đi nhanh vào phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân và trật tự xã hội. Trong quá trình củng cố chính quyền chúng ta dựa vào quần chúng, phát động quần chúng tố cáo vạch mặt bọn có tội ác, thông qua đó chúng ta đã thực hiện nhiều lần, thải loại 217 phần tử xấu, cơ hội, tay chân địch ra khỏi bộ máy chính quyền. Đến nay sau khi đã chấn chỉnh xong chính quyền còn 3 cấp, chúng ta đã có hệ thống chính quyền cơ sở gồm 20 phường, có 734 tổ dân phố và 18 phòng ban chung quanh Quận. Lực lượng công an vũ trang và quân sự ngày càng trưởng thành và lớn mạnh, có lực lượng nòng cốt như tổ dân phố, đội dân phòng lực lượng tự vệ rộng rải đang được củng cố phát triển số lượng, chất lượng. Đã làm tốt chức năng trấn áp bọn phản cách mạng. Truy bắt 1329 tên ngụy các loại trốn đăng ký trình diện, đập tan và ngăn chặn kịp thời 16 tổ chức nhen nhóm phản cách mạng, đã tổ chức cho 16.500 ngụy quân, ngụy quyền học tập tại chỗ cho 2317 tên. Thể hiện chính sách nhân đạo, ta đã giáo dục và khôi phục quyền công dân cho 9807 đối tượng. Ta còn khám phá kết luận 1997 vụ án và tập trung cải tạo hàng trăm tên tội phạm hình sự.
Do đó tình hình chính trị trật tự xã hội ngày càng ổn định và vững chắc. Mặt khác chúng ta thực hiện việc đưa chính quyền, công an ra kiểm điểm trước dân, đồng thời tổ chức nhân dân thảo luận nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là thảo luận đề cương báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ IV và của Thành phố. Bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp được quần chúng tham gia sôi nổi. Lúc đầu chưa quen quần chúng còn e dè về sau quần chúng cởi mở mạnh dạn phát biểu ý kiến. Về mặt phân phối chúng ta đưa vào các đoàn thể, nhất là đoàn thể phụ nữ, tổ chức mạn lưới phân phối bánh mì, rau, cá, gạo, hàng nhu yếu phẩm đến tận tay quần chúng nhanh, đúng định lượng, nhờ thế ta vượt qua khó khăn trong việc phân phối góp phần ổn định giá cả thị trường.
Phong trào cách mạng của quần chúng liên tục diễn ra trên mọi lĩnh vực, trên cơ sở đó mà chúng ta tăng cường chuyên chính vô sản và đã phát huy một bước quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, quần chúng đã cùng Đảng gắn bó vượt qua khó khăn giải quyết về cuộc sống kinh tế và xã hội.
Trong 2 năm chúng ta phối hợp với trên tiến hành đánh 110 mục tiêu tư sản mại bản, đại gian thương, kiểm tra hành chánh, kiểm kê tài sản vắng chủ, đăng ký kinh doanh, đăng ký hành nghề, thu thuế siêu ngạch lợi tức... Đến nay đã hoàn thành xóa bỏ tư sản mại bản đại gian thương làm cho cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa suy yếu một bước quan trọng góp phần ổn định sc và phục vụ đời sống nhân dân.
Tóm lại chính quyền cách mạng đã tạo điều kiện cho nhân dân lao động bước đầu thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, đời sống. Chính quyền cách mạng thực sự là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Song bên cạnh đó chính quyền cũng còn nhiều tồn tại, chưa làm tốt việc quản lý kinh tế, quản lý hành chánh, một số cán bộ còn quan liêu, hách dịch, cửa quyền, đánh dân. Chúng ta cần nghiêm khắc phê phán và phải nhanh chóng khắc phục.
2- Khôi phục và phát triển sản xuất, phân bố lại lực lượng lao động, vận động đồng bào hồi hương và xây dựng vùng kinh tế mới, giải quyết nạn thất nghiệp, ngăn chặn kịp thời nạn đói, từng bước chăm lo đời sống nhân dân:
Trước 30/4 nhân dân Quận 6 bị nạn đói đe dọa, có gia đình ăn cháo, tự tử vì đói, bán con, bán máu. Các cơ sở sản xuất hầu như ngưng hoạt động, trên 100.000 người thất nghiệp, tình hình đó đặt ra cho Đảng bộ nhanh chóng giải quyết. Chúng ta đã cứu đói với số gại là 1.327.099 kg cho 236.878 lượt người. Mặt khác nhanh chóng tiếp thu các xí nghiệp của bọn bỏ chạy nước ngoài, tổ chức lại các xí nghiệp tư nhân. Được trên giúp đỡ và chi viện đã khắc phục khó khăn về vốn nguyên nhiên vật liệu nên đã phục hồi sản xuất 533 xí nghiệp, tổ chức lại 09 ngành, xây dựng 01 hợp tác xã sản xuất, 32 tổ hợp sản xuất. Đã giải quyết hơn 13.000 công nhân lao động có công ăn việc làm. Năm 1976 phong trào thi đua sản xuất được phát động sôi nổi các xí nghiệp quốc doanh đưa mức sản xuất tăng hơn 1975 từ 30 - 60%, 19 xí nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch trước thời hạn từ 15 - 55 ngày với giá trị tổng sản lượng tăng từ 10 tới 162% và phát huy 171 sáng kiến cải tiến kỹ thuật làm lợi cho Nhà nước trên 500.000 đồng.
Song song với việc khôi phục và phát triển sản xuất ta đã hình thành 01 mạn lưới thương nghiệp quốc doanh và tập thể đã tổ chức được 5 cửa hàng quốc doanh, 20 HTX tiêu thụ, xây dựng 87 tổ rau, cá, bành mì, 41 tổ gạo, đưa ngành thịt heo vào mua chung bán chung, nắm kiểm soát 11 lò bánh mì. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh có nhiều nỗ lực cố gắng phục vụ nhân dân.
Mặt khác chúng ta đã quan tâm giải quyết ráo riết nạn thất nghiệp, chủ yếu là vận động đưa dân đi hồi hương và lập nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, chúng ta đã tổ chức tốt khâu đưa dân đi, chăm lo ổn định đời sống nhân dân khi đến vùng kinh tế mới. Kết quả chúng ta đã đưa đi hồi hương được 47.079 người về quê hương và đi vùng kinh tế mới. Chưa kể hàng vạn người tự lực đi khi mới giải phóng, ngoài ra chúng ta cũng vận động được 2303 TNXP rời Thành phố đi vào lao động sản xuất. Do vậy, dân số của Quận từ 250.000 hiện nau đã giảm xuống còn 183.000. Điều đó nói lên tinh thần cách mạng của quần chúng, đáp ứng lời kêu gọi của Đảng. Đây là một sự chuyển động rất lớn, rất cơ bản cho tình hình của Quận.
Trên lĩnh vực giáo dục chúng ta đã thực hiện tốt chủ trương công lập hóa trường tư. Giải quyết cho hàng vạn con em đồng bào lao động được đi học miễn phí. Nâng số học sinhtừ 20.000 trước giải phỏng lên 42.000 trong đó con em lao động chiếm 80%, tăng 60% so với trước giải phóng. Nhân dân phấn khởi an tâm thấy con em mình được giáo dục chăm sóc dạy dổ nên người. Chúng ta cũng có nỗ lực lớn đưa 7125 nhân dân lao động ta thoát nạn mù chữ và 1000 đang theo học các lớp BTVH. Đây là một kết quả có ý nghĩa chính trị rất lớn. Chúng ta cũng có nhiều quyết tâm nỗ lực dập tắt các ổ dịch nguy hiểm ở một số nơi trọng điểm trong Quận mà trước khi giải phóng thường gây ra chết người hàng loạt. Ta còn tổ chức mạn lưới y tế khắp 20 phường và phòng khám nhân khu vực để chăm lo sức khỏe cho nhân dân.
Về mặt công tác này còn những khuyết nhược: Chúng ta nặng giải quyết khôi phục sản xuất để chăm lo giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân nhưng chưa kết hợp giữa phục hồi phát triển với cải tạo để tư sản lợi dụng sản xuất hàng hóa kém phẩm chất, trốn lậu thuế, thành lập các tổ hợp ma để làm ăn gian dối trốn đi xây dựng kinh tế mới. Trên lĩnhvực này, chúng ta chưa quán triệt, chưa sâu sát còn nhiều sơ hở cho nên kẻ thù giai cấp còn chủ động nắm tiền, hòa hóa, vật tư, khống chế đời sống nhân dân lao động. Đến nay tuy có đăng ký kinh doanh nhưng ta nắm chưa rõ và chắc chắn máy móc, nguyên nhiên vật liệu, hàng hóa tồn kho của tư sản. Về phân công, phân cấp quản lý chưa rõ ràng, giá cả thu mua chính sách thuế khóa chưa hợp lý. Hệ thống thương nghiệp quốc doanh còn yếu và nhiều sơ hở.
Mặt khác việc phân bố lại lực lượng còn gặp nhiều khó khăn. Do những người làm nghề kinh doanh buôn bán quá nhiều. Phần đông là người Hoa có vốn liếng, tư liệu, họ đem bán vào Thành phố không chịu đi xây dựng kinh tế mới. Khâu hợp đồng tuyên truyền về chủ trương cải tạo về kinh tế mới của ta và khâu chăm lo đời sống của nhân dân trên vùng KTM chưa thật tốt. Nên đồng bào một số không an tâm và gây tác động lớn đến những người trong diện đi đang còn ở Thành phố.
3- Đẩy lùi một bước nền văn hóa đồi trụy phản động, đưa nền văn hóa xã hội chủ nghĩa thâm nhập vào các hoạt động xã hội, xây dựng những tư tưởng, con người mới:
Hai năm qua, chúng ta đã có nhiều nỗ lực trên mặt hoạt động này. Trước hết là công tác truy quét. Đã thu được hàng vạn ấn phẩm văn hóa, văn nghệ đồi trụy phản động. Triển khai nhanh chóng và đều khắp hệ thống thông tin tuyên truyền cơ sở. Song song đã phát động rộng rãi nếp sống văn hóa mới trong quần chúng. Sôi nổi nhất là trong thanh thiếu niên. Khắp các phường, trường, cơ quan, xí nghiệp. Ta đã xây dựng được 12 đội văn nghệ quần chúng với 974 điển viên, 21 đội văn nghệ thiếu nhi gồm 426 em. Các đội văn nghệ nghiệp dư đã làm nòng cốt phong trào văn nghệ cho hàng trăm tổ văn nghệ quần chúng. Phong trào thể dục buổi sáng từng bước sôi nổi. Phong trào thể thao đã tổ chức xây dựng được nhiều đội mạnh về bóng đá, bóng rổ và phát triển hàng trăm đội thể thao các loại khắp cơ sở quần chúng. Mặt khác ta còn đẩy mạnh hoạt động triển lãm, thư viện, tổ chức phát hành 657.437 tờ báo Đảng và hàng triệu các loại báo chí văn nghệ khác.Tăng cường công tác truy quét và giáo dục số tệ nạn xã hội ăn chơi đàng điếm, gây mất trật tự trị an. Càng ngày chúng ta càng chiếm được trận địa tư tưởng trong quần chúng, đặc biệt là quần chúng công nhân lao động. Chúng ta liên tục tổ chức nhiều đợt học tập trong quần chúng. Hàng vạn lượt người tham gia thảo luận góp ý chủ trương chính sách của Đảng như đề cương Báo cáo chính trị của Thành ủy, bầu cử Quốc hội, bầu cử HĐND, NVQS... Do đó dù trong hoàn cảnh cuộc sống khó khăn thế nào, nhưng quần chúng vẫn một lòng một dạ tin và đi theo Đảng. Đến nay đa số quần chúng đã được nâng cao về nhận thức chính trị, hiểu được đường lối chính sách của ta, gạt bỏ dần các mặc cảm hoài nghi, khẳng định con đường tiến lên XHCN. Sinh hoạt tập thể được nâng cao. Đời sống văn hóa ngày một phát triển trong quần chúng. Văn hóa đồi trụy, nếp sống xa hoa, hưởng thụ cá nhân bị tấn công đẩy lùi từng bước. Qua các phong trào đã xuất hiện hàng ngàn lao động tiên tiến trong công nhân, thanh niên, phụ nữ và 364 cháu ngoan Bác Hồ. Đó chính là những nhân tố mới XHCN. Những con đường điển hình biểu hiện cho sự tất thắng của nền văn hóa tư tưởng XHCN.
Tuy nhiên chúng ta vẫn còn những mặt chưa làm được là: chưa giáo dục được sâu sắc cho quần chúng nhân dân lao động thấy đây là một cuộc đấu tranh giai cấp, đối tượng là giai cấp tư sản và động lực là giai cấp công nhân. Biểu hiện của cuộc đấu tranh này trên lĩnh vực kinh tế, tiền và hàng... Thế nên, vẫn còn một bộ phận quần chúng về mặt giác ngộ vẫn chưa nâng kịp theo yêu cầu nhiệm vụ của tình hình mới.
4- Công tác xây dựng Đảng, xác lập quyền lãnh đạo của Đảng toàn diện từ Quận đến cơ sở.
Sau 2 năm Đảng bộ Quận 6 đã trưởng thành vượt bậc, từ số lượng chỉ trên dưới 40 đảng viên trong những ngày đầu giải phóng, đến nay đã tăng lên 645 đảng viên. Về chất lượng cũng được nâng cao lên một bước đáng kể về chính trị, năng lực, trình độ...
Hiện tại ta có 20 chi bộ cơ sở phường, 10 chi bộ an ninh, Quận đội, cấu tạo trong 2 đảng ủy và 12 chi bộ các Phòng, Ban xung quanh Quận, phần lớn các chi bộ đã trưởng thành, có khả năng lãnh đạo toàn diện, biết vạch chương trình công tác, giữ được sinh hoạt định kỳ.
Đội ngũ cán bộ, Đảng viên ta thông qua phong trào cách mạng quần chúng, thông qua các đợt sinh hoạt chính trị đã có bước trưởng thành lớn lên. Tuy là từ nhiều nguồn bổ sung về những giữa cán bộ tại chỗ, với cán bộ các nơi, giữa cán bộ già với cán bộ trẻ. Giữa cán bộ chính trị với cán bộ chuyên môn đều đoàn kết tốt. Dần dần đảng bộ đã hiểu được khả năng, hoàn cảnh của từng đồng chí mà có kế hoạch bố trí phát huy được khả năng của từng người. Bên cạnh đó cũng luôn luôn quan tâm chăm sóc đời sống tinh thần và vật chất cho đảng viên.
Trong Đảng, chúng ta đã làm tốt công tác triển khai học tập các nghị quyết của Trung ương và Thành phố. Tổ chức nhiều đợt sinh hoạt chính trị phê bình và tự phê bình trong Đảng. Mở được 3 lớp bồi dưỡng cho đảng viên và đối tượng Đảng. Ta đã phát triển được 39 đảng viên mới, chuyển chính thức 21 đảng viên dự bị ở các phường và cơ quan.
Về kiểm tra và tổ chức, ta đã tiến hành kiểm tra, kiểm điểm: Kết luận xử lý 27 vụ sai phạm, trong đó khai trừ ra khỏi Đảng và đình chỉ công tác 6 đ/c. Những vụ sai phạm lớn xảy ra trong cán bộ dân chính Đảng và công an. Ta đã giải quyết các vụ trên tinh thần chí công vô tư, xác minh sự việc có cơ sở và tình lý, trên tinh thần bảo vệ sự trong sáng của Đảng và sự đoàn kết nội bộ.
Mặt khác để xây dựng lực lượng công tác quần chúng làm hậu thuẫn cho Đảng, ta cũng đã quan tâm tổ chức các đoàn thể cách mạng. Trước hết là tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Đã phát triển được 1146 đoàn viên, công tác phát triển Đoàn nhìn chung có tương đối đều rộng và có nhắm vào thành phần lao động. Tổ chức đoàn của ta chất lượng đảm bảo, phát triển hầu hết đềucó thông qua các phong trào và thông qua sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp ủy từng nơi. Hai năm qua tổ chức Đoàn đã vận động quần chúng thanh niên nòng cốt xung kích đi vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng tốt.
Về công đoàn hiện nay có 8000 đoàn viên công đoàn. Tổ chức công đoàn thời gian qua đã bám rễ sâu rộng trong quần chúng công nhân. Đưa phong trào công nhân lên tốt trong phong trào lao động sản xuất. Về mặt tổ chức và lề lối làm việc, công đoàn ngày càng có những bước củng cố và nâng cao chất lượng, mang lại hiệu quả tốt.
Phụ nữ có 17.260 hội viên và 32.283 tổ viên đoàn kết đã tích cực trong việc phân phối lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu về tận tay nhân dân góp phần chăm lo cho bữa ăn của quần chúng.
Vừa qua, các đoàn thể đã tiến hành củng cố tổ chức bằng bầu cử dân chủ từ Quận đến cơ sở. Nâng cao thêm trình độ tổ chức, năng lực quản lý quần chúng. Ngày càng thể hiện tốt vai trò là hậu thuẫn chính trị của Đảng, là nguồn bổ sung phong phú cán bộ cho đảng.
Tuy nhiên công tác xây dựng Đảng vẫn còn những mặt hạn chế:
Công tác đào tạo, huấn luyện, nâng chất bồi dưỡng của ta quá thiếu và chưa kịp thời, thế nên trình độ, kiến thức của cán bộ đảng viên còn yếu, nhất là văn hóa nghiệp vụ, từ đó ảnh hưởng đến việc vận dụng chủ trương chính sách. Công tác phát triển Đảng quá chậm không đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ. Trong đã phát triển thì chất lượng, nguyên tắc, thủ tục chưa đảm bảo. Một điều cần khắc phục là suốt 2 năm qua ta chỉ phát triển có 01 đảng viên trong xí nghiệp. Trong khi phong trào ở đây đã lên rất tốt. Trong Đảng hiện nay thoái hóa phẩm chất, quan liêu, hóng hách, vi phạm quyền làm chủ, từng bước, từng nơi diễn ra nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến thanh danh uy tín Đảng. Việc xử lý đảng viên ở tù về, đảng viên đứt liên lạc, đảng viên sai lầm chưa nhanh chóng kịp thời. Đảng bộ nhất là ở cơ sở chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thật quan tâm đầy đủ công tác xây dựng các đoàn thể để tập hợp quần chúng làm hậu thuẫn chính trị cho mình. Khuynh hướng chung là nặng về sử dụng mà nhẹ về bồi dưỡng.
III- NHỮNG TỒN TẠI CẢN NGẠI CHỦ YẾU CỦA TA:
Hai năm qua, tuy ta có khôi phục và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở địa phương để giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân. Nhưng ta chưa làm công tác quản lý tốt. Chưa kết hợp tốt giữa cung cấp nguyên nhiên liệu với thu mua sản phẩm. Nắm ngành hàng để từ đó có quản lý lãnh đạo ngành hàng nào phát triển. Còn loại ngành hàng nào phải vận động chuyển sang sản xuất khác. Do đó dẫn đến tình trạng sản xuất bừa bãi. Sản phẩm không đảm bảo chất lượng và phần lớn chạy ra thị trường tự do. Sản xuất lén đồ giả mạo, thậm chí không đảm bảo an toàn lao động gây thiệt mạng công nhân (ở Bình Tiên 4 người chết cháy trong khi đang sản xuất vỏ xe).
Về thương nghiệp tuy ta đã xóa bỏ tư sản mại bản, đại gian thương và hình thành, phát triển màng lưới thương nghiệp quốc doanh HTX tiêu thụ. Cũng như dựa vào phụ nữ phân phối rau, cá, bánh mì... Nhưng khả năng hoạt động vẫn còn yếu. Trong khi đó thương nghiệp tư nhân vẫn còn chiếm tỷ lệ rất cao 74,4%. Một hệ thống bán buôn (đại trung thương). Cùng với 1 màng lưới bán lẻ (tiểu thương, buôn gánh, bán bưng) cấu kết với các cơ sở tư nhân, thủđoạn giành giật hàng lậu, lừa dối, đong non cân thiếu... Chỉ biết làm sao kiếm lời nhiều. Gây hỗn loạn thị trường phá rối giá cả. Đặc biệt là ở chợ Bình Tây cản trở đến việc cải thiện đời sống của nhân dân lao động và làm cho trật tự trị an không đảm bảo.
Việc phân phối lại lực lượng lao động - vận động đồng bào hồi hương, đi xây dựng vùng KTM tuy có chú ý và có một số kết quả nhưng thời gian qua ta chưa tập trung đúng mức, chưa sử dụng lực lượng tổng hợp. Làm còn từng chập, từng hồi. Công tác phát động chưa sâu, hình thức nội dung phát động còn nghèo nàn. Chưa đi vào tư sản thương nghiệp tiểu thương và người có vốn (nhưng phi sản xuất). Việc chăm sóc và ổn định đời sống quần chúng đã đưa đi chưa được tốt. Chưa nắm chắc số lao động có tay nghề giỏi và số không nghề nghiệp, số hiện có công ăn việc làm và số thất nghiệp. Để bố trí lại lực lượng cho hợp lý, nên dẫn đến tình trạng lãng phí sức lao động.
Về mặt chủ quan khâu lãnh đạo, chỉ đạo của ta có mặt chưa nắm chắc tình hình. Một số nơi vận dụng thiếu nhuần nhuyễn chủ trương chính sách của trên không cơ cấu tổ chức chưa đồng bộ từ trên xuống dưới. Mỗi tổ chức phát huy không hết vai trò chức năng của mình. Nguyên tắc tổ chức, tác phong công tác lề lốilàm việc còn nhiều lỏng lẻo, lượm thượm. Chưa thực hiện tốt việc chỉ đạo điểm để rút ra bài học kinh nghiệm cho việc chỉ đạo chung. Khâu nghiên cứu tổng hợp của Quận ủy chưa làm đủ chức năng và đáp ứng nhu cầu của lãnh đạo, chỉ đạo.
Bộ máy quản lý kinh tế, quản lý xã hội còn yếu, các phòng ban chưa phát huy tốt chức năng của mình. Chưa làm tham mưu tốt cho Ủy ban và cấp ủy. Các tổ chức cơ sở chưa mạnh, chưa phát huy và xác định rõ vai trò vị trí của công đoàn phường. Một số chi bộ lãnh đạo thiếu toàn diện. Quản lý đảng viên chưa tốt, chưa chặt, chưa đề ra được nghị quyết cộng sinh hoạt thường kỳ, đóng đảng phí không được đều đặn. Chưa quan tâm chăm sóc đúng mức về mặt chính trị tư tưởng trong các lực lượng vũ trang ở cơ sở, kề bên những cán bộ đảng viên trung kiên, nhiệt tình; thì vẫn có không ít cán bộ đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, thoái hóa, biến chất, hóng hách, cửa quyền, vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân, nguyên nhân của những tồn tại trên là do:
1- Tình hình cách mạng chuyển sang giai đoạn mới quá nhanh, đảng bộ từ hoạt động bí mật sang công khai.
- Từ chưa nắm chính quyền chuyển sang nắm chính quyền. Nên cán bộ đảng viên bở ngỡ không nắm được phương thức hoạt động, chuyển không kịp tình hình mới. Từ đó bị ảnh hưởng đến việc vận dụng chủ trương đường lối của Đảng trong giai đoạn mới.
2- Cán bộ đảng viên chưa nhận thức được một cách sâu sắc trận địa cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay. Một số đ/c chưa thấy hết bản chất thâm độc của kẻ thù giai cấp trong cuộc đấu tranh gay go và phức tạp này cho nên quan điểm, lập trường còn chung chung, lơ là mất cảnh giác cách mạng.
3- Tác phong, lề lối làm việc còn mang nặng kiểu du kích, phân tỏa vụn vặt, việc phân công, phân cấp quản lý trên dưới chưa rõ ràng, còn nhiều sơ hở và trì kéo lẫn nhau. Việc thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ và chức năng, chức trách từng tổ chức từng cá nhân chưa được quán triệt một cách đầy đủ.
IV- NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Hai năm qua, trải qua cuộc đấu tranh gay go phức tạp, Đảng bộ và nhân dân Quận 6 đã đạt được những thành tựu quan trọng như trên đã nêu. Được như vậy là xuất phát từ những nguyên nhân sau:
1- Trước hết là nhờ Đảng có đường lối, chính sách đúng đắn. Trực tiếp là sự theo dõi lãnh đạo sâu sắc của Thành ủy. Và trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng, Đảng bộ ta biết bám sát nghị quyết, bám vào nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng bộ, đồng thời còn biết vận dụng tốt đường lối chủ trương của Đảng vào tình hình thực tế của địa phương mình.
2- Nhân dân Quận 6 có 1 truyền thống cách mạng suốt trong 2 cuộc kháng chiến, luôn luôn đi theo Đảng, đảng bộ ta trong 2 cuộc kháng chiến cũng đã lớn lên từ phong trào cách mạng của quần chúng và luôn luôn gắn bó lãnh đạo quần chúng "Dân theo Đảng, Đảng bám dân" đã trở thành một truyền thống vô cùng quý báu. Trong 2 năm qua Đảng bộ ta đã biết phát huy truyền thống đó, tin quần chúng, dựa vào quần chúng để vượt qua tất cả mọi khó khăn. Làm nhiều việc tưởng chừng như không làm nổi và mang đến thắng lợi ngày nay. Đó chính là kết quả từ quan điểm quần chúng đúng đắn của toàn Đảng bộ biết dựa vào phát huy sức mạnh của quần chúng chớ không sa vào biện pháp hành chính, nghiệp vụ đơn thuần.
3- Đội ngũ cán bộ, đảng viên của ta từ nhiều nơi đến. Nhưng đã sớm tạo và phát huy được đoàn kết nội bộ giữa cán bộ mới đến tại chỗ, già và trẻ, chuyên môn và nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện chủ trương đường lối của Đảng luôn thể hiện tinh thần tiến công dám làm, dám chịu. Xốc tới vừa làm vừa học. Qua đó hoàn thành nhiệm vụ, khối đoàn kết nội bộ càng tăng, cán bộ được rèn luyện, có kinh nghiệm, có năng lực trình độ tổ chức, quản lý được nâng lên.
4- Trong những công tác thường xuyên, đột xuất vừa dồn dập và cấp bách, vừa có tính chất lâu dài chiến lược. Đảng bộ ta đã biết nắm khâu trung tâm, tập trung chỉ đạo để thúc đẩy toàn bộ các mặt công tác khác.
Đồng thời đảng bộ còn biết phát huy thế mạnh tổng hợp của các ban ngành, đoàn thể, các địa phương. Tạo điều kiện cho các tổ chức biết kết hợp hỗ trợ lẫn nhau và cùng nhau tập trung dồn sức vào những khâu trung tâm nhất.
Tóm lại trong 2 năm qua, được sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy, chúng ta đã giành được một bước thắng lợi lớn về mặt cải tạo và xây dựng. Chúng ta đã hình thành được bộ máy chính quyền từ Quận đến cơ sở. Củng cố hệ thống chuyên chính ngày càng mạnh và vững chắc đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Giải quyết kịp thời tình hình phức tạp của từng giai đoạn, bảo đảm được an ninh chính trị chủ động được tình hình các mặt. Đã xác lập được vai trò của giai cấp công nhân, tập hợp được đông đảo quần chúng để thực hiện chủ trương đường lối của Đảng. Phong trào cách mạng của quần chúng được phát động và tổ chức, nhân dân lao động từng bước đã làm chủ tập thể bằng chính quyền cách mạng của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chúng ta vẫn còn nhiều khuyết nhược điểm, nhưng rõ ràng kết quả chúng ta đạt được do 1 sự nỗ lực lớn của toàn đảng bộ và nhân dân làm thay đổi Quận 6 tuy là bước đầu nhưng rất sâu sắc cơ bản và toàn diện tạo cơ sở cho chúng ta tiến lên trong giai đoạn mới.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ, CHỈ TIÊU CÔNG TÁC
VÀ BIỆN PHÁP CHÍNH TRONG 2 NĂM 1977 - 1978
A-VỊ TRÍ ĐẶC ĐIỂM, KHẢ NĂNG, PHƯƠNG THỨC, NHIỆM VỤ 2 NĂM 1977 - 1978:
Quận 6 có nhiều cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công đa dạng đã 1 bước phát triển sản xuất nhiều mặt hàng phong phú và xuất khẩu. Có năng suất sản xuất và sức lao động cao, có tay nghề giỏi, công nhân Hoa chiếm tỷ lệ lớn. Bên cạnh đó Quận 6 còn là một trong những trung tâm thương mãi lớn của Thành phố, nơi giao lưu hàng hóa của các tỉnh miền Tây, miền Đông, có hệ thống bán sỉ và lẻ chằn chịt khá sâu. Nơi buôn bán lâu đời nhất của Thành phố. Phần lớn cơ sở sản xuất tản mạn khắp trong Quận, gắn rất chặt với thị trường tự do. Tiền, hàng nằm trong tay tư sản chủ yếu là tư sản người Hoa, có nhiều thủ đoạn xảo quyệt trong buôn bán và sản xuất. Có sự gắn chặt, quan hệ sâu giữa giai cấp tư sản với tiểu thương, tiểu chủ và người lao động buôn bán lẻ ở đây khá nặng.
Cho nên nó có vị trí rất quan trọng, có tiềm năng kinh tế chung của Thành phố, gánh vác 1 phần quan trọng, một mãng khá lớn của cơ cấu kinh tế Thành phố. Đây cũng là một trong những pháo đài của tư sản thương nghiệp. Nếu sắp tới ta làm lung lay sụp đổ nó, xây dựng pháp đài mới XHCN, từng bước xây dựng cuộc sống của nhân dân thì làm cho Quận 6 cũng như toàn Thành phố có 1 cuộc biến đổi rất sâu sắc, nên nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc phấn đấu phức tạp rất gay go lắm, do đó phải làm đầy đủ trách nhiệm vinh quan của mình.
Dưới ánh sáng của đại hội đại biểu Thành phố lần thứ I, phương hướng mục tiêu của Đảng bộ trong 2 năm 1997 - 1998 là:
1- Trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động đưa phong trào cách mạng quần chúng thực hiện công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cải tạo tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương, xóa bỏ tư sản thương nghiệp, xóa bỏ bóc lột, chuyển đại bộ phận sang sản xuất, xây dựng màn lưới thương nghiệp quốc doanh và tập thể.
2- Bố trí lại lực lượng lao động, vận động quần chúng đi hồi hương và xây dựng vùng kinh tế mới, khôi phục và phát triển sản xuất giải quyết nạn thất nghiệp.
3- Đẩy mạnh công tác tư tưởng văn hóa, xây dựng nếp sống mới, con người mới XHCN, thực hiện cải cách giáo dục, thanh toán cơ bản văn hóa đồi trụy thực dân mới, sống bám hưởng thụ, giải quyết căn bản tệ nạn xã hội, cải thiện một bước cơ bản đời sống nhân dân trong Quận về ăn, mặc, ở, sức khỏe, học tập.
4- Củng cố chính quyền các cấp, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Không ngừng đề cao cảnh giác cách mạng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội ổn định vững chắc hơn.
5- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện và cải tiến lề lối làm việc.
Thực hiện 5 nhiệm vụ và mục tiêu trên, đưa Quận 6 từ Quận thương mãi tiêu thụ thành 1 Quận sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và là một trong những trung tâm thương mãi của Thành phố theo hướng xã hội chủ nghĩa tạo mọi điều kiện hoàn thành thắng lợi Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ I.
- Từ phương hướng nhiệm vụ mục tiêu chung nêu trên chúng ta rasức phấn đấu những chỉ tiêu và các mặt công tác sau đây:
I- CẢI TẠO QUAN HỆ SẢN XUẤT CŨ, XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT:
Phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu công tác cải tạo và xây dựng kinh tế ở Quận 6 trong 2 năm 1977 - 1978 là:
Trên cơ sở khôi phục và phát triển sản xuất gắn chặt việc cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Ra sức tận dụng và phát huy mọi khả năng sản xuất hiện có của các ngành công nghiệpnhất là tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đồng thời nhanh chóng xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, gấp rút xây dựng lực lượng thương nghiệp quốc doanh, màng lưới thương nghiệp HTX và hệ thống phân phối cho cơ quan bộ đội, tích cực cải tạo sắp xếp xây dựng ngành giao thông, vận tải, tổ chức phát triển chăn nuôi heo, vịt, gà, cá, tận dụng vùng đất ven Quận chuyên trồng rau xanh, nỗ lực xây dựng các ngành kinh tế trong Quận, vừa đưa vào nề nếp chế độ quản lý kinh tế đúng quy cách và pháp chế Nhà nước nằm trong guồng máy sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa của Thành phố, biến Quận 6 từ 1 Quận thương mãi trở thành một Quận sản xuất vừa là một trong những trung tâm thương mãi XHCN lớn của Thành phố.
Quán triệt những vấn đề cơ bản trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là cải tạo phải phục vụ cho xây dựng, trên cơ sở xây dựng mà cải tạo, cải tạo gắn chặt với xây dựng là để phát triển sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao. Quá trình cải tạo quan hệ sản xuất cũ phải biết tận dụng những khả năng kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý tốt để duy trì phát triển sản xuất.
1- Phương hướng cải tạo và xây dựng phát triển sản xuất các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Quận 6:
Gắn chặt và dựa vào cơ sở quốc doanh và công ty hợp doanh của các ngành Trung ương và Thành phố trên địa bàn Quận 6, tập trung mọi khả năng tổ chức sắp xếp lại toàn bộ các loại cơ sở tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp hiện có theo từng ngành sản xuất, tận dụng hết khả năng của lực lượng tay nghề giỏi, tích cực cung cấp nguyên vật liệu của Nhà nước kết hợp chặt với động viên, khả năng nguyên vật liệu còn trong tư nhân để vừa duy trì sản xuất vừa từng bước phát triển, vừa tranh thủ đầu tư chiều sâu vừa mở rộng ra thêm cơ sở mới, giải quyết cho trên 2500 thợ thủ công đang thiếu công ăn việc làm.
a)- Chỉ tiêu cụ thể trong cải tạo xây dựng tiểu thủ công và thủ công nghiệp của Quận 2 năm tới:
- Nắm chưa đầy đủ trong Quận hiện có 3065 hộ tiểu thủ công với 13.160 lao động, có 2010 hoạt động và 1055 ngưng hoạt động. Trong 2 năm 1977 - 1978 phục hồi lại toàn bộ các cơ sở sản xuất này có sắp xếp hợp lý lại những cơ sở hư hỏng hoặc ngành nghề không cần thiết đưa giá trị sản lượng của Quận bán cho Nhà nước 23 triệu nâng lên từ 30 triệu năm 1977 đến 45 triệu năm 1978.
- Trong 2 năm, đưa vào hợp tác hóa 80% các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp. Còn lại 20% tổ chức quản lý chặt trở thành cơ sở sản xuất cho HTX gia công quốc doanh và công tư hợp doanh của trên.
+ Tổ chức 30 HTX, trong năm 1977 tổ chức 10HTX và 60 tổ sản xuất.
+ Cải tạo sắp xếp tổ chức lại từng ngành hàng:
* Cơ khí có 733 hội với 3579 lao động, tổ chức thành 2 HTX trong năm 1977 và 04 HTX năm 1978 và 10 tổ sản xuất dần dần sẽ nâng lên 15 tổ.
* Tổ chức 2 HTX dệt da may mặc (hiện có 01) và đưa vào tổ sản xuất từ 19 tổ hiện nay lên 25 tổ.
* Ngành chế biến thực phẩm tương chao, mắm muối, tàu vị yểu. Cấu tạo thành 10 tổ sản xuất thu hút thêm 250 lao động.
* Tổ chức thành 01 công tư hợp doanh sành sứ thủy tinh với 54 cơ sở, 248 lao động.
* Tổ chức 01 HTX và 10 tổ sản xuất ngành hóa chất thu hút 1082 lao động.
* Ngành sản xuất giày dép tổ chức 01 HTX và 05 tổ sản xuất thu hút thêm 100 lao động.
* Các ngành khác lập 05 HTX chế biến thực phẩm cho người và gia súc và 10 tổ sản xuất với 374 lao động.
- Hiện naytrong số tiểu chủ có cơ sở sản xuất tuy nhỏ nhưng máy móc tinh vi, tay nghề giỏi, năng suất cao như ngành cơ khí sản xuất các loại cơ khí sản xuất, phụ tùng sản xuất sửa chữa các máy móc nền tổ chức thành 1 hoặc 2 công tư hợp doanh gồm có 5,7 chủ vào 1 công tư hợp doanh.
- Nghiên cứu chuyển những ngành nghề không phù hợp sang ngành nghề phù hợp như chuyển 500 cơ sở sản xuất lư đồng, nghề đúc giỏi, sang đúc các loại dụng cụ sản xuất... Đồng thời điều chỉnh đi 3 tổ rèn, một phục vụ sản xuất nông nghiệp ở vùng kinh tế mới, đưa 2 tổ đan mây tre thành 01 nhóm sản xuất đi kinh tế mới vùng có nguyên vật liệu.
b)- Nghiên cứu giải quyết kịp thời nguyên vật liệu đủ cung cấp cho sản xuất bằng 3 nguồn: Động viên số tiềm tàng trong tư nhân, tích cực quan hệ với các vùng có nguyên vật liệuđể hợp đồng 2 chiều và tranh thủ trên cung cấp theo hợp đồng của cấp trên. Tận dụng phế liệu phế thải.
Vừa đẩy mạnh sản xuất từng hộ trong từng ngành hàng hiểu rõ khả năng vốn, tay nghề kỹ thuật, khả năng nguyên vật liệu và khả năng chạy nguyên vật liệu của họ, từ đó mà đánh giá chính xác lại từng ngành. Qua đó giáo dục, phát động sâu rộng từng bộ phận rõ lợi ích của làm ăn tập thể để họ tựgiác vào hợp tác hoá phát triển sản xuất.
Các cơ quan kinh tế, cùng các đoàn thể của Quận phải thật sự đi vào vận động giáo dục và nắm chắc lại từng hộ, ngành sản xuất thật sự giải quyết khó khăn cho từng tổ sản xuất, từng HTX, từng hộ sản xuất, có vậy mới nắm chặt được lực lượng sản xuất và hàng được sản xuất ra.
c)- Sẽ phối hợp cùng với Thành thực hiện cải tạo những hộ công nghiệp, qua đó mà gắn chặt với các cơ sở sản xuất, HTX của địa phương thành thể tổng hợp của từng ngành sản xuất công nghiệp, phát triển kinh tế gia đình với những nghề phụ (đan mây tre...) để tăng thêm thu nhập cho gia đình.
2- Phương hướng, nhiệm vụ cải tạo và xây dựng thương nghiệp:
a)- Nhanh chóng xóa bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa bằng các hình thức biện pháp:
Chấm dứt ngay mọi hoạt động kinh doanh thương nghiệp của các hộ tư sản thương nghiệp nhất là những chủ vựa nắm đầu mối bán buôn từ chế độ cũ nay còn móc ngoặc hoạt động với nhiều hình thức nguy hại. Ngoài 159 hộ A thương nghiệp qua đăng ký kinh doanh đã nắm được càng nắm chắc lại số hộ B thương nghiệp nhưng thực chất là tư sản thương nghiệp, phân loại cụ thể để áp dụng các chánh sách cải tạo thật phù hợp nhằm đảm bảo từ nay đến cuối năm 1977 xóa xong tư sản thương nghiệp trong Quận.
- Với những hộ tư sản thương nghiệp vận động tổ chức cho họ chuyển đi xây dựng kinh tế mới, động viên họ góp vốn, đem máy móc đi sản xuất chuyên canh cây công nghiệp, cây lương thực hoặc chăn nuôi, công nghiệp... Nhà nước có chính sách khuyến khích giúp đỡ họ chuyển tài sản và cơ sở kinh doanh của họ Nhà nước đã mua lại, tranh thủ đưa đi 2/3 số hộ tư sản thương nghiệp theo con đường chuyển hướng này.
- Với những hộ tư sản thương nghiệp có kinh doanh công nghiệp hoặc tiểu thủ công nghiệp thì dứt hẳn kinh doanh thương nghiệp, động viên họ tập trung vốn vào sản xuất, ta nghiên cứu sắp xếp cụ thể cho họ, đề phòng họ lợi dụng chính sách mà không thật sự chuyển hẳn sang sản xuất.
b)- Với trung, tiểu thương, ra sức vận động giáo dục họ nhận rõ vì lợí ich của xây dựng đất nước mà chấm dứt kinh doanh thương nghiệp chuyển sang sản xuất:
Trong toàn Quận có 5679 hộ thương nghiệp trong 2 năm phải chuyển được 70% hộ sang sản xuất và đi xây dựng kinh tế mới. Số đi kinh tế mới là 2.500 hộ sẽ hồi hương lập nghiệp 1500, số tiểu thương có kinh doanh ngành nghề sản xuất thì chấm dứt kinh doanh thương nghiệp mà đi vào sản xuất. Số còn lại chọn lọc chị em tiểu thương lao động đã tham gia đấu tranh chống Mỹ, ngụy và quan hệ với cách mạng giáo dục cải tạo sử dụng lại bằng hình thức ủy thác qua đó giáo dục họ tốt đưa dân vào thành nhân viên thương nghiệp Nhà nước vào tổ mua chung bán chung.
Cải tạo đến đâu thì tích cực nghiên cứu sử dụng triệt để phương tiện cửa hàng, nhà kho để bố trí mạng lưới thương nghiệp của ta bằng các chính sách trưng dụng, trưng thu, trưng mua hoặc trưng thuệ theo yêu cầu, ngăn chặn không cho tiểu thương mới phát triển dưới mọi hình thức, tập trung tư sản thương nghiệp, tiểu thương cho học tập thông suốt đường lối chủ trương. Đồng thời cũng làm cho những người diện ở lại Thành phố thông suốt đường lối chủ trương chính sách để cùng ta đấu tranh và vận động những người diện đi.
c)- Cải tạo đến đâu nỗ lực xây dựng 1 mạng lưới thương nghiệp XHCN để thay thế. Trong 2 năm 1977 - 1978:
Xây dựng hoàn chỉnh 12 cửa hàng trung tâm, 60 cửa hàng khu vực và 1 mạng lưới phân phối thật phù hợp có cửa hàng quốc doanh Nhà nước, cùng với màng lưới phân hợp tác xã tiêu thụ từng phường, củng cố màng lưới căn tin cơ quan bộ đội, một mặt tổ chức các tổ ủy thác ở các chợ dùng lại chị em tiểu thương lao động. Từ nay đến cuối năm 1977 tổ chức 10 cửa hàng trung tâm trên các khu vực trọng điểm, đảm bảo triển khai các ngành hàng thiết yếu phục vụ đời sống quần chúng như cá, thịt, rau, chất đốt, gạo và củng cố 20 HTX phường và các mạng lưới phân phối lẻ, đến giữa năm 1978 có đủ mạng lưới bán lẻ và 60 của hàng khu vực.
Nỗ lực xây dựng cho được cùng khắp màng lưới phân phối lẻ bằng HTX, màng lưới căn tin, tổ ủy thác. Hợp tác xã mở thêm điểm bán hàng và tổ bán lưu động cho quần chúng lao động. Nơi nào HTX chưa lo nổi thì sử dụng mạng lưới phân phối của đoàn thể, có kế hoạch sắp xếp cải tạo xây dựng chợ Bình Tây.
d)- Phương hướng giải quyết lực lượng và cán bộ thương nghiệp bằng các biện pháp:
- Cán bộ phụ trách cửa hàng lấy trong đoàn thể phụ nữ và do các ngành cho một số, xin trên Thành phố bố trí cho một số. Nhanh chóng đào tạo cán bộ, cửa hàng trưởng, phó nhân viên bán hàng, kế toán, thủ quỹ...
- Nhân viên thương nghiệp chọn lọc trong đội ngũ trẻ trưởng thành qua công tác 2 năm mà huấn luyện đào tạo.
- Nghiên cứu sử dụng lại những nhân viên thương nghiệp làm thuê cho chủ tư nhân.
Tất cả lực lượng này phải được rèn luyện học tập khá vững sẽ đưa vào đấu tranh cải tạo xây dựng.
e)- Tổ chức thương nghiệp Quận phải tranh thủ nắm chắc các nguồn hàng trong Quận để có chính sách quản lý thu mua... làm sao tiến tới nắm được 70% hàng sản xuất ra trên các lĩnh vực tư nhân, 100% lĩnh vực Nhà nước.
3- Cải tạo xây dựng ngành giao thông vận tải của Quận:
a)- Phối hợp chặt với Sở Giao thông vận tải và các ngành, tiến hành cải tạo các nhà tư sản kinh doanh vận tải cả hành khách lẫn hàng hóa hiện có trong Quận. Sắp xếp tổ chức lại, thực hiện kiểm soát chặt các bến bãi xe trong Quận nhằm đảm bảo yêu cầu sản xuất vào đời sống cho quần chúng, gìn giữ trật tự xã hội, trị an, chính trị, nỗ lực cải tạo bố trí lại các loại xe vận tải nhẹ của tư nhân, đến cuối năm 1978 đảm bảo hầu hết đều vào hợp tác xã.
Năm 1977 sẽ tổ chức một số hợp tác xã và một số tổ hợp xe lam gồm 206 xe và 02 hợp tác xã gồm cố 670 xe ba gác và xích lô máy, nắm và tổ chức 1 số hợp tác xã bậc thấp các loại xích lô đạp, cần nghiên cứu bố trí lại các lộ trình nhằm phục vụ cho sản xuất đời sống thật phùhợp thuận tiện cho đồng bào lao động đi lại làm ăn sinh sống...
b)- Khẩn trương nắm toàn bộ lực lượng tiểuthủ công cơ khí sửa chữa và sản xuất phụ tùng thay thế cải tạo xây dựng sắp xếp lại thành 01 hợp tác xã và 1 số tổ sản xuất thành từng nhóm sản phẩm tận dụng mọi khả năng thiết bị lao động vật tư phế liệu phụ tùng cũ để duy trì bảo đảm, không để đầu xe bị hao mòn, từng bước phát triển dần, đồng bộ theo kế hoạch vừa đáp ứng 1 phần cho yêu cầu Quận, vừa hỗ trợ bổ sung cho Thành. Năm 1977 đưa 66 cơ sở đã đăng ký vào hợp tác xã, 1978 tiến hành đưa thêm 100 cơ sở còn lại vào hợp tác xã.
c)- Đi sâu thực hiện 1 cuộc vận động giáo dục những người làm nghề kinh doanh giao thông vận tải, những người công nhân lao động lái xe đi vào làm ăn tập thể, chống mọi biểu hiện tiêu cực khác và những lề thói làm ăn gian dối cũ. Một mặt phải kết hợp chặt giữa giáo dục và tổ chức quản lý bố trí sắp xếp lại các bến xe bãi xe hàng cũng như hành khách đi vào quy định của Nhà nước, kiên quyết chống bọn gian thương cấu kết móc ngoặc với vận tải buôn gian bán lận.
4- Cải tạo ngành xây dựng và nắm chặt lại tình hình nhà đất trong Quận đưa vào quản lý theo qui định của trên:
A. Về công tác cải tạo xây dựng ngành quản lý nhà đất:
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố đã nêu: "Trong năm 1977 - 1978 sẽ hoàn thành việc cải tạo các hộ tư sản kinh doanh nhà đất, nhằm xóa bỏ kinh doanh bóc lột về nhà cửa, xóa bỏ tình trạng chiếm cứ bất hợp lý, thực hiện chế độ Nhà nước quản lý thống nhất số lượng nhà trong Thành phố phân phối bố trí lại để sử dụng một cách hợp lý.
Để hoàn thành được nhiệm vụ này, Quận 6 phải nỗ lực thực hiện các mặt công tác về nhà đất như sau:
a)- Gắn chặt với cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, bố trí lại dân cư lao động, tổ chức lại sản xuất và lưu thông phôn phối trong toàn Quận mà nắm bố trí sử dụng quản lý duy trì bảo dưỡng tốt.
- Với tư sản và những người có nhà cho thuê trong diện phải cải tạo theo chính sách thì từ nay đến cuối năm chấm dứt hẳn kinh doanh, chuyển hết cho Phòng Nhà đất quản lý.
- Với số tư sản trung tiểu thương và những hộ đi xây dựng kinh tế mới hoặc hồi hương lập nghiệp phải quản lý chặc và nhanh chóng bố trí lại theo yêu cầu xây dựng mới.
- Đồng thời nắm lại toàn bộ số nhà vắng chủ, vắng mặt và các loại nhà đất từ đầu tiếp quản đến nay của Quận để điều chỉnh bố trí lại hợp lý.
b)- Cải tạo nhà đất phải phục vụ cho bố trí toàn bộ mạng lưới thương nghiệp, nhà giữ trẻ, mạng lưới y tế, giáo dục, câu lạc bộ thiếu nhi và công nhân lao động cho từng phường. Nhất thiết phải đảm bảo cho được xây dựng bố trí lại mạng lưới phân phối thương nghiệp có được 12 cửa hàng trung tâm, 60 cửa hàng khu vực và 80 cửa hàng cho hợp tác xã ở khu xóm lao động.
Phải thực hiện được một mức tối thiểu dành ra một số nhà ở hoặc cư xá để cấp cho công nhân lao động hiện không có nhà ở. Trong giải tỏa các khu vực sình lầy, kinh rạch, cần nghiên cứu kỹ có chính sách thật phù hợp với đồng bào, vì hầu hết là đồng bào lao động nghèo khổ.
c)- Điều tra nắm lại toàn bộ nhà đất của tư nhân, của cơ quan bộ đội quản lý kể cả cấp Trung ương, Thành, Quận, phường trong Quận để nghiên cứu bố trí sắp xếp điều chỉnh lại cho phù hợp sử dụng đúng quy trình quy cách kiến tạo xây dựng của nó (cơ quan, nhà ở, kho tàng, khách sạn...).
d)- Các nghĩa địa, nghĩa trang, đất chôn cất phải do Phòng TBXH và Phòng Nhà đất phối hợp cải tạo và quản lý, chấm dứt tư nhân kinh doanh cho mướn đất chôn cất. Nghiên cứu sắp xếp lại đội nhà giàn đưa về cho TBXH quản lý phục vụ cho ma chay chôn cất cho nhân dân.
B. Về công tác xây dựng cơ bản:
a)- Ngoài việc phối hợp chặt với Thành phố tổ chức cải tạo các nhà thầu xây dựng trong Quận, phải nắm lại toàn bộ lực lượng công nhân kỹ thuật như: hồ, mộc, xây dựng... đang sống thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp để tuyển mộ lại hoặc có kế hoạch sử dụng phù hợp không để bị mai một.
Xây dựng các đội xây dựng của Quận để làm công tác sửa chữa xây dựng toàn Quận để cả nhà công cũng như nhà tư nhân.
Trong 2 năm tới Quận sẽ xây dựng các công trình công cộng như: Trường Đảng của Quận, công viên Bình Tiên, mở rộng bệnh viện của Quận lên 200 giường, sân vận động. Qua xây dựng mà tổ chức sắp xếp lại lực lượng xây dựng và công nhân có tay nghề vừa đáp ứng một phần yêu cầu trước mắt mà còn phục vụ cho yêu cầu phát triển sắp tới.
b)- Cải tạo và sắp xếp lại các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng khuyến khích giúp đỡ cho họ sản xuất và phát triển sáng kiến những nguyên vật liệu thay thế để sản xuất được các loại vật liệu xây cất sớm tổ chức được một hợp tác xã của những người tiểu thủ công sản xuất vật liệu xây dựng.
5- Công tác tài chánh, ngân hàng, thuế, giá cả trong 2 năm:
Bốm mặt công tác này phải quyện chặt thiết thực làm công cụ cho đấu tranh cải tạo CTNTBTD vừa phục vụ cho yêu cầu sản xuất lưu thông phân phối vừa cải thiện đời sống nhân dân đánh nặng vào bọn bóc lột buôn gian bán lận.
Phải nắm lại lưu lượng tiền và hàng đang quay vòng ngoài tầm tay của Nhà nước để đưa dần vào quản lý của ta, phối hợp chặt với công nghiệp, thương nghiệp tranh thủ nắm cho được nguồn hàng từ khâu sản xuất, một mặt nghiên cứu hình thức quản lý có mức độ số hàng từ thương còn dự trữ hoặc tự xoay mà có để nắm hàng mà nắm lại tiền và ổn định 1 bước giá cả thị trường.
a)- Tài chánh:
Theo phân công, phân cấp, nếu Quận là đơn vị hành chánh và kinh tế thì phường là đơn vị ngân sách.
- Việc củng cố bộ máy tài chánh phải đủ sức làm tròn chức năng quản lý và kiểm soát thu, chi của các đơn vị thuộc ngân sách Quận và các cơ sở sản xuất Quận quản lý.
- Nắm chắc khâu quản lý và sử dụng tài sản đúng yêu cầu, chống thất thoát, hư hao.
- Làm tham mưu cho cấp ủy và ủy ban để chỉ đạo việc thực hiện chế độ chính sách đầy đủ. Giúp đỡ phường bồi dưỡng nghiệp vụ có đủ sức xây dựng kế hoạch thu, chi, cân đối ngân sách.
Quản lý chặt tổng quỹ tiền lương và phân loại lương hành chánh, lương sự nghiệp và khu vực sản xuất, chi phí hành chánh, kiến thiết cơ bản hết sức tiết kiệm.
b)- Ngân hàng:
Công tác tín dụng cần phát huy tác dụng đồng tiền trong công tác cải tạo, trong thương nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và hợp tác hóa sản xuất để đẩy mạnh kinh tế phát triển đi đúng đường lối chính sách ngân hàng cùng các ngành đồng bộ chống thất thu, mới bảo đảm bội thu tiền mặt ngân hàng phải xác định được đối tượng cho vay tín dụng nhằm góp phần quản lý tiền tệ và giá cả.
- Xét và định mức tiền mặt tồn quỹ cho xí nghiệp hợp lý.
- Đáp ứng yêu cầu chi phí kinh doanh thu mua nguyên vật liệu phế liệu và hàng hóa.
- Nghiên cứu việc sử dụng tiền mặt của hợp tác xã tiêu thụ nhằm giúp hợp tác xã có tiền để mua hàng tư doanh.
* Tiết kiệm: Nhân viên ngân hàng phải xuống từng gia đình cơ quan, xí nghiệp để phát động nhân dân. Cán bộ, công nhân viên gửi tiền tiết kiệm, mặt khác cần tổ chức rộng màng lưới bàn tiết kiệm tận phường, xí nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào đi gửi và rút tiền tiết kiệm dễ dàng không mất thời giờ.
* Chỉ tiêu: Cán bộ công nhân viên 24 đồng/năm.
Đồng bào 30 đồng/năm.
Tăng hơn năm 1976 - năm 19772,8 triệu đồng.
Tăng hơn năm 1977 - năm 19782,9 triệu đồng.
c)- Thuế:
Gấp rút hoàn thành công tác điều tra nắm chắc các cơ sở kinh doanh lớn nhỏ, nhằm phục vụ việc tính thuế được kịp thời và chính xác.
- Ổn định và củng cố tổ chức cơ sở đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ chỉ tiêu của Quận 6 năm 1977 là 5,9 triệu đồng.
- Trước mắt phải hoàn tất xong trong tháng 7/1977 việc thu thuế lợi tức và siêu ngạch. Còn tồn lại của 2 năm 1975 - 1976, việc thu thuế phải kết hợp chặc với công tác cải tạo để nâng cao hiệu quả. Phải có biện pháp mạnh và dứt khoát với những kẻ trốn thuế.
- Khi có chính sách thuế mới, phải phát động triển khai rộng khắp từ trong nội bộ ra ngoài quần chúng, góp phần phục vụ công tác cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
- Chống mọi biểu hiện quan liêu, hống hách, hối lộ và xử lý kịp thời các đơn khiếu nại tố tụng về thuế.
d)- Công tác quản lý kinh tế:
- Nắm chắc lại toàn bộ các cơ sở kinh doanh đã có. Qua cải tạo xây dựng mới đây, mỗi ngành kinh tế của Quận sẽ có đến hàng trăm đầu mới quản lý. Do đó phải nắm chắc được những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước quy định, đảm bảo đi vào kế hoạch và hạch toán kinh tế, những việc làm này phải thông suốt tận từng cơ sở. Tổ chức xây dựng mới đến đâu là phải đảm bảo thực hiện đúng chế độ chính sách của Nhà nước quy định đến đó, chống mọi biểu hiện tùy tiện xem thường pháp chế Nhà nước về chế độ quản lý kinh tế.
- Quận, phường là đơn vị trực tiếp chăm lo sản xuất và đời sống nhân dân. Phải đảm bảo đến tay nhân dân vừa chặt chẽ vừa không làm phiền hà cho quần chúng, giảm bớt lề thói giấy tờ không cần thiết mất nhiều thì giờ của nhân dân. Kiên quyết chống thoái hóa tham ô, móc ngoặc trong nội bộ ta, nghiêm trị những người vi phạm nặng nề.
- Trong quản lý các cơ sở kinh doanh của bước cải tạo và xây dựng phải biết nghiên cứu sử dụng những kinh nghiệm hay về kỹ thuật và quản lý của những người có tay nghề có kỹ thuật biết ql sản xuất và kinh doanh tất nhiện phải cải tạo mặt tiêu cực, mặt xấu một cách ráo riết hơn.
II-BỐ TRÍ LẠI LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG, GIẢI QUYẾT VỀ CƠ BẢN NẠN THẤT NGHIỆP, ỔN ĐỊNH VÀ TỪNG BƯỚC CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO HỒI HƯƠNG VÀ ĐI XÂY DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI:
Công tác vận động đồng bào hồi hương, đi xây dựng vùng kinh tế mới là 1 nhiệm vụ then chốt trong toàn bộ công tác đời sống của Quận.
Vì vậy trong 2 năm 1977 - 1978 Quận ta đã cần thiết và cấp báchphải đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới và hồi hương 70.000 dân, còn lại 120 ngàn dân cộng với mức gia tăng cơ học khoảng 10.000. Đến năm 1979 dân số trong Quận là 130.000 (gồm những gia đình công nhân viên chức trong các xí nghiệp, cơ quan, Nhà nước và số lao động, ngành nghề cần thiết xây dựng Quận công thương nghiệp xã hội chủ nghĩa).
A. Bố trí lại lao động, giải quyết 1 bước cơ bản thất nghiệp ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân:
Trên cơ sở phát triển và tổ chức lại nền sản xuất trong Quận. Phấn đấu trong 2 năm giải quyết 9000 công nhân lao động đang thất nghiệp có công ăn việc làm.
- Cải tạo và tổ chức xếp lại 30 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp số thu thêm 2000 đến 2500 người.
- Các cơ sở quốc doanh và công tư hợp doanh của Trung ương và của Thành nằm trong Quận qua cải tạo và xây dựng phát triển mới thu 500 người.
- Thông qua cải tạo và phát triển sản xuất mà nghiên cứu điều chỉnh các khu vực cung cấp không hợp lý làm cho hàng tới tay nhân dân, công nhân viên chức Nhà nước và chiến sĩ bộ đội.
B. Chỉ tiêu phấn đấu:
1- Đi xây dựng vùng kinh tế mới:8.000 hộ40.000 dân
2- Hồi hương:6.000 hộ30.000 dân
Cộng:14.000 hộ70.000 dân
3- Thanh niên xung phong:2.500 thanh niên
C. Đối tượng vận động:
-Khoảng 5000 hộ thương nghiệp
(bao gồm đại, trung, tiểu thương nghiệp):25.000 dân
- Khoảng 1000 hộ thủ công trong số 2500 hộ
(bao gồm đan mây, tre, thêu may, hớt tóc,
sửa xe, lò rèn, mộc...):5.000 dân
-Khoảng 1000 hộ giao thông trong số 1.902 hộ5.000 dân
-Khoảng 1000 hộ thất nghiệp không nghề
(trong số gần 2000 hộ):5.000 dân
-Khoảng 6000 hộ các ngành nghề tạm bợ khác
thuộc diện đi xây dựng vùng KTM, hồi hương:30.000 dân
Cộng:14.000 hộ70.000 dân
D. Thành phần vận động: Trong Quận có hơn 78.000 người Hoa đa số hoạt động ngành thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cần chú trọng vận động trong diện này với tỷ lệ thích đáng.
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1- Cán bộ đảng viên cần học tập thông suốt chủ trương của Đảng về vấn đề xây dựng vùng kinh tế mới từ đó mà xác định trách nhiệm của mình trước Đảng, trước dân sẵn sàng theo sự phân công của Đảng cùng đi với dân xây dựng vùng kinh tế mới.
- Phổ biến, giáo dục quán triệt chủ trương một cách đầy đủ và đúng đắn trong nhân dân. Trên cơ sở đó mà hướng dẫn phân loại đi, ở cần bảo đảm công bằng hợp lý, tránh nể nang cảm tình, hối lộ, cửa quyền...
2- Tăng cường sự chỉ đạo và lãnh đạo của Quận ủy, UBND Quận về công tác này. Đồng thời tiến hành thành lập Hội đồng NV xây dựng vùng kinh tế mới, củng cố Ban vận động hồi hương và xây dựng vùng kinh tế mới giảm nhẹ công tác văn phòng tăng sức cho Ban của phường và đội phát động. Cần có tài liệu tuyên truyền mới thích hợp tình hình và đối tượng hiện nay.
- Mặt khác đoàn thể và ban ngành tổ chức 1 bộ phận phụ trách xây dựng vùng kinh tế mới với số lượng cán bộ, nhân viên theo tỷ lệ số dân đi, cán bộ chuyên lo công tác này phải là những đ/c tích cực, nhiệt tình với công tác kinh tế mới, phải thường xuyên được bồi dưỡng, đào tạo nhất là khung chuyên nghiệp để cung cấp cho các xã mới theo yêu cầu đồng thời đề xuất kế hoạch cụ thể của ngành mình hỗ trợ cho công tác xây dựng và vận động đi xây dựng vùng kinh tế mới, hồi dương.
3- Quận sẽ nhận kinh phí của Thành và địa bàn khoanh vùng của Tỉnh, tổ chức ra 2 công trường thủ công đảm đương xây dựng 8 xã, 8000 nhà, đồng thời vở hoang đất canh tác trước khi đưa dân đến. Quận sẽ chịu trách nhiệm chăm lo đời sống nhân dân ổn định mới giao cho địa phương.
a)- Lực lượng xây dựng: Sử dụng lực lượng TNXP, LLVT, bán vũ trang của Quận và những lao động chính của gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới chia ra xây dựng đồng bộ tại 2 công trường (khoảng 2000 lao động xây dựng).
b)- Địa điểm, tốc độ thi công và số lượng, thời gian đưa dân:
- Sáu tháng cuối năm 1977: Xây dựng 2 xã đưa 10.000 dân.
- Năm 1978: Xây dựng 5 xã đưa 25.000 dân.
- Quý I/1979: Xây dựng 1 xã đưa 5.000 dân.
Hướng đưa dân đi lập nghiệp là 2 tỉnh Ninh Hải và Kiên Giang.
- Về hồi hương: Số đồng bào đi hồi hương về tỉnh Long An khoảng 15.000, Tiền Giang khoảng 10.000 và Minh Hải khoảng 5000 dân. Đề nghị Thành ủy và UBND thực hiện chế độ trợ cấp và cấp phương tiện di chuyển cho đồng bào hồi hương và Thành đề nghị với Trung ương chỉ thị cho các Tỉnh trên nhận dân trở về.
c)- Thành lập ban chỉ huy công trường và liên đội TNXP:
Quận thành lập 2 Ban chỉ huy công trường. Thành phần gồm: Ban vận động hồi hương và xây dựng vùng kinh tế mới. Quận đội và thanh niên xung phong. Thành lập 01 liên đội TNXP do Quận quản lý, trách nhiệm trực tiếp là Quận Đoàn.
d)- Tổ chức tham quan và đưa dân đến:
Sau khi nghiệm thu đủ chuẩn chất về nhà ở, giếng nước, đất canh tác và nông cụ, giếng má. Tổ chức cho đồng bào tham quan xong mới đưa dân đến lập nghiệp.
4- Tổ chức khung quản lý xã, ấp: Xây dựng và đào tạo số nòng cốt quần chúng tốt, lực lượng TNXP bồi dưỡng thành lập khung, ấp. Các ban ngành, đoàn thể đào tạo khung nghiệp vụ cho các xã mới tương xứng với tỷ lệ dân.
Quận ủy và Ủy ban sẽ bố trí cho mỗi xã bình quân 04 cán bộ cốt cán (đảng viên) kết hợp với số cán bộ của Tỉnh, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong để điều hành, hướng sản xuất và quản lý hành chánh. Tất cả (4 x 8 xã) = 32 người. Kết hợp hỗ trợ cho địa phương nhất là khâu chăm lo đời sống tại 04 xã xây dựng hoàn chỉnh và 2 xã xen kẻ với các Quận khác tại Tỉnh Sông Bé (5 xã) và Huyện Đức Linh (1 ấp).
5- Tổ chức thực hiện tốt các chính sách Nhà nước đối với đồng bào hồi hương và đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Đảm nhận xây dựng các xã mới đúng chuẩn chất theo qui định hoạch của Nhà nước, nhận cung cấp đúng tiêu chuẩn quy định và quản lý cho đến khi giao cho Tỉnh.
Tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào được bán nhà đang ở để đi xây dựng vùng kinh tế mới, hồi hương hoặc Nhà nước mua lại theo quy định của UBND Thành phố (70.000 đồng bào sẽ ra đi khoảng 14.000 nhà. Ước tính cho dỡ đi khoảng 9000 nhà còn lại 5000 nhà thuộc loại vật liệu nặng, cần trả trước 01 nhà 2000đ x 5000 nhà = 10.000.000 đồng).
Vận động số đồng bào (trung thương, tư sản) có vốn liếng phương tiện sản xuất chuyển nghề lên Tỉnh Lâm Đồng trồng dâu nuôi tằm hoặc đến các xã mới mở trại cưa lò, gạhc, trại mộc, lò rèn, công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ dùng tại chỗ.
Cùng với các Huyện bàn củng cố tốt: 4 xã kinh tế mới có dân Quận 6. Với tinh thần hậu phương hỗ trợ tiền tuyến để đồng bào sớm an cư lập nghiệp, tạo thêm thuận lợi cho công tác vận động.
6- Để cho công tác xây dựng ở Quận, phường nhanh chóng có điều kiện thực hiện tốt, chọn phường 17 làm phường điểm tập trung lực lượng tổng hợp các ban ngành, đoàn thể tổ chức học tập kỹ diện đi, ở tiến hành vận động giải quyết gọn phường này đưa dân lên lập nghiệp tại một xã mới. Trên cơ sở đó rút kinh nghiệm dứt điểm từng phường trong từng thời gian quy định.
Các phường diện đồng bộ tổ chức học tập và vận động đưa dân lên thêm một xã mới (ngoài số phải lập dân ở xã Bầu Bàng). Như vậy trong năm 1977 đưa đi 14.000 kinh tế mới, 6000 hồi hương, 2500 thanh niên xung phong. Cộng chung 22.500.
Ta có thể cho lực lượng lao động của những gia đình thuộc diện đi, đến xây dựng cơ sở vật chất 1 bước hoàn chỉnh trước rồi đưa gia đình theo sau.
III- CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VĂN HÓA:
Công tác tư tưởng văn hóa nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đại hội Đảng lần thứ nhất của Thành phố, tiếp tục giáo dục tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Phải không ngừng giáo dục và phát huy tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát động thành 1 phong trào thi đua sôi nổi của quần chúng thực hiện 5 nội dung chủ yếu:
- Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, chuyển tiểu thương sang sản xuất, xây dựng tổ hợp và hợp tác xã sản xuất. Xây dựng thương nghiệp quốc doanh và tập thể...
- Học tập phát minh nâng cao tay nghề tiến quân vào khoa học kỹ thuật.
- Đẩy mạnh lao động sản xuất tại chỗ, tham gia xây dựng vùng kinh tế mới làm thủy lợi và các công trình phúc lợi khác.
- Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới.
- Xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể vững mạnh.
Qua 5 nội dung trên, truy quét về cơ bản mọi tàn dư tư tưởng của văn hóa thực dân mới và mọi biểu hiện của tư tưởng phi vô sản khác chuyên sống lười, ăn bám. Giải quyết tệ nạn xã hội, dập tắt những luận điệu chiến tranh tâm lý, đồn nhảm, xuyên tạc.
Chỉ tiêu và biện pháp:
1- Về công tác tuyên truyền văn hóa, văn nghệ:
Tổ chức học tập và phổ biến sâu rộng trong nội bộ và quần chúng Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp tiêu biểu là Nghị quyết của Trung ương. Những chủ trương chính sách lớn của Đảng nhất là chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Phải thấy đây là cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt để xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất XHCN.
Thường xuyên giáo dục đề cao lao động sản xuất là vinh quang, là đạo đức XHCN thành nghĩa vụ và quyền lợi của người dân, giáo dục tinh thần đoàn kết tương trợ, thương yêu nhau vì lợi ích tập thể. Chống những tập tục mê tín dị đoan, lối sống ích kỷ bóc lột, ăn bám.
- Biểu dương và phát huy những gương điển hình người mới, việc mới, phê phán những hiện tượng tiêu cực trong lao động sản xuất và trong nếp sống văn hóa.
- Củng cố Phòng thông tin văn hóa và mạng lưới tuyên truyền từ Quận đến cơ sở (phường, xí nghiệp), quản lý thu hồi các phương tiện thông tin tuyên truyền nhà in, roneo... của tư nhân. Dưới sự hỗ trợ của Sở thông tin văn hóa, xây dựng hệ thống loa cho 8 xã kinh tế mới. Kết hợp chặt với lực lượng tuyên truyền cổ động trong toàn Quận để thực hiện từng trọng tâm công tác trong từng thời gian.
Thông tin văn hóa kết hợp với tuyên truyền xây dựng đội ngũ báo cáo viên 40 người (20 người cho 20 phường) thường xuyên báo cáo tin tức thời sự, các chủ trương đường lối của Đảng ta.
- Đến cuối năm 1978 truy quét và thu hồi về cơ bản sách báo và văn hóa phẩm đồi trụy nô dịch nằm trong các gia đình và trên đường phố. Truy quét văn hóa cũ phải liên tục, chú ý quét cả trong nội bộ hiện tượng dấu đút xem sách báo địch. Củng cố nhà văn hóa và nhà tuyên truyền thống của Quận. Xây dựng câu lạc bộ phường, phổ biến sách báo Đảng. Xây dựng tổ đọc báo có nề nếp trong mỗi cơ quan và trong từng tổ dân phố. Đọc có mạn đàm trao đổi, góp ý. Thông tin văn hóa và 3 đoàn thể mở những chuyên đề về nếp sống văn hóa cho quần chúng và thanh niên tham dự.
- Phát triển mạnh và nâng cao phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng. Củng cố các đội văn nghệ nghiệp dư. Đẩy mạnh sinh hoạt câu lạc bộ với nhiều thể loại phong phú. Có tác dụng thúc đẩy cho việc cải tạo và xây dựng xã hội mới, con người mới.
- Chú ý đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ công tác nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên làm công tác thông tin tuyên truyền văn hóa, văn nghệ. Cứ 6 tháng có họp sơ kết và phổ biến kinh nghiệm.
2- Về công tác giáo dục:
Tổ chức thực hiện tốt cải cách giáo dục phổ thông theo sự chỉ đạo của Thành ủy.
a)- Về phổ thông:
Nhanh chóng củng cố hệ thống trường lớp theo yêu cầu giáo dục XHCN. Hai năm tới hoàn thành hệ thống trường phổ thông cơ sở của Quận bằng cách ghép lại hoặc nâng lên. Dự kiến nâng 3 trường cấp I thành phổ thông cơ sở, hoàn chỉnh 2 trường. Xin xây dựng 1 trường mới ở khu vực phường 11, 12. Vì 1 trường ở đây nằm trong diện giải tỏa công viên Bình Tiên. Trường Bình Phước mở rộng lên thành trường cấp II và trước mắt ghép trường Phạm Văn Chí và Bình Phước. Dời trường Phạm Văn Chí vì không hợp vệ sinh điều chỉnh học sinh học theo khu vực.
Đưa lao động sản xuất vào nhà trường. Có kế hoạch nuôi heo, nuôi cá, trồng trọt ở một số trường có điều kiện như trường Phú Định. Giúp vốn và tổ chức sản xuất dụng cụ học sinh bằng nhựa phế thải (trường Đoàn Kết) những trường cấp II nơi nào có đất thì xây dựng vườn sinh vật, địa lý, nơi không đất thì làm chậu treo. Phát động học sinh sửa sang bàn ghế, trồng thuốc Nam, giữ vườn, trường.
b)- Bổ túc văn hóa:
Cuối năm 1977 cán bộ, công nhân viên nâng toàn bộ số có trình độ cấp I lên cấp II. Cấp II lên cấp III. Củng cố và mở thêm các lớp BTVH tập trung và tại chức, tạo điều kiện cho 126 cán bộ đang có trình độ cấp I hoàn thành chương trình cấp II trong 2 năm. Hình thành 5 khu vực BTVH. Trong BTVH đặc biệt cần dồn sức cho cán bộ chủ chốt, thực hiện nghiêm chỉnh nội quy dành cho 3 tối trong tuần cho học BTVH. Cán bộ đảng viên xem học BTVH như là quyền lợi đồng thời là nhiệm vụ. Đưa tất cả số đồng bào đã xóa mù chữ vào lớp BTVH.
c)- Mẫu giáo:
Hiện nay số trẻ em từ 3 đến 5 tuổi chiếm 15.500 em. Yêu cầu mỗi phường ít nhất phải có 1 - 2 trường mẫu giáo từ 10 đến 15 lớp chứa 750 em. Tuyên truyền giải thích nhân dân đưa con em đến trường mẫu giáo 100%. Phấn đấu đến cuối năm 1978 công lập hóa các trường mẫu giáo.
d)- Về giáo viên:
Tiếp tục giáo dục tích cực thường xuyên cải tạo số giáo viên mới giải phóng, đồng thời vừa chăm sóc đời sống họ, tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý ngành giáo dục, đặc biệt chú ý cán bộ giảng dạy chính trị. Tạo điều kiện cho công đoàn giáo dục Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh hoạt động vào quy chế và tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý trường học.
Củng cố lại Ban giám hiệu trường. Điều chỉnh lại lực lượng giáo viên (giữa yếu và khá để kiềm cặp). Các giáo viên mẫu giáo đều qua các lớp chuyên môn.
e)-Biện pháp:
Phòng Giáo dục nghiên cứu tăng cường điều chỉnh các Ban giám hiệu các trường thành lập kiểm tra chéo nhau. Tăng cường chỉ đạo chuyên môn. Mời cán bộ trên xuống bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trước mắt bồi dưỡng quản lý nhà trường, cho tham gia các trường bạn để học hỏi rút kinh nghiệm.
Từ nay đến hết năm 1978 xóa không còn trường yếu và nâng 50% khá toàn diện, 10 trường cấp I, II phát triển 10 đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
3- Công tác y tế, bảo vệ bà mẹ trẻ em và TDTT:
Công tác y tế và TDTT phải tích cực góp phần nâng cao sức khỏe và bồi dưỡng thể lực của nhân dân.
Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch, áp dụng chặt chẽ các quy chế vệ sinh. Tích cực khắc phục tình trạng nhiễm nước ở các kinh Bà Lài, Lò Gốm, rạch Ông Buông, kinh Hàng Bàng với biện pháp nạo vét lòng kinh và bố trí lại chỗ ăn, ở. Phải kịp thời ngăn chặn, bao vây dập tắt các ổ dịch, tập trung giải quyết các bệnh xã hội, lao cùi, hoa liễu...
Hoàn chỉnh và củng cố mạng lưới ytế cơ sở. Đảm bảo mỗi khu vực 30.000 dân có một phòng khám đa khoa và 01 nhà vệ sinh, củng cố tốt 04 phòng khám khu vực và 2 nhà vệ sinh. Trong năm 1977 xây dựng 01 tổ cấp cứu trung tâm, 01 phòng khám và trị các bệnh xã hội, xây dựng 01 phòng khám đông y thành 01 trung tâm đông y châm cứu, đẩy mạnh việc trồng cây thuốc Nam và phát động sử dụng thuốc Nam trong quần chúng, kết hợp đông y, tây y trong điều trị.
- Phối hợp chặt chẽ với Sở Y tế cải tạo và sử dụng các nhà thuốc đông, tây y, xây dựng các tổ hợp bán thuốc Bắc và Nam. Củng cố và phát triển 04 cửa hàng được quốc doanh theo phòng khám khu vực, 20 phường phải hoàn thành xong Hội Chữ thập đỏ từ nay đến cuối năm 1977.
- Nhanh chóng phát triển màng lưới bảo vệ bà mẹ trẻ em xuống cơ sở, xây dựng củng cố mạng lưới nhà trẻ đến cuối năm 1978 mỗi phường được 02 nhà trẻ hoàn chỉnh để tạo điều kiện cho các cháu đều được gửi nhà trẻ. Các cô giữ trẻ đều phải qua 1 lớp giữ trẻ. Đẩy mạnh phong trào vận động sanh đẻ có kế hoạch. Giữ tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên không quá 2,5 bảo đảm cuối năm 1978 dân số toàn Quận còn khoảng 130.000. Xây dựng 01 phòng khám và chữa bệnh sản phụ khoa. Phát động và giữ vững phong trào TDTT xã hội chủ nghĩa lành mạnh rộng rãi trong các trường lớp, quần chúng nhất là trong thanh thiếu niên. Ở các trường học, xí nghiệp, cơ quan, đơn vị... giữ vững đẩy mạnh và đưa vào nề nếp phong trào thể dục buổi sáng, thể dục đồng diễn. Củng cố hoàn chỉnh phòng TDTT Quận và 20 phường, đào tạo bồi dưỡng huấn luyện viên cho cơ sở và cho các môn thể thao, xây dựng 03 khu vực TDTT (hoàn thành khu vực TDTT bót Nguyễn Văn Sâm cũ năm 1977).
Quận xây dựng hình thành 2 đội bóng đá, 2 đội bóng chuyền, 2 đội bóng bàn, đội bơi lội củng cố nâng cao chất lượng các đội bóng rổ, đào tạo vận động viên trẻ.
Các đoàn thể chi đoàn thanh niên và mỗi phường đều có các đội bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, bơi lội.
Chú ý giáo dục bồi dưỡng chính trị nâng cao trình độ nghệ thuật và tác phong đạo đức XHCN cho các vận động viên.
Cải tạo các cơ sở kinh doanh thể dục, thể thao của tư nhân chuyển hóa các phương tiện kinh doanh này phục vụ cho sinh hoạt công cộng.
5- Công tác thương binh xã hội:
Đẩy mạnh công tác xác nhận thương binh liệt sĩ, gia đình có công cách mạng trong năm 1977 hoàn thành cơ bản 80% và hoàn thành dứt điểm cuối năm 1978 thi hành đúng chính sách của Đảng, Nhà nước đối với TBLS. Phát động phong trào quần chúng rộng rãi chăm sóc giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công cách mạng, gia đình nghèo, trẻ mồ côi, người già neo đơn, tàn tật. Thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ công nhân viên chức về hưu, quân nhân phục viên, chuyển ngành, nhất là đối với cán bộ đã đóng góp nhiều cho cách mạng. Phòng TBXH cần kết hợp với phường, sâu sắc theo dõi có kế hoạch giúp đỡ từng trường hợp cụ thể, nghiên cứu xây dựng đài liệt sĩ của Quận.
Cùng với y tế, công an và các đoàn thể nắm chắc số lượng, tập trung giáo dục cải tạo tại chỗ, ngăn ngừa các tệ trạng xã hội, ăn xin, trẻ bụi đời, nghiện xì ke, ma túy, gái điếm, số đối tượng nhẹ không nguy hiểm sẽ do các đoàn thể quần chúng mà thanh thiếu niên, phụ nữ đóng vai trò nòng cốt. Số chuyên nghiệp cần tập trung đưa đi cải tạo cuối năm 1978, cơ bản xóa xong tệ nạn xã hội.
IV-CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP, ĐẢM BẢO THỰC HIỆN LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG:
1- Củng cố và tăng cường chính quyền Quận và phường:
Thông qua bầu cử HĐND lần này mà củng cố UBND nhất là cấp phường phải tôn trọng, sử dụng đầy đủ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan dân cử, đảm bảo các đại biểu HĐND có điều kiện hoạt động thiết thực, khẩn trương đào tạo đủ số cán bộ công nhân viên đáp ứng nhu cầu công tác trong 2 năm tới. Phải xin và đào tạo thêm số cán bộ cần thiết: 5 trưởng phòng, 6 phó phòng, 7 phó chủ tịch phường, 8 ủy viên thư ký phường, khoảng có 30 cán bộ có khả năng nghiệp vụ đảm trách các cửa hàng trung tâm chuyên doanh và quản lý ngành lương thực và hàng ngàn nhân viên có trình độ nghiệp vụ các loại. Chú ý tinh giản bộ máy hành chánh tăng cường và chỉ đạo thực hiện ở cơ sở. Củng cố các tổ dân phố. Chú trọng bồi dưỡng chính trị, đường lối, chủ trương, biện pháp làm việc cho tổ trưởng, tổ phó dân phố, có chi phí hội nghị giải quyết giấy bút tạo điều kiện thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ nặng nề sắp tới. Củng cố các ủy ban phường, nâng trình độ các đ/c chủ tịch biết phát huy đúng mức vai trò chức năng của mình, biết nguyên tắc lề lối làm việc, không dẫm chân vào các tổ chức khác. Phải hiểu rõ mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và nhân dân làm chủ; chính quyền phải làm tốt vai trò của mình là phải thực hiện đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng vừa phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Cần tiếp tục phát huy phong trào nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, giữ vững chế độ cơ quan chính quyền (cả các cơ quan quản lý kinh tế) tự phê bình trước quần chúng với nội dung chuẩn bị kỹ, có tác dụng tốt trong nhân dân và phải hướng dẫn nhân dân tự phê bình góp ý nhau giải quyết những vấn đề xảy ra trong nội bộ, xây dựng thái độ đúng đắn làm tròn nghĩa vụ người dân đối với chính quyền cách mạng.
Phải sâu sắc quần chúng, dựa vào quần chúng, thu thập ý kiến quần chúng đối với các chủ trương chính sách của ta. Chống bịnh quan liêu cửa quyền và phải có kỹ luật nghiêm minh với cán bộ xấu: móc ngoặc, ăn hối lộ, trộm cắp của công. Khen thưởng, bồi dưỡng những cán bộ, nhân viên tốt, tận tụy hết sức phục vụ cho dân, phải dựa vào quần chúng tích cực thường xuyên kiểm tra ngăn ngừa thanh lọc những phần tử xấu vào tổ chức chính quyền, hoặc những cán bộ mất phẩm chất. Các cơ quan hành chánh, kinh tế cần nghiên cứu bỏ bớt 1 số thủ tục giấy tờ làm phiền dân.
Trước mắt phòng tổ chức chính quyền cần kiện toàn đủ cán bộ có năng lực đảm trách công tác quản lý, điều phối, tổ chức biên chế chính quyền toàn Quận.
Tăng cường công tác thi đua đề cao gương người tốt, việc tốt. Động viên khen thưởng kịp thời, chính xác, phát huy tinh thần tích cực của cán bộ nhân viên và quần chúng.
2- Củng cố và tăng cường lực lượng quân sự, công an, các cơ quan kiểm sát, toà án, tăng cường pháp chế XHCN ngày càng vững mạnh đủ sức giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội thực sự là công cụ đấu tranh giai cấp của Đảng:
a)- Quân sự:
Để thực hiện được nhiệm vụ công tác quân sự địa phương phải đảm bảo những yêu cầu trong tâm sau:
1)- Hợp đồng chặt chẽ với công an, với các đơn vị bạn đóng trong Quận: thực hiện truy quét cao điểm và thường xuyên truy gom bọn lưu manh trộm cướp, bọn ác ôn phản động lẫn trốn, tổ chức quân báo nhân dân để theo dõi nắm chắc tình hình, ngăn chặn kịp thời đập tan những âm mưu phá hoại bạo loạn chính trị, vũ trang, các tổ chức hoạt động gián điệo để đảm bảo an ninh trật tự chính trị xã hội an toàn.
2)- Tích cực tham gia công tác cải tạo và xây dựng CNXH, tham gia góp sức tuyên truyền vận động đồng bào hồi hương, xây dựng kinh tế mới, tham gia chỉ đạo tổ chức quân sự hóa đến lực lượng nhân dân đi xây dựng kinh tế mới.
3)- Đầu tháng 6/1977 tiến hành tổ chức huấn luyện đào tạo 70 dân quân tự vệ chiến đấu của các phường để đào tạo trở thành cán bộ tiểu và trung đội, để đảm bảo thực hiện kế hoạch phát triển 600 tự vệ tập trung cho cấp phường bình quân mỗi phường 30 người. Ngay từ nay tiếp tục có kế hoạch từng bước 3 tháng, 6 tháng để tiếp tục huấn luyện nâng cao hiểu biết về chính trị tư tưởng và chiến kỹ thuật cho dân quân tự vệ tập trung, các phường và tự vệ rộng rãi.
4)- Thực hiện tốt chế độ công tác NVQS và tuyển quân. Tích cực nghiên cứu chọn lựa số cán bộ đoàn thể cấp phường để đảm bảo bổ sung đủ cho chỉ huy phường đội sắp tới đủ 3 đ/c (01 cán bộ, bộ đội + 2 cán bộ ở đoàn thể sang) trước mắt sẽ báo cáo Thường vụ Quận ủy danh sách hồ sơ 32 người mới xét duyệt xong.
5)- Công tác tăng gia sản xuất năm 1977 bảo đảm chỉ tiêu do cấp trên đề ra. Trước mắt thực hiện canh tác 50 ha ruộng ở Đồng Tháp, đơn vị từng bước có kế hoạch đưa 1 bộ phận lực lượng tập trung của Quận đi triển khai xây dựng nông trường cầu An Lạc Bộ Tư lệnh Thành đã giao 20 ha.
6)- Kết hợp chặt với Phòng thương binh liệt sĩ để tiến hành giải quyết tốt các công tác chính sách trước mắt công tác thương binh liệt sĩ. Đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, chiến sĩ và trong lực lượng tự vệ.
b)- Công an:
- Đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc cả trong nội bộ cơ quan, xí nghiệp, trường học và các tổ dân phố bằng thông qua các đợt sinh hoạt chính trị thực hiện các chủ trương chính trị công tác và thực hiện các điều nội quy, quy ước nhằm giáo dục cán bộ, công nhân viên, nhân dân nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tích cực tham gia công tác đấu tranh chống bọn phản cách mạng, bảo vệ tài sản XHCN và an toàn xã hội. Phải thường xuyên kiểm tra đôn đốc thực hiện có hiệu quả, đảm bảo cứ 6 tháng sơ kết, cuối năm tổng kết, toàn Quận có từ 1 đến 2 phường, 1 cơ quan, 1 xí nghiệp, 1 trường học, là lá cờ đầu, mỗi phường phải có từ 1 đến 2 tổ dân phố là điển hình, đảm bảo hết năm 1977 có 20% đơn vị có phong trào khá, cuối năm 1978 có 40 đơn vị khá.
Củng cố khối nội chính vững mạnh về nội dung sinh hoạt tham mưu tốt cho cấp ủy trong trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm hình sự, trong việc giáo dục và thực hiện pháp chế XHCN.
Về thực hiện các biện pháp nghiệp vụ: điều tra nắm tình hình cơ bản các loại đối tượng tội phạm có hiệu quả (tập trung cải tạo quản chế và cải tạo tại chỗ). Kịp thời phát hiện ngăn chặn âm mưu và hành động của bọn phản cách mạng, chú ý chống các hoạt động tình báo gián điệp. Phải làm giảm hẳn 50% các vụ trọng án hình sự, giải quyết tốt trật tự công cộng làm cho tình hình các mặt công tác được ổn định. Có kế hoạch phối hợp các ngành, đoàn thể cải tạo 70% tệ nạn xã hội. Quản lý hộ khẩu vào nề nếp: giáo dục hướng dẫn nhân dân làm tốt công tác khai báo tạm trú tạm vắng, chia ô và khu vực nắm cụ thể từng nhà, từng gia đình, từng người. Có kế hoạch quản lý vũ khí và các ngành nghề kinh doanh có liên quan đến trật tự an toàn xã hội. Hoàn thành công tác cấp giấy chứng minh cho cán bộ và nhân dân trong Quận. Xây dựng công tác tàng thư căn cước. Hoàn thành việc lập Ban bảo vệ dân phố ở các phườngđến cuối năm 1977.
Bảo vệ bội bộ: làm trong sạch và thuần khiết nội bộ (chống nội gián), kết hợp với các cơ quan tổ chức, kiểm tra, thanh tra bảo vệ Đảng, có kế hoạch xác minh kết luận các trường hợp bị bắt bị tù chưa xử lý đứt liên lạc chưa rõ ràng. Tiến hành các thủ tục xét duyệt cán bộ các cơ quan, công nhân xí nghiệp.
Xây dựng củng cố lực lượng công an là công cụ chuyên chính sắc bén của Đảng vững về chính trị giỏi về nghiệp vụ, có khoa học và kỹ thuật, có cơ sở quần chúng rộng khắp, hết sức tôn trọng sinh mạng, tài sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Chú ý phát huy tác dụng cảnh sát khu vực, lực lượng bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, lực lượng dân phòng. Đảng phải lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, phải chăm lo, bồi dưỡng giáo dục lực lượng công an nhân dân và ngành công an phải chấp hành sự chỉ đạo thống nhất của ngành dọc và chịu sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp của cấp ủy địa phương. Đến cuối năm 1978 phát triển 30 đoàn viên, 12 đảng viên (Đảng ủy cơ quan).
c)- Cần tăng cường và củng cố đủ biên chế và có chất lượng các cơ quan kiểm sát, tòa án, thanh tra và ban tư pháp 20 phường để có đủ khả năng giám sát việc thi hành pháp luật Nhà nước, xét xử kịp thời các vụ vi phạm pháp luật Nhà nước vi phạm các quyền tự do dân chủ của nhân dân, giải quyết kịp thời các vụ kiện thưa, tránh tồn đọng quá lâu.
Cần tổ chức tốt việc học tập, hướng dẫn thi hành nghiêm chỉnh những sắc luật, nghị định, pháp luật của Quốc hội và Chính phủ. Cán bộ đảng viên phải gương mẫu, coi đó là kỹ luật của Đảng.
Hoàn chỉnh tổ chức thanh tra nhân dân ở cơ sở, phát huy hình thức hòa giải trong nhân dân. Tôn trọng quyền tố giác, khiếu nại của quần chúng. Các cơ quan chính quyền phải đặt dưới sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan dân cử. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến những quyền lợi chính đáng của nhân dân.
3- Phát huy vai trò, chức năng nhiệm vụ của các đoàn thể trong việc thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
Xác lập và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là một yêu cầu chủ yếu của chuyên chính vô sản có tính chất quyết định đối với công tác cải tạo xã hội và xây dựng XHCN, nó phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực ở tất cả các ngành, các cấp.
Cần tập trung hơn nữa công tác chăm lo đời sống cho quần chúng về vật chất lẫn tinh thần, tạo điều kiện tốt cho khâu tuyên truyền giáo dục giác ngộ quần chúng, nâng cao ý thức giai cấp, giác ngộ XHCN phát động tư tưởng phải đi đôi với hướng dẫn hành động. Cụ thể là hướng dẫn cho quần chúng biết sử dụng quyền làm chủ của mình một cách toàn diện. Song cũng phải hướng dẫn cho quần chúng thực hiện được nghĩa vụ của mình. Các đoàn thể cần xác định yêu cầu, nội dung từng thời gian trong tuyên truyền vận động giới mình, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các đoàn thể và giữa các đoàn thể với chính quyền và các ban ngành liên quan. Sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với chính quyền và đoàn thể là nhân tố có tính chất quyết định đảm bảo tính dân chủ thực sự của Nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời đảm bảo đường lối chính sách của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động được thực hiện đầy đủ, đúng đắn.
V-PHÁT HUY VAI TRÒ NÒNG CỐT CỦA CÁC ĐOÀN THỂ, ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG SÂU RỘNG VÀ LIÊN TỤC CỦA CÁC TẦNG LỚP QUẦN CHÚNG:
Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong 2 năm 1977 - 1978 là hết sức to lớn. Nhiệm vụ trên có thể hoàn thành khi nó biến ra thành phong trào hành động cách mạng của quần chúng.
Thế nên nhiệm vụ của công tác dân vận mặt trận trong 2 năm 1977 - 1978 phải làm tốt chức năng: Trung tâm đoàn kết, giáo dục, phát động các tầng lớp quần chúng. Chủ yếu là quần chúng lao động, phát huy cao độ quyền làm chủ tập thể của mình đi vào các phong trào hành động cách mạng trung tâm là phong trào cần kiệm lao động sản xuất xây dựng XHCN. Những phong trào hành động cách mạng trên từng bước phải đưa lên thành cao trào vững chắc, phải nhằm mục tiêu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng là cải tạo XHCN và xây dựng CNXH.
1- Về chính trị, tư tưởng:
Ba đoàn thể công đoàn, thanh niên, phụ nữ và mặt trận phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nhằm nâng cao giác ngộ XHCN cho quần chúng. Nhất trí với chủ trương cải tạo XHCN và xây dựng CNXH của Đảng. Đồng thời nâng cao ý thức làm chủ tập thể cho quần chúng. Đưa quần chúng hăng hái đi vào thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi của người công dân, thực hiện nếp sống văn hóa mới.
Ngoài những yêu cầu trên từng đoàn thể và mặt trận phải giáo dục thêm những nội dung sau đây cho giới mình.
a)- Công đoàn đi sâu giáo dục, nâng cao giác ngộ giai cấp cho quần chúng công nhân. Chú trọng công nhân người Hoa. Để công nhân nhận rõ bộ mặt bóc lột của giai cấp tư sản. Nhất là tư sản người Hoa hay cùng dùng thủ đoạn lợi dụng đồng tôn, đồng tộc để mua chuộc lôi kéo công nhân. Qua đó đưa công nhân thực sự trở thành lực lượng nòng cốt tham gia vào cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
b)- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải tăng cường giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên. Nâng cao giác ngộ 3 nghĩa vụ: lao động, học tập và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng cho thanh niên quan điểm đúng đắn về hôn nhân, gia đình, tình bạn và tình yêu. Thanh niên phải là lực lượng nòng cốt xung kích tiến quân vào 3 cuộc cách mạng.
c)- Phụ nữ phải nắm cho được diễn biến tư tưởng của chị em tiểu thương, nhất là tiểu thương người Hoa trong toàn Quận, tập trung ở 7 chợ. Giáo dục cho chị em đồng tình với chủ trương cải tạo công thương nghiệp của ta. Đại bộ phận chị em chuyển sang lao động sản xuất. Giáo dục cho chị em tinh thần trách nhiệm phục vụ tốt trong khâu phân phối lương thực, thực phẩm và lợi ích của kế hoạch hóa gia đình.
d)- Mặt trận phải tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong giới công thương gia, chú trọng đồng bào Hoa, hưởng ứng chủ trương cải tạo thương nghiệp tư bản tư doanh và chính sách đối với tư sản công nghiệp. Mở rộng tập hợp, đoàn kết nhưng cũng kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng tiêu cực càn trở bước đường đi lên XHCN của giai cấp tư sản. Chú trọng giáo dục nâng cao truyền thống đoàn kết Hoa - Việt trong chống Mỹ cứu nước vào xây dựng XHCN để xóa bỏ những hiểu lầm vướng mắc do địch gây ra trước đây.
Để thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho quần chúng, các đoàn thể và mặt trận phải đi sát xuống cơ sở kịp thời nắm mọi diễn biến của quần chúng qua từng chủ trương chính sách của ta. Mỗi tổ chức phải xây dựng được hệ thống thông báo tin của mình và đưa quần chúng đi vào sinh hoạt thường kỳ, phối hợp tốt với tuyên huấn Đảng và thông tin văn hóa để làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục.
2- Về phong trào tổ chức:
Tất cả các phong trào hành động cách mạng của quần chúng đều phải nhằm vào thực hiện hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch của Đảng bộ đã vạch ra trong 2 năm 1977 - 1978.
a)- Công đoàn cần đẩy mạnh phát động cho công nhân phong trào giành 3 điểm cao trong sản xuất nhằm đạt: Năng suất lao động cao chất lượng sản phẩm tốt và tiết kiệm nhiều, kề bên đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Đưa công nhân vào hành động, cụ thể tham gia quản lý xí nghiệp và nòng cốt thúc đẩy thực hiện chủ trương cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Sau cải tạo, công nhân phải là lực lượng nhanh chóng xây dựng tiếp theo. Đảm bảo ổn định và phát triển sản xuất.
Mặt khác công đoàn phải nâng cao và mở rộng các phúc lợi tập thể nhằm chăm lo cải thiện thời sống cho nhân dân, cải thiện điều kiện lao động tăng cường các biện pháp phòng hộ lao động và thực hiện tốt chính sách tiền lương, tiền thưởng để kích thích sản xuất.
- Công đoàn phải xây dựng tổ chức trong toàn bộ xí nghiệp của Quận. Củng cố nâng cao vai trò năng lực hoạt động của các công đoàn đã có. Phát triển 90% đoàn viên ở các xí nghiệp tư doanh và 100% đoàn viên ở xí nghiệp quốc doanh và cơ quan. Công đoàn phải có trách nhiệm nâng chất bồi dưỡng giới thiệu sang Đảng kết nạp nhiều công nhân ưu tú sang Đảng.
b)- Đoàn Thanh niên phải phát động đưa thanh niên nòng cốt, xung kích đi vào 4 phong trào hành động cách mạng: Lao động sản xuất, bảo vệ tổ quốc, học tập và thực hiện nếp sống văn hóa mới. Thanh niên phải hết sức tập trung đưa phong trào lao động sản xuất lên cao, trong nhà máy thanh niên phải nòng cốt trong phong trào tăng năng suất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Thực hiện tốt chủ trương phân bố lại lực lượng lao động. Chủ yếu là vận động thanh niên thanh niên xung phong vào các công trường thỏ công. Đến cuối năm 1978 đảm bảo giải quyết căn bản nạn thất nghiệp trong thanh niên. Mặt khác Đoàn Thanh niên phải đề xuất và cùng với chính quyền chăm lo các quyền lợi thuộc về giới cho thanh niên như giải trí vui chơi và làm tốt công tác chăm sóc giáo dục thiếu niên, nhi đồng.
Về tổ chức Đoàn thanh niên phải đảm bảo đến hết năm 1978 phải xây dựng cơ sở Đoàn trong toàn bộ xí nghiệp, phát triển thêm 150% đoàn viên so với tổng số hiện nay. Mở rộng Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam đảm bảo quản lý 80% quần chúng thanh niên vào tổ chức. Song song phải triệt để củng cố tổ chức nâng cao chất lượng đoàn viên, mạnh dạn đưa ra khỏi Đoàn những phần tử xấu thoái hóa. Đoàn phải lưu tâm nâng chất bồi dưỡng đoàn viên ưu tú để đảm bảo đến hết năm 1978 phải có 60% số chi đoàn cơ sở giới thiệu được đoàn viên vào Đảng, phấn đấu 70% chi đoàn khá 30% chi đoàn trung bình.
c)- Hội phụ nữ vận động phụ nữ thực hiện tốt 3 phong trào do Thành Hội phát động. Tập trung là phong trào cần kiệm lao động sản xuất vận động đại bộ phận chị em tiểu thương chuyển sang sản xuất, chủ yếu là đi xây dựng vùng kinh tế mới. Mặt khác phát động chị em nâng cao tinh thần phục vụ cho đời sống đồng bào, phối hợp tốt với ngành thương nghiệp trong việc xây dựng 12 cửa hàng trong tâm và 60 cửa hàng khu vực.
- Đến cuối năm 1977 phụ nữ phải xây dựng được 20 nhà trẻ ở 20 phường. Cuối năm 1978 nâng lên mỗi phường 2 nhà trẻ. Phát động 90% hội viên phụ nữ đều có sổ tiết kiệm. Bình quân 30 đồng/người/năm.
- Phát động chị em hưởng ứng phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới "Nuôi con khỏe, dạy con ngoan" thực hiện nam nữ bình đẳng. Cuối năm 1977 có 25% hội viên phụ nữ đăng ký sinh đẻ có kế hoạch. Cuối năm 1978 nâng lên 50% phụ nữ toàn Quận đăng ký. Đồng thời chăm sóc tốt các quyền lợi thuộc về giới cho chị em để chị em có điều kiện làm tròn bổn phận người công dân và người mẹ.
Đến cuối năm 1978 phụ nữ phải phát triển 80% hội viên trên tổng số phụ nữ toàn Quận. Chú trọng phát triển hội viên trong phụ nữ người Hoa.
d)- Mặt trận phải đi sâu vào vận động người Hoa, đồng bào các tôn giáo và trí thức, tích cực hưởng ứng tốt chủ trương cải tạo XHCN, xây dựng CNXH, tham gia vào lao động sản xuất để góp phần xây dựng đất nước. Mặt khác mặt trận phải mở rộng các hoạt động để tạo điều kiện cho quần chúng tham gia tốt vào việc xây dựng, củng cố và giám sát hoạt động của các cơ quan dân cử. Cùng với các đoàn thể và HĐND các cấp đi sâu tìm hiểu, phản ảnh kịp thời cho Đảng những tâm tư nguyện vọng của quần chúng.
Đến cuối năm 1977 mặt trận phải bầu cử dân chủ lại từ Quận đến phường. Tổ chức mặt trận phải lấy tổ chức của cơ sở của 3 đoàn thể công, thanh, phụ để làm nền tảng cho tổ chức của mình.
3- Biện pháp:
a)- Chú trọng đẩy mạnh công tác đào tạo huấn luyện 1 đội ngũ cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách làm công tác dân vận mặt trận trong Quận. Mạnh dạn đầu tư gởi cán bộ dân vận đi học lâu dài để có kế tục trong thời gian tới.
b)- Ba đoàn thể phải chọn cho mình mỗi loại cơ sở của mình có trách nhiệm. Một điểm để chỉ đạo rút kinh nghiệm. Riêng ở phường tất cả đều phải tập trung vào phường 17 là phường Quận ủy sẽ chỉ đạo điểm toàn diện để rút kinh nghiệm phổ biến các nơi.
c)- Tổ chức lãnh đạo tốt phong trào thi đua khắp các cơ sở. Trung tâm là hưởng ứng thi đua do chính quyền phát động. Phải theo dõi chặt, sơ tổng kết khen thưởng và phát huy sáng kiến, phổ biến kinh nghiệm kịp thời.
d)- Các đoàn thể, mặt trận phải thống nhất chương trình hành động với nhau và phối hợp tốt với chính quyền, các phòng ban, thường xuyên mở những hội nghị liên tịch để giải quyết những mắc mứu và tạo điều kiện hỗ trợ cho nhau.
e)- Tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất nhằm tạo thuận lợi cho các đoàn thể, mặt trận hoạt động như: trụ sở, trường hợp, câu lạc bộ... Quan tâm chăm sóc đời sống thực hiện tốt chế độ tiêu chuẩn cho cán bộ chuyên trách công tác dân vận ở cơ sở theo quy định của Ban Tổ chức Thành ủy.
f)- Sắp tới Quận ủy sẽ phân công 01 ủy viên thường vụ phụ trách công tác mặt trận dân vận, có một số cán bộ giúp việc. Các cấp ủy cơ sở cũng phải phân công thường trực hoặc 01 cấp ủy viên phụ trách. Những đ/c được phân công phải chuyên trách hoặc giành phần lớn thời gian làm công tác đó.
Đẩy mạnh công tác dân vận mặt trận là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ I và Nghị quyết của Quận Đảng bộ lần này.
Các cấp ủy Đảng nhất là cấp ủy cơ sở, phải hết sức quan tâm lãnh đạo công tác dân vận mặt trận. Xây dựng cho các đoàn thể mặt trận vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức. Chính quyền nhất là chính quyền cơ sở. Phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đoàn thể, mặt trận hoạt động thuận lợi. Cấp ủy và chính quyền cần nhanh chóng khắc phục tình trạng xem nhẹ công tác dân vận mặt trận: hạ thấp chức năng vai trò của các đoàn thể xuống, sử dụng như một công cụ nhất thời.
VI-TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ CẢI TIẾN LỀ LỐI LÀM VIỆC:
Trên cơ sở phát huy hơn nữa những ưu điểm, thành tích đã đạt được và khắc phục những thiếu sót, nhược điểm công tác xây dựng Đảng bộ trong 2 năm tới tập trung vào các vấn đề sau:
1- Về công tác tư tưởng:
a)- Phải tạo được sự chuyển biến trong nhận thức tư tưởng của cán bộ đảng viên về tình hình và nhiệm vụ mới được vạch ra trong Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Quận.
Làm cho cán bộ, đảng viên quán triệt tinh thần và nội dung của Nghị quyết đại hội Quận Đảng bộ lần này là Nghị quyết đấu tranh giữa 2 giai cấp và 2 con đường tư bản chủ nghĩa và XHCN. Nhất trí cao với phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu của đại hội đã vạch ra, biến nghị quyết đại hội thành hành động cách mạng, thành phong trào cách mạng liên tục sôi nổi của quần chúng. Cán bộ đảng viên phải nắm vững nghị quyết để tuyên truyền giáo dục quần chúng và phải là những người đi đầu lôi kéo quần chúng thực hiện cho kỳ được những nhiệm vụ và chỉ tiêu mà đại hội vạch ra.
Để đạt yêu cầu trên, phải thực hiện đúng như Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố là tiến hành 1 đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt có tính chất chỉnh huấn trong nội bộ Đảng. Trong đợt sinh hoạt này phải giải quyết thật sâu sắc những vấn đề về quan điểm, lập trường trong việc đánh giá tình hình đã qua và nhận thức những nhiệm vụ, mục tiêu sắp tới của Đảng bộ, phải kiểm điểm phê phán mọi tư tưởng và hành động cản bước tiến lên của công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXH, tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.
b)- Phải giáo dục cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần phương hướng tư tưởng đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV vạch ra mà Đại hội Đảng bộ Thành phố đã ghi lại trong nghị quyết.
"Phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiểu tư sản mà biểu hiện phổ biến về mặt chính trị là sự dao động, hữu khuynh và "tả" khuynh mà hữu khuynh là chủ yếu, về mặt ý thức là chủ nghĩa cá nhân với nhiều màu sắc, về mặt phương pháp là chủ nghĩa chủ quan, một chiều. Phải kiên quyết đấu tranh chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và những tàn dư tư tưởng phong kiến trong cán bộ, đảng viên".
Phải thường xuyên giáo dục nâng cao phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên lấy gương cần - kiệm - liêm - chính - chí công - vô tư của Hồ Chủ tịch để giáo dục cho cán bộ đảng viên. Phải ngăn chặn và đẩy lùi tình hình cán bộ đảng viên thoái hóa, biến chất, chống tham ô, móc ngoặc, công thần địa vị, tự kiêu, đòi hỏi hưởng thụ, tự tư, tự lợi, giảm sút chí chiến đấu. Chống tư tưởng cơ hội, khắc phục những biểu hiện thiếu cảnh giác cách mạng trong cán bộ đảng viên.
Để thực hiện được những nội dung, yêu cầu về công tác tư tưởng trên đây, các lần sinh hoạt định kỳ của cấp ủy và chi bộ phải có phần kiểm điểm về các nội dung đó, phải xây dựng thành nề nếp tự phê và phê bình của các cấp ủy viên và đảng viên.
Mặt khác, giáo dục cho quần chúng có ý thức trách nhiệm trx trong việc góp phần xây dựng Đảng bằng cách góp ý về sự lãnh đạo chi bộ và giám sát, kiểm tra tư cách cán bộ đảng viên.
2- Công tác tổ chức:
a)- Đối với cấp ủy cơ sở và ban ngành: Tăng cường dồn sức xây dựng cơ sở đồng thời phải kết sức quan tâm chú ý xây dựng ngành mới đi sâu quản lý kinh tế - hành chánh.
- Trong xí nghiệp tăng cường sự lãnh của Quận ủy đối với các chi bộ xí nghiệp hiện có, tập trung sức giúp cho công đoàn và Đoàn Thanh niên hoạt động, qua phong trào quần chúng trong xí nghiệp mà chọn đối tượng bồi dưỡng cốt cán để phát triển Đảng.
Trong 2 năm tới hình thành cho được chi bộ trong những xí nghiệp quốc doanh phấn đấu xây dựng chi bộ trong xí nghiệp, công tư hợp doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp hoặc ít nhất cũng xây dựng được hạt nhân để tiến tới hình thành chi bộ.
Chọn kết nạp 50 đảng viên trong số trên 8000 đoàn viên công đoàn và 250 đoàn viên TNCS trong xí nghiệp hiện nay.
Ban Tổ chức Quận ủy phân công cán bộ bám sát giúp Quận nắm tình hình và chỉ đạo công tác xây dựng Đảng ở xí nghiệp. Ở những nơi chưa có chi bộ, Ban Tổ chức phải kết hợp với công đoàn, Đoàn TNCS chọn đối tượng, giáo dục, bồi dưỡng và Quận ủy trực tiếp kết nạp đảng viên mới. Đối với chi bộ phường: Quận ủy phải giúp cho phường xác định nhiệm vụ trong 2 năm tới, trên cơ sở đó, bố trí cho được các đ/c cốt cán lãnh đạo bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phụ trách công an, quân sự, dân vận có đủ năng lực phẩm chất đảm bảo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chỉ tiêu đã đề ra.
Phải tiến hành 01 đợt củng cố toàn diện, đồng bộ ở cấp phường nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức thực hiện của chi bộ phường, Quận ủy phải giúp cho phường nắm vững đường lối, chính sách về cải tạo và xây dựng CNXH, kết hợp với tình hình thực tế của từng phường đề ra cho được những nhiệm vụ, biện pháp và chỉ tiêu thật cụ thể có kế hoạch phân công cho từng ban ngành, đoàn thể chính quyền ở cơ sở, khắc phục tình trạng chi bộ yếu kém và nâng tỷ lệ phường khá lên 50%. Mỗi phường phát triển thêm 04 đảng viên mới gồm những phần tử ưu tú trong phong trào quần chúng, trong cải tạo và xây dựng, chú ý phát triển trẻ, nữ.
Quận ủy phải đi sâu đi sát, thiết thực giúp cho chi bộ biết cách sinh hoạt, biết đề ra nghị quyết. Phải hết sức quan tâm việc cải tiến nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ.
- Trong sinh hoạt phải giữ gìn nề nếp tự phê bình và phê bình, thường xuyên trao dồi năng lực công tác, phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ đảng viên.
- Các ban ngành cấp Quận phải thường xuyên đi sâu đi sát giúp đỡ cho từng ngành dọc của mình ở cơ sở. Tranh thủ vận động cán bộ đảng viên của cấp trên đóng ở đất của Quận tham gia sinh hoạt góp ý xây dựng chính quyền, đoàn thể, xây dựng Đảng, giúp đỡ và có trách nhiệm với địa phương. Cán bộ, đảng viên cấp Quận phải xuống sát cơ sở, xuống phường. Cán bộ đảng viên cấp phường sát quần chúng và xuống xí nghiệp tại địa phương mình.
Chi bộ cần tập trung lãnh đạo khâu kinh tế, sản xuất, phân bố lại lao động, phân phối, chăm lo đời sống quần chúng. Đồng thời phải luôn luôn nắm vững công cụ bạo lực của chính quyền vô sản chuyên chính là công an, quân sự.
Các đoàn thể quần chúng còn yếu, cần mạnh dạn bố trí đảng viên tốt qua phụ trách, đi sâu giáo dục quần chúng. Tất cả đảng viên dù ở cương vị công tác nào, ngành nào đều cũng phải làm công tác dân vận, đưa cho được phong trào cách mạng của quần chúng lên liên tục mạnh mẽ.
Quận ủy sẽ lấy phường 17 để chỉ đạo điểm, từ đó rút ra kinh nghiệm chỉ đạo chung.
Các Ban tổ chức, tuyên huấn, trường Đảng có kế hoạch, chương trình cụ thể để giúp cho Quận ủy chỉ đạo các chi bộ phường, xí nghiệp theo yêu cầu đã nêu.
Đối với chi bộ cơ quan, cần xác định rõ chức năng nhiệm vụ lãnh đạo công tác chính trị tư tưởng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị, tăng cường công tác quản lý đảng viên, đẩy mạnh phê bình tự phê bình, phát huy dân chủ nội bộ, đảm bảo, thực hiện mọi kế hoạch chủ trương của đơn vị.
"Không thể thừa nhận bất cứ 01 chi bộ nào tốt mà ở đây, sản xuất không lên, năng suất lao động không tăng, nghĩa vụ đối với Nhà nước không hoàn thành, quyền làm chủ tập thể của quần chúng bị xâm phạm, đời sống quần chúng về mọi mặt không được cải thiện, những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nội bộ không được thực hiện tốt"
b)- Công tác quản lý, đào tạo bồi dưỡng cán bộ:
Lấy phương châm chủ động đào tạo, bồi dưỡng, kèm cặp tại chỗ kết hợp với đưa cán bộ đi học các lớp của Thành và Trung ương.
Trong 2 năm, tất cả cán bộ đảng viên ngoài việc học tập xong các Nghị quyết của Trung ương, Thành ủy và Điều lệ Đảng phải học xong các chương trình lý luận.
Cán bộ chủ chốt ở phường phải học xong chương trình cơ sở.
- Tất cả cán bộ sơ cấp phải học chương trình sơ cấp của Thành.
- Về văn hóa, phải tạo điều kiện cho cán bộ nâng cao trình độ văn hóa.
- Cán bộ chủ chốt ở phường phải học xong cấp I.
- Cán bộ chủ chốt ở các ngành cấp Quận học xong cấp II.
Hết sức chú ý đào tạo bồi dưỡng bằng các lớp tập huấn hội nghị chuyên đề, qua đó sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm báo cáo điển hình và đặc biệt là kèm cặp bồi dưỡng số cán bộ kế cận cho mỗi ngành đảm bảo tính kế thừa trong đội ngũ cán bộ.
Công tác quản lý cán bộ phải đi vào nề nấp, nắm chắc đội ngũ, phát hiện những nhân tố mới xuất hiện trong phong trào quần chúng, đồng thời phân công cán bộ dần dần đi vào chuyên môn hóa, công tác ngành nào phải nắm được những vấn đề cơ bản của ngành mình, từng bước đi sâu chuyên môn nghiệp vụ.
Chú ý bố trí cán bộ cho khu vực hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tiêu thụ và cửa hàng.
Củng cố Ban tuyên huấn, trường Đảng của Quận để đảm bảo thực hiện cho được yêu cầu trên.
c)- Công tác đảng viên:
Có kế hoạch tích cực phát triển đảng viên mới nhằm vào các phần tử ưu tú trong Đoàn Thanh niên cộng sản, công nhân trực tiếp sản xuất, thành phần cơ bản đã được thử thách qua phong trào quần chúng và phải đưa ra quần chúng nhận xét góp ý kiến.
Toàn Quận phải phát triển được 150 đảng viên, nâng tỷ lệ đảng viên tại chỗ từ 13% lên 30%, nâng tỷ lệ đảng viên thành phần công nhân từ 17% lên 20%.
Công tác phong trào Đảng phải lấy chất lượng làm chính, không chạy theo số lượng, đảm bảo các nguyên tắc thủ tục như Điều lệ Đảng đã quy định. Đồng thời phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử xấu, phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất.
Thẩm tra số đảng viên mới kết nạp từ năm 1974 đến nay theo Chỉ thị 235 của Ban Bí thư Trung ương và thực hiện Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị và việc chống tệ nạn tham ô, móc ngoặc, bảo vệ tài sản XHCN.
Xử lý nhanh chóng những vụ sai phạm về phẩm chất đạo đức của đảng viên, xử lý xong số cán bộ đảng viên đứt liên lạc theo sự phân công của Thành.
d)- Tăng cường lãnh đạo của Quận ủy và cải tiến lề lối làm việc từ Quận đến cơ sở:
Phải kiện toàn bộ máy cấp Quận, nhất là các khâu kinh tế các Ban Đảng, tổ chức, tuyên huấn, kiểm tra.
Thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ, phát động cho được phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện mọi chủ trương, kế hoạch của Đảng và Nhà nước. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện công tác chính quyền nhất là ở phường.
Xác định rõ chức trách, chức năng của từng tổ chức và từng cá nhân, vừa thực hiện đúng mức lãnh đạotập thể, vừa tăng cường trách nhiệm cá nhân.
Tăng cường đi sâu đi sát cơ sở, ngoài việc phân công 1 số Quận ủy viên trực tiếp làm bí thư phường, các Quận ủy viên các thực hiện nghiêm túc chế độ đi cơ sở mỗi tuần 3 lần.
Giữ vững sinh hoạt củng cố hệ thống nắm tình hình, thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thỉnh thị kịp thời và chính xác.
Thực hiện chế độ kiểm điểm tập thể và cá nhân đảng viên 6 tháng 1 lần, chú ý phát huy sự đóng góp của quần chúng (qua các đoàn thể) để xây dựng Đảng, xây dựng cán bộ đảng viên.
Từng thời tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để nâng cao năng lực lãnh đạo của các ngành cơ sở.
Các biện pháp công tác trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, là một thể thống nhất, nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu 2 năm 1977 - 1978 của Quận và làm cơ sở vững chắc để ta tiến lên hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ I đã vạch ra.
Nhiệm vụ trên đây hết sức nặng nề nhưng rất vẻ vang. Trên đường thực hiện chúng ta có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn và phức tạp. Chúng ta có đủ nghị lực. Quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
Đại hội kêu gọi tất cả đảng viên cán bộ hãy phát huy ưu điểm kiên quyết khắc phục thiếu sót nhược điểm. Học tập và rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực công tác. Nêu cao vai trò tiền phong, 1 lòng 1 dạ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ trong thành của nhân dân. Đại hội kêu gọi đồng bào Quận 6: Việt và Hoa, tôn giáo và không tôn giáo, công nhân, trí thức, phụ nữ và thanh niên hãy phát huy tinh thần yêu nước, yêu XHCN, đoàn kết chung quanh Đảng. Thi đua đóng góp nhiều nhất cho công cuộc lao động, xây dựng XHCN, xây dựng cuộc sống hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh cho chúng ta và đời đời con cháu mai sau.
QuẬn Ủy 6