Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quận 6 lần thứ II (Từ ngày 27/11 đến 01/12/1979)

Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận 6 lần thứ 2 họp từ ngày 27/11 đến ngày 01/12/1979, nhất trí với nội dung Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa I đọc trước đại hội.

PHẦN I:

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

NGHỊ QUYẾT ĐẢNG BỘ QUẬN 6 LẦN THỨ I (1977 - 1979)

---

Trong 2 năm qua, Đảng bộ Quận 6 lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong tình hình có nhiều điều diễn biến phức tạp:

- Phản ứng quyết liệt và liên tục của các giai cấp thù địch đã bị đánh đổ, kết hợp với hoạt động phản cách mạng của các loại gián điệp tau sai của bọn bành trước Bắc kinh và các bọn đế quốc khác. Chúng phối hợp hoạt động trên mọi lĩnh vực, kể cả gây bạo loạn bên trong và tiến công xâm lược từ bên ngoài hòng phá hoại công cuộc xây dựng CNXH của đất nước ta.

- Hậu quả của cuộc chiến tranh khối liệt kéo dài 30 năm của chủ nghĩa thực dân mới do đế quốc Mỹ áp đặt ở miền Nam trước đây cùng với thiên tai nặng nề liên tiếp khiến cho cuộc sống của nhân dân ta khó khăn chồng chất.

- Do Quận ta trước đây là 1 Quận có nền kinh tế thương nghiệp là chủ yếu, một trong những trung tâm giao lưu hàng hóa lớn của Thành phố và các Tỉnh phía Nam, có nền sản xuất tiểu thủ công nghiệp phân tán, có cơ cấu dân cư phức tạp về thành phần giai cấp và dân tộc cho nên khi ta tiến hành cải tạo XHCN và sắp xếp lại sản xuất đã tác động mạnh đến tư tưởng tiêu cực của một bộ phận quần chúng đặc biệt là quần chúng người Hoa, thêm vào đó bọn gián điệp tay sai của Bắc kinh đã lợi dụng tình hình này tuyên truyền kích động, gây hoang mang làm cho một số người Hoa kể cả người Hoa thuộc thành phần lao động bộc lộ nhiều phản ứng khong có lợi như bỏ chạy ra nước ngoài hoặc lơ là trong sản xuất.

Đại hội đã nhất trí rằng: Trong tình hình khó khăn và phức tạp đó, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân, các ngành, các cấp trong Quận thực hiện các đường lối chủ trương, chính sách của Trung ương, của Thành ủy và Nghị quyết của Đảng bộ lần thứ I đạt nhiều thành quả rất lớn, rất cơ bản trên mọi mặt; nhiều nhân tố tích cực đang hình thành và phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn nhiều nhược điểm và thiếu sót cần phải sửa chữa và khắc phục.

Những thành quả cũng như những nhược điểm và thiếu sót cụ thể qua các mặt công tác sau đây:

1- Cải tạo XHCN và xây dựng CNXH, đẩy mạnh sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân:

Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh tuy chưa hoàn thành, nhưng đã được tiến hành liên tục, khẩn trương, tập trung và cương quyết; nhờ đó đã xóa bỏ được một bước quan trọng sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản công nghiệp và sự chiếm hữu về tiền và hàng của tư sản thương nghiệp, làm thay đổi căn bản quan hệ sản xuất cũ và bước đầu xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta đã đình chỉ kinh doanh thương nghiệp của 2813 hộ và chuyển họ sang sản xuất. Hàng hóa và vật tư trưng mua của tư sản thương nghiệp trị giá hàng triệu đồng. Số hàng và vật tư này đã được đưa vào phục vụ sản xuất và lưu thông phân phối. Ngoài ra chúng ta đã liên tục sắp xếp có trật tự các chợ và các tụ điểm bến bãi.

- Về xây dựng mạng lưới thương nghiệp XHCN, đến nay chúng ta đã có 09 cửa hàng trung tâm, 32 cửa hàng khu vực, một hệ thống HTX-TT từ Quận đến phường gồm 67 cửa hàng, 10 quầy hàng cổ định và 13 quầy hàng lưu động. Song song với hệ thống TNQD và HTX-TT chúng ta còn có hệ thống cửa hàng lương thực đủ khả năng phân phối theo định lượng cho quần chúng trong Quận.

- Về tổ chức sản xuất: Không có xí nghiệp của Trung ương và Thành phố nằm trong Quận, Quận ta đã duy trì và phục hồi sản xuất được 1587 cơ sở tiểu thủ công nghiệp với 12.395 lao động. Trong đó có 15 hợp tác xã, 223 tổ sản xuất với 5003 lao động, 1178 cơ sở cá thể với 5988 lao động và 20 cơ sở công quản với 404 lao động. Số máy móc ta đã đưa vào khu vực tập thể chiến 2,2%.

Tất cả các cơ sở TTCN trên gồm các ngành cơ khí, hóa chất, nhựa, chế biến lương thực, thực phẩm, dệt da may mặc, chế biến gỗ..., từng bước đi vào quỹ đạo, quản lý của Nhà nước. Giá trị tổng sản lượng tăng từ 84,9 triệu đồng năm 1977 lên 103,5 triệu đồng năm 1978 và năm 1979 có khả năng vượt 120 triệu đồng. Sản phẩm xuất khẩu tăng 7,5 triệu đồng năm 1977 lên 17,5 triệu năm 1978. Năm 1979 phần xuất khẩu có giảm nhiều do không ký được hợp đồng với nước ngoài.

Thông qua phục hồi và phát triển sản xuất đã giải quyết việc làm được 5881 người. Ngoài ra còn vận động được 13.043 người đi hồi hương, kinh tế mới, đi thanh niên xung phong và làm công nhân cho 1 số nông trường, lâm trường, ngư trường ngoài Quận.

Về các mặt công tác khác:

Quản lý nhà đất và các công trình công cộng: đến nay đã cải tạo 105 đối tượng tư sản nhà đất chuyển sang Nhà nước quản lý 1468 căn với 120.850m2. Số nhà trưng mua và thanh lý của tư sản thương nghiệp của số phần tử bỏ trốn đi nước ngoài, ta đã phân phối cho hàng ngàn gia đình cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân lao động nghèo. Sử dụng hợp lý một số cho các công trình công cộng như cơ quan, trường học, nhà trẻ, cửa hàng, y tế...

Chế độ quản lý nhà đất từng bước được củng cố.

Công tác tài chánh, thuế, giá:

- Về tài chánh: từng bước đi vào quản lý có nề nếp, đúng nguyên tắc của các chính sách chế độ, có quan tâm tốt các chế độ thu và chi cùng với công đoàn bước đầu thực hiện được chế độ chấm công và BHXH. Việc quản lý tài sản Nhà nước được củng cố tương đối chặt. Đã thực hiện tốt 2 lần tổng kiểm kê tài sản.

- Tuy nhiên còn mặt nhược là chưa mạnh dạn giải quyết các chế độ chính sách tài chánh để thúc đẩy lưu thông phân phối và sản xuất chăm lo đời sống.

Công tác thuế tuy còn nhiều sơ hở thất thu, thiếu sâu sát nhưng cũng ccó nhiều tiến bộ trong củng cố đội ngũ, nắm đối tượng, cải tiến lề lối làm việc và đảm bảo thực hiện đúng chủ trương chính sách.

Trong 2 năm qua Quận đã thu gần đạt chỉ tiêu trên giao.

Công tác ngân hàng: Hai năm qua ngân hàng từng bước đi vào củng cố và làm tốt các mặt công tác quản lý tiền mặt, phong trào gởi tiền tiết kiệm, công tác tín dụng và thanh toán. Đặc biệt công tác tín dụng, ngân hàng đã làm được vai trò thúc đẩy sản xuất và lưu thông phân phối. Phong trào gởi tiền tiết kiệm trong năm nay có bội chi hơn năm trước nhưng phong trào được thường xuyên nâng lên và đã giáo dục được ý thức tự giác trong nhân dân.

Giáo dục nhà trẻ: Đã nhanh chóng đưa nội dung giáo dục XHCN vào nhà trường: Giải quyết một phần về nhu cầu học tập của con em nhân dân lao động. Mặc dù số học sinh tăng nhanh, nhưng chúng ta đã kịp thời giải quyết tăng lớp đáp ứng đủ yêu cầu cho 3812 em mới vào học ở các cấp I và II. Đội ngũ giáo viên cũ được bồi dưỡng quan điểm giáo dục XHCN.

Quận đã quan tâm đúng mức phong trào bổ túc văn hóa, phong trào phát triển lớp mẫu giáo và nhà trẻ. Đến nay đã xóa được 89,7% số người mù chữ, thành lập 146 lớp mẫu giáo với 4982 cháu vào học và 31 nhà trẻ với 735 cháu được sự chăm sóc của 111 cô nuôi dạy trẻ.

Y tế: Màng lưới y tế từ Quận đến phường ngày càng được củng cố. Ngoài ra ngành y tế còn chú ý phát động các phong trào phòng chống bệnh, phong trào dùng thuốc Nam, phong trào diệt chuột và côn trùng lây bệnh, phong trào sinh đẻ có kế hoạch... Đặc biệt là chúng ta quyết tâm tranh thủ ngành cấp trên đồng tình chủ trương xây dựng bệnh viện Quận và đã phát động quần chúng trong Quận đóng góp xây dựng bệnh viện đa khoa với 100 giường bệnh, đã hoàn thành 16 cầu tiêu công cộng.

Văn hóa xã hội: Cuộc đấu tranh xóa bỏ nền văn hóa của xã hội cũ, thiết lập nền văn hóa mới XHCN diễn ra gay gắt, dai dẳng và phức tạp. Ta đã đẩy lùi một bước cơ bản các tàn dư của nền văn hóa thực dân mới và các tệ nạn xã hội. Trong 2 năm qua ta đã thu gom trên 4 tấn sách báo và 1 tấn đĩa băng nhạc, phim ảnh phản động và đồi trụy.

Công tác tuyên truyền giáo dục xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa được phát động thường xuyên và rộng khắp. Nhiều nhân tố tích cực, con người mới, tập thể tiên tiến điển hình đã xuất hiện và phát triển thành những nòng cốt tốt cho phong trào.

Phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng cũng được đẩy mạnh. Khắp 17 phường đều có đội văn công nghiệp dư phục vụ cho yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của rộng rải quần chúng.

Phong trào TDTT bước đầu có tổ chức tốt ở một số xí nghiệp và trường học.

Chính sách hậu phương luôn luôn được quan tâm thực hiện tốt, chưa có gì sai sót lớn.

2- Xây dựng củng cố quốc phòng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội:

Đặc điểm và vị trí của Quận ta đã thể hiện tính chất phức tạp của vấn đề an ninh trật tự xã hội. Với tinh thần cảnh giác và trách nhiệm cao, với quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tài sản XHCN và tính mạng của nhân dân. 2 năm qua lực lượng an ninh không ngừng đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, đã phát động kịp thời và đập tan nhiều âm mưu và hành động chống cách mạng, phá rối trật tự trị an, gây bạo loạn. Chúng ta đã khám phá nhiều vụ án chính trị, hình sự quan trọng trong đó có một số vụ của các tổ chức nhen nhóm phản động của bọn bành trướng Bắc kinh, bọn tình báo gián điệp nước ngoài kể cả bọn phản động đội lốt tôn giáo, ngủ của chúng, làm chó bọn chúng ngày càng suy yếu, do đó mà giữ được an ninh chính trị. Không có vụ bạo loạn nào xảy ra. Hành động và thái độ kiên quyết, biện pháp cứng rắn, phát huy chức năng chuyên chính với kẻ thù, ta đã tập trung cải tạo dài ngày những phần tử tội phạm đầu sỏ nguy hiểm, còn một số khác thì cưỡng bức lao động. Chúng ta đã truy quét bắt nhiều tên cướp giật, lưu manh, du đảng trộm cắp chuyên nghiệp. Ngoài ra chúng ta còn phát động quần chúng luôn luôn cảnh giác đấu tranh vạch mặt bọn phao tin đồn nhảm, tuyên truyền xuyên tạc gây chiến tranh tâm lý, nhất là tay sai của bọn bành trướng Bắc kinh trong người Hoa.

Công tác an ninh chính trị được đảm bảo tốt, nguyên nhân cơ bản là đã phát động được quần chúng nhân dân ngày càng tham gia tích cực với tinh thần tự nguyện tự giác phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Về công tác nghĩa vụ quân sự: Hai năm qua nói chung năm nào Quận ta cũng đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Việc luyện tập quân sự, củng cố và phát triển các lực lượng vũ trang nhân dân đã được triển khai tốt và được đẩy mạnh hơn khi có lệnh tổng động viên của Nhà nước trước sự đe dọa xâm lược của bọn Bắc kinh đối với Tổ quốc ta.

3- Về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tổ chức và xây dựng Đảng:

Trước tình hình có nhiều biến động phức tạp, trong 2 năm qua công tác chính trị tư tưởng đã được quan tâm đúng mức. Các cuộc vận động chính trị, quán triệt tình hình và nhiệm vụ mới đã được đẩy mạnh một cách sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân và trong cán bộ, công nhân viên chức.

Ta đã kịp thời vạch trần đường lối chính trị phản cách mạng của bọn bành trướng Bắc kinh, nâng cao lòng căm thù địch sâu sắc trong Đảng và ngoài quần chúng.

Thông qua thực tiễn công tác, qua các phong trào cách mạng, sôi nổi của quần chúng mà bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ ta trưởng thành nhanh chóng.

Về công tác xây dựng Đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên ta đại đa số đã được tôi luyện trong chiến tranh, có quan điểm lập trường vững vàng, nay được thử thách trong cải tạo và xây dựng, cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt diễn ra trong các năm qua làm cho nhiều đ/c tiến bộ rõ rệt. Tính Đảng, tính giai cấp được nâng lên. Nhiều đ/c đã thể hiện tốt tính cầu thị, tích cực học tập chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, quản lý xã hội nên đã tạo cho bản thân một năng lực đáp ứng kịp với yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ mới.

Nhiều cán bộ đảng viên đã thể hiện tính tiên phong gương mẫu trước những thử thách mới. Không quản tuổi tác, sức khỏe, hoàn cảnh gia đình khó khănluôn luôn nêu cao phẩm chất cách mạng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Công tác đấu tranh phê bình và tự phê bình, thi hành Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 28, 29 của Thành ủy đã hạn chế rất nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong cán bộ đảng viên, có tác dụng đấu tranh với bên ngoài xã hội.

Công tác dân vận, 2 năm qua, Đảng bộ ta đã quan tâm thích đáng. Mặt trận, các đoàn thể, công đoàn, thanh niên, phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng trong việc huy động quần chúng tham gia liên tục các phong trào cách mạng; đồng thời từng bước củng cố xây dựng và phát triển tổ chức của mình.

Công đoàn đã đẩy mạnh phong trào công nhân và lao động, tổ chức duy trì và khôi phục sản xuất, cải tiến kỹ thuật tăng năng suất, làm cho công nhân giác ngộ được quyền lợi giai cấp của mình.

Thanh niên đã thể hiện được vai trò nòng cốt của mình trên nhiều mặt công tác.

Bên cạnh những thành tích trên đây trong thời gian qua chúng ta còn một số khuyết nhược điểm như sau:

Về cải tạo XHCN: Chưa quán triệt và thực hiện được mối quan hệ giữa cải tạo và xây dựng, cải tạo chưa hỗ trợ cho xây dựng, xây dựng không đáp ứng kịp với yêu cầu tiến lên của cách mạng. Nói chung xây dựng chưa thể hiện được vai trò chủ yếu trong chủ trương cải tạo. Chính vì đó mà sau cải tạo, chúng ta lúng túng về quản lý sản xuất, về phương thức phân phối. Tiến hành cải tạo trong thực tiễn việc vận dụng chính sách còn sai phạm như việc xác định đối tượng không đúng, nắm tình hình không vững. Tất nhiên phần thiếu sót này có cả sự chỉ đạo của trên về tiêu chuẩn thành phần giai cấp nhưng khi phát hiện, chúng ta vẫn uốn nắn chậm. Việc tiếp thu chính sách có sự chệch choạt, không thống nhất từ trên xuống dưới về nhận thức, về biện pháp giải quyết và chừng mực nào đó có thể hiện tư tưởng ngại khó. Trong cao điểm của đợt cải tạo đã phát sinh ra một số hiện tượng tiêu cực, vi phạm chủ trương, chính sách quan điểm lập trường, đạo đức cách mạng, nhưng chúng ta đấu tranh và ngăn chặn không kịp thời nên một số cán bộ đảng viên bị suy thoái.

Về sản xuất và đời sống:

Về sản xuất đến nay ta mới nắm được tình hình, nhưng chưa quản lý chặt, chưa lên được quy hoạch tổng thể. Điều tra cơ bản về lực lượng sản xuất chưa sâu, chưa cụ thể; do đó chưa đề ra được phương hướng tổ chức sản xuất lâu dài để tiến lên sản xuất lớn XHCN. Khu vực sản xuất quốc doanh và hợp tác xã chưa thể hiện được tính hơn hẳn của phương thức sản xuất XHCN đối với khu vực sản xuất cá thể; do đó chưa phát huy được vai trò chủ đạo và nòng cốt của thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể trong 5 thành phần kinh tế. Đây là một nhược điểm cần quan tâm khắc phục.

Về giải quyết đời sống cho những người chưa có việc làm còn trong tình trạng đối phó bị động, chưa tìm ra cách giải quyết cơ bản vững chắc và lâu dài.

Về lưu thông phân phối:

Thương nghiệp quốc doanh chưa nắm đủ lực lượng hàng hóa để đóng vai trò chi phối trên thị trường. Hiện nay nó mới chỉ làm được đơn thuần khâu phân phối hàng hóa, còn khâu thu mua thì quá yếu.

Thương nghiệp HTX-TT đã đóng được vai trò đấu tranh trên thị trường nhưng chưa đủ mạnh. Phương thức phân phối nói chung chưa hợp lý, còn nặng về bình quân chủ nghĩa chưa có tác dụng mạnh thúc đẩy sản xuất.

Về các mặt văn hóa xã hội:

Còn tồn tại nhiều hiện tượng tiêu cực về văn hóa xã hội trong sinh hoạt của quần chúng hiện nay là do ta tổ chức thực hiện chủ trương cải tạo chưa sâu, chưa triệt để, biện pháp thiếu hiệu quả, kiên trì đấu tranh chưa đúng mức cho nên từng nơi từng lúc các mặt tiêu cực lại tái phát phình ra. Giáo dục lòng yêu nước XHCN chưa sâu nên tính tự giác cải tạo của quần chúng chưa cao.

Thường thì chúng ta mắc phải bệnh hình thức chạy theo số lượng nhưng nội dung chất lượng còn kém, chưa đáp ứng được yêu cầu về các mặt văn hóa và xã hội của quần chúng.

Về an ninh chính, trật tự xã hội:

- Ý thức cảnh giác chính trị trong cán bộ đảng viên chưa cao, chưa nhạy bén, thậm chí còn bàng quan, đơn thuần nghiệp vụ. Do đó mà đôi khi kẻ địch đưa tin thất thiệt, không dập tắt kịp thời nên chừng mực nào đó có tác dụng xấu, nhất là kẻ địch khai thác triệt để những khó khăn về kinh tế đời sống và xã hội.

- Quản lý trị an của ngành công an còn một số khâu yếu như: quản lý hộ khẩu, quản lý các đối tượng cải tạo chưa chặt.

- Hợp đồng với các ngành có liên quan giải quyết tệ nạn xã hội chưa tốt nên những tồn tại về mặt xã hội hiện nay có tác động xấu trong xã hội.

- Các cơ quan khối Nội chính chưa quan hệ với nhau một cách chặt chẽ và đồng bộ.

Về nghĩa vụ quân sự:

- Công tác giáo dục nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc chưa sâu, nhất là vai trò Đoàn Thanh niên cộng sản chưa thể hiện là lực lượng xung kích trong lĩnh vực này. Hiện tượng trốn tránh NVQS có khá phổ biến, thậm chí số đã đi NVQS trốn về nhiều.

- Quan điểm quốc phòng toàn dân chưa quán triệt sâu sắc, do đó công tác tổ chức, huấn luyện lực lượng tự vệ còn coi nhẹ từ cơ quan, xí nghiệp, trường học xuống tới phường.

Về công tác tư tưởng và tổ chức xây dựng Đảng:

Số lượng đảng viên trong Đảng bộ còn quá ít so với dân số, lại phân bố không cân đối giữa các ngành sản xuất, hành chính sự nghiệp trong nhân dân. Tập trung nhiều vào các đơn vị hành chánh còn nhiều cơ sở chưa có đảng viên (HTX, cửa hàng, trường học...).

- Cán bộ yếu lại thiếu, nhiều việc phải bố trí cán bộ quá sức, quá trình độ nên hạn chế tác dụng. Tuy vậy lại có lúc bị xáo trộn.

- Lề lối làm việc trong mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý" còn chưa rõ ràng, có lúc, có việc dẫm chân lên nhau, làm thay thế hoặc ỷ lại.

- Công tác chi bộ còn yếu, chưa phát huy hết vai trò là nền tảng cơ sở của Đảng trong lãnh đạo toàn diện, thiếu chủ động sáng tạo và nhạy bén. Sinh hoạt chi bộ chưa chặt chẽ, nói chung kém chất lượng, tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình chưa thể hiện hết tính chiến đấu của Đảng, còn hiện tượng e dè, nển nang. Khi triển khai thi hành chủ trương chính sách chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở trong chi bộ còn nặng về phổ biến truyền đạt mà chưa bàn bạc kỹ lưỡng về kế hoạch biện pháp cụ thể. Do đó khi thực hiện còn lúng túng bị động.

- Trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tính tiên phong gương mẫu có giảm sút, tư tưởng chính trị còn nhiều mặt yếu kém như: uể oải, hoài nghi, dao động trước những diễn biến phức tạp của tình hình và khó khăn về đời sống. Thậm chí còn có đảng viên suy thoái về chính trị. Phẩm chất cách mạng, trong một số đảng viên bị thoái hóa, mức độ có khác nhau, nhưng cũng khá phổ biến trong các cơ sở. Hiện tượng cực đó thể hiện ở các mặt: bị cám dỗ về vật chất, gái, ức hiếp trù dập người tốt, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thu vén cá nhân, làm ăn phi pháp, chiếm của công thành của riêng, tham ô, móc ngoặc. Trong 2 năm đã có tới 68 đảng viên bị xử lý kỹ luật, đó là một con số lớn chiếm tỷ lệ gần 10% tổng số đảng viên trong đảng bộ, đó là khuyết điểm rất lớn và đáng lo ngại.

- Công tác tuyên truyền phát triển đảng viên chưa làm liên tục còn buông lỏng. Trong xét duyệt đối tượng quan điểm và nhận thức tư tưởng chưa chuyển biến và quán triệt hết được những đặc điểm thực tế của xã hội mới được giải phóng. Hiện tượng hẹp hòi, cầu toàn cũng còn là một trở ngại trong công tác phát triển Đảng.

Về quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động:

Cán bộ đảng viên ta chưa quán triệt một cách toàn diện vấn đề, thường hiểu nó một cách đơn giản, chưa hiểu một cách cân đối giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người làm chủ. Trong cán bộ có chức có quyền dù nhỏ, cũng thường biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân trên mặt chưa coi trọng trách nhiệm và bổn phận của mình trước dân. Trong nhân dân chưa đẩy mạnh giáo dục nghĩa vụ và quyền lợi gắn liền nhau một cách mạnh mẽ, do đó mà nhân dân ít ý thức được về nghĩa vụ, thể hiện rõ trong lưu thông phân phối, trong việc thi thành NVQS, trong lao động sản xuất.

Chế độ làm chủ tập thể XHCN còn thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng, thông qua các cơ quan dân cử nhưng ta chưa phát huy được hết khả năng của các tổ chức đó.

Tóm tại: Thành tích đạt được trong 2 năm qua của Đảng bộ ta là cơ bản, là to lớn, có thể khái quát là đã đưa Quận 6 từ một Quận nội thành có nền kinh tế thương nghiệp lớn nhất của Thành phố, có sản xuất TTCN nhưng phân tán, có cơ cấu dân cư phức tạp về giai cấp và dân tộc, đang chuyển biến sâu sắc sang là một Quận lao động sản xuất, tiền đề cho việc tổ chức thành một Quận có nền sản xuất TTCN theo phương hướng sản xuất lớn XHCN.

Bên cạnh đó cũng còn nhiều tồn tại khuyết nhược điểm mà toàn Đảng bộ cần quan tâm và nỗ lực hơn nữa để nhanh chóng khắc phục như trình độ quản lý kinh tế yếu kém, hiện tượng tiêu cực, sa sút ý chí chiến đấu, suy thoái tham ô cửa quyền... Việc phát triển Đảng quá chậm và yấu làm ảnh hưởng lớn đến công tác lãnh đạo toàn diện, cần phải phấn đấu vượt bậc mới đáp ứng kịp yêu cầu của nhiệm vụ chính trị đề ra cho nhiệm kỳ tới.

PHẦN II:

PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRONG 2 NĂM 1980 - 1981

---

Trước hết ta cần xác định một số đặc điểm lớn của Quận:

- Quận 6 là một Quận có ngành TTCN mạnh, trước nhất là cơ khí, kế đến là hóa chất nhựa, dệt nhuộm và chế biến thực phẩm... tuy nhiên nhược điểm là còn phân tán, không cân đối, lệ thuộc nhiều về nguyên liệu phụ tùng thay thế nước ngoài. Cơ chế quản lý đang được xây dựng bước đầu đã phát huy được tác dụng nhưng vẫn còn nhiều nhược điểm vừa trở ngại cho sản xuất vừa lỏng lẻo trong việc quản lý của Nhà nước.

Ngoài ra Quận 6 còn có 1 phần đất ven có khả năng về nông nghiệp nuôi trồng. Đặc biệt Quận còn có chợ Bình Tây, bến xe Chợ Lớn là trung tâm giao lưu hàng hóa lớn đi lại của nhân dân, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều nhất các tệ nạn xã hội của Quận còn có một hệ thống kho chứa, bến bãi và xí nghiệp lớn của Nhà nước cần phải thường xuyên quân tâm bảo vệ.

- Về cơ cấu dân cư, nhân dân trong Quận đa số thuộc thành phần lao động sản xuất, một số có tay nghề giỏi, sáng tạo trong sản xuất. Bên cạnh đó Quận ta cũng còn khoảng 14 ngàn người chưa có công ăn việc làm rõ ràng phải chạy vạy buôn bán kể cả bán chợ trời hoặc làm những việc không chính đáng khác gây nhiều phức tạp trong khâu quản lý kinh tế và xã hội. Quận còn có khá đông người Hoa chiếm tỷ lệ 38,5% dân số đang có vai trò quan trọng trong nền kinh tế và xã hội của Quận từ sản xuất đến lưu thông phân phối, số đồng bào Hoa này đang bị kẻ thù tác động lợi dụng nên dễ hoang mang dao động có thể gây ra biến động trong sản xuất và đời sống mà ta cần phải quan tâm.

- Quận 6 còn thiếu nhiều các cơ sở phúc lợi xã hội như bệnh viện, trường học, công viên và những công trình lợi ích công cộng khác như điện, nước, nhà ở... do chính quyền trước đây không chú ý xây dựng. Vì vậy việc tổ chức chăm lo đời sống về các mặt văn hóa tinh thần và phúc lợi công cộng cho nhân dân trong Quận là 1 nhiệm vụ to lớn nặng nề và khó khăn của Đảng bộ ta.

Nhìn tổng quát, quá trình cải tạo xây dựng trong những năm qua đã góp phần làm chuyển biến bộ mặt của Quận 6 từ 1 Quận trước đây chủ yếu là buôn bán sang thành 1 Quận chủ yếu là sản xuất, sản xuất trong Quận hiện đang từng bước đi vào ổn định và phát triển.

Trên cơ sở quán triệt đường lối của Đảng nhất là Nghị quyết 06 của Trung ương và nắm vững nhiệm vụ chung của Thành phố cũng như căn cứ trên các đặc điểm lớn của Quận và trên cơ sở kiểm điểm thực tiễn 2 năm qua, Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ của Quận 6 trong 2 năm 1980 - 1981 là:

1)- Tiếp tục cải tạo công thương nghiệp một cách tích cực và vững chắc, sử dụng hết khả năng của các thành phần kinh tế thích hợp theo từng ngành để đẩy mạnh sản xuất. Tổ chức lại, duy trì, khôi phục, giữ vững và mở rộng sản xuất TTCN là chính, đồng thời chủ động tận dụng mọi khả năng sản xuất nôngnghiệp, tổ chức việc làm bằng nhiều dạng và biện pháp linh hoạt, phong phú nhằm thu thập cho nhân dân thông qua lao động sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tập trung nguồn hàng vào trong tay Nhà nước, tăng cường chăm lo việc xây dựng các công trình phức lợi công cộng, trên cơ sở đó tổ chức tốt, ổn định và bảo đảm đời sống nhân dân.

Trong TTCN phải chú ý việc củng cố mở rộng các cơ sở sản xuất quốc doanh và tập thể hiện có, hết sức coi trọng việc tổ chức lại sản xuất theo ngành, trước hết là cơ khí và xây dựng cơ cấu quản lý từ cơ sở. Chủ động đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Nâng cao không ngừng giá trị tổng sản lượng, đảm bảo chất lượng sản phẩm, mở rộng mặt hàng sản xuất phục vụ nông nghiệp, tiêu dùng và xuất khẩu.

2)- Động viên sức mạnh toàn dân thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và an ninh, xây dựng hậu phương, giữ vững tuyệt đối an toàn và tăng cường sức mạnh đảm bảo làm tốt các nhiệm vụ của hậu phương đối với phía trước.

Xây dựng, tổ chức phong trào quân sự hóa toàn dân rộng khắp ở các đơn vị hành chánh và kinh tế. Tăng cường tổ chức luân chuyển, nâng cao chất lượng tự vệ tập trung và bộ đội địa phương vững mạnh. Ra sức vận động và thực hiện tốt các yêu cầu tuyển quân góp phần xây dựng lực lượng chủ lực bảo vệ Tổ quốc. Đảm bảo cho các lực lượng vũ trang luôn luôn sẵn sàng ở tư thế chiến đấu cao và kịp thời ứng phó với mọi tình huống.

Củng cố và mở rộng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, nâng cao chất lượng phong trào, luôn đề cao cảnh giác đảm bảo thực hiện đúng đắn các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước nói chung nhất là đối với người Hoa và tôn giáo. Tăng cường đoàn kết tấn công vào kẻ thù là bọn tay sai Bắc kinh và đế quốc Mỹ cùng các loại phản động tay sai đế quốc khác. Chủ động phòng ngừa sẵn sàng dập tắt mọi âm mưu bạo loạn. Coi trọng công tác đấu tranh truy tìm tiêu diệt các tổ chức và hoạt động chính trị phản cách mạng, kể cả tâm lý chiến.

Tăng cường giữ vững trị an, đấu tranh bảo vệ nghiêm ngặt tài sản xã hội chủ nghĩa, kiên quyết trấn áp bọn cướp của giết người, cướp có tổ chức, vũ khí, có phương tiện cơ động, tăng cường quản lý cư trú và quản lý vũ khí, đưa công tác quản lý vào nề nếp. Chống các hiện tượng xé rào pháp luật, đảm bảo pháp luật Nhà nước được thi hành nghiêm minh và tự giác. Củng cố, mở rộng khu vực an toàn, cơ quan, xí nghiệp, kho bến an toàn rộng khắp.

3)- Đảm bảo thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về mọi mặt, mọi lĩnh vực ở khắp mọi nơi, trên cơ sở không ngừng giáo dục, nâng cao giác ngộ XHCN trong nội bộ và nhân dân. Chú trọng cả 2 mặt nghĩa vụ và quyền lợi. Đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của người chủ tập thể. Phát động quần chúng đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội, chống ăn cắp của công, hối lộ và ức hiếp quần chúng. Đảm bảo cho các cán bộ đảng viên, nhân viên, chiến sĩ trong các cơ quan, các ngành các cấp tuyệt đối tôn trọng và biết cách phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

4)- Tiếp tục kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc. Nỗ lực xây dựng bộ máy tổ chức đồng bộ. Đặc biệt chú trọng 5 vị trí chủ chốt của phường, 4 vị trí chủ chốt ở các đơn vị kinh tếcơ sở. Quan tâm đúng mức kiện toàn cấp Quận, tập trung cho các ngành kinh tế đời sống và đoàn thể. Tăng cường bộ máy chính quyền, kiện toàn các ban của Đảng. Đảm bảo quán triệt các quan điểm cơ bản và các nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, phát huy dân chủ, nghiêm minh kỷ luật, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, chế độ thủ trưởng, ở các cơ quan quản lý và tổ chức kinh tế.

Đẩy mạnh phát triển đảng viên, hạ thấp tuổi đời bình quân đảng viên. Làm tăng mạnh mẽ tỷ lệ đảng viên công tác dân chính (ở phường), đảng viên gắn liền với sản xuất và với công tác quần chúng, đảng viên xuất thân là công nhân. Chú trọng phát triển đảng viên ở các đơn vị sản xuất (quốc doanh, hợp tác xã TTCN), lưu thông và sự nghiệp, trong 2 năm xây dựng được chi bộ ở các cơ sở đó. Công tác tổ chức phải hướng mạnh về cơ sở, lấy xây dựng củng cố chi bộ làm trung tâm. Phải coi trọng đào tạo cán bộ, chặt chẽ trong bố trí người. Cấp ủy Đảng (Quận, cơ sở phải là trung tâm đoàn kết, có sức chiến đấu cao, có năng lực tổ chức và lãnh đạo toàn diện, đảm bảo đường lối của Đảng luôn được thực hiện đúng và thắng lợi. Ủy ban nhân dân các cấp phải là cơ quan quản lý Nhà nước có sức mạnh, là trung tâm quy tụ các ban ngành chính quyền, biết quản lý kinh tế giỏi, nhiệt tình, có năng lực chăm lo phục vụ cho sản xuất và tổ chức đời sống nhân dân. Chính quyền phải thể hiện thật sự là "của dân, do dân, vì dân". Tăng cường công tác đoàn thể, các đoàn thể phải tập hợp rộng rãi đông đảo quần chúng, sáng tạo hình thức tổ chức thích hợp để tập hợp giáo dục và phát huy được hành động cách mạng, tổ chức phong trào của quần chúng. Kiên quyết và nhanh chóng khắc phục khuynh hướng hành chánh quan liêu hóa trong các tổ chức đoàn thể. Đảm bảo sự tôn trọng và phát huy tốt vai trò quyền lực của HĐND các cấp và các tổ chức dân cử.

Các nhiệm vụ trên đây có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ không thể em nhẹ hay tách rời 1 nhiệm vụ nào. Phải tổ chức được phong trào cách mạng của quần chúng, quần chúng phải thật sự là người chủ tập thể phát huy vai trò của mình bằng hành động cách mạng. Phong trào đó phải là phong trào sản xuất tổ chức đời sống và giữ gìn an ninh bảo vệ Tổ quốc. Phong trào đó phải thiết thực gắn liền lợi ích trước mắt hàng ngày của quần chúng với lợi ích của tập thể và cả nước. Trên cơ sở các phong trào mà tổ chức Đảng và chính quyền được củng cố kiện toàn và phát triển. Ngược lại tổ chức Đảng nhất là cơ sở Đảng phải vững mạnh trong sạch thì mới tổ chức được phong trào quần chúng.

PHẦN III:

MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU VÀ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU

---

Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị theo những phương hướng nêu trên, chúng ta phải nắm chắc các biện pháp và quyết tâm thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu sau đây:

1- Sản xuất và đời sống:

a)- Tiểu thủ công nghiệp: Trong 2 năm 1980 - 1981 phải hoàn thành về cơ bản quy hoạch và tổ chức lại sản xuất TTCN theo ngành xây dựng được cơ chế quản lý tốt từ đơn vị kinh tế cơ sở đến phường và Quận, đảm bảo sản xuất phát triển, đưa sản xuất vào kế hoạch ngày càng chính xác, vững chắc, tích cực chủ động giải quyết các điều kiện cho sản xuất nhất là nguyên liệu và phụ tùng thay thế.

Giải quyết nguồn nguyên liệu theo các hướng: Đẩy mạnh hợp đồng kinh tế rộng rãi với các nơi một cách chủ động, đặt quan hệ để sử dụng triệt để các nguồn phế thải của các xí nghiệp công nghiệp, khai thác các kho vật tư phế liệu, tổ chức thu mua phế thải các loại theo Bến Lê Quang Liêm và các Tỉnh. Quan hệ với các cơ quan quân sự để khai thác sử dụng nguồn phế thải chiến tranh, quan hệ trao đổi với các Tỉnh, Huyện bạn, tổ chức trồng cây nguyên liệu ngắn ngày (chuối, đậu, ngải chuối...), khai thác cây gỗ ở Lòng Hồ... Phải đảm bảo hàng hóa sản xuất trong Quận tập trung 100% vào thương nghiệp XHCN, nếu sản phẩm đó do Nhà nước cấp nguyên liệu hoàn toàn, và từ 60% - 70% nếu sản phẩm đó do đơn vị sản xuất tự lo nguyên liệu ngoài khu vực Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh và từng bước khắc phục tệ nạn cắt xén, ăn cắp vật tư, nguyên liệu Nhà nước và sản xuất hàng gian, giả, trốn, lậu thuế. Khắc phục tệ làm ăn gian dối, chất lượng kém, khắc phục tình trạng Quận, phường không nắm được cơ sở sản xuất thuộc phạm vi mình phụ trách. Chỉ tiêu tổng giá trị sản lượng TTCN năm 1980 là 150 triệu, năm 1981 là 180 triệu. Trong đó giá trị xuất khẩu bằng 12% giá trị tổng sản lượng.

- Chỉ tiêu lao động năm 1980 từ 12 lên 17 ngàn và năm 1981 là 20 ngàn trong toàn bộ các cơ sở TTCN của Quận.

- Năm 1980 củng cố 15 hợp tác xã hiện có, xây dựng thêm 10 hợp tác xã và 10 xí nghiệp quốc doanh.

Xác định các ngành sản xuất TTCN của Quận là:

- Cơ khí chế tạo phụ tùng, thiết bị nhỏ, bộ phận, dụng cụ đồ nghề, công cụ phục vụ nông nghiệp, phương tiện vận tải thô sơ và cải tiến, phụ tùng xe đạp, kim khí gia dụng và xây dựng, văn hóa phẩm bằng kim khí...

+ Ngành chế biến nhựa tái sinh nhựa chính phẩm và chế biến cao su, chú ý đồ nhựa y tế, đồ nhựa văn hóa phẩm và nhựa cao su phục vụ công, ngư nghiệp...

+ Ngành thực phẩm, chú ý chế biến nước chấm, dầu ăn, lương thực chế biến bằng bộ mì như bánh mì, mì sợi, chế biến bột từ các loại màu nhất là từ khoai mì, khoai lang, duy trì ngành chuối sấy khô xuất khẩu, tổ chức và nắm vững các cơ sở xay xát, sấy trộn các loại thức ăn gia súc.

+ Ngành dệt, da, may tổ chức mở rộng để giải quyết lao động, tận dụng máy và lao động phụ gia đình, mở rộng may xuất khẩu, giữ vững ngành thêu tay, lấy xí nghiệp may quốc doanh 30/4 làm trung tâm tổ chức ngành may toàn Quận.

+ Ngành mỹ nghệ, dụng cụ thể thao xuất khẩu, chú ý sơn mài, cẩm thạch, vợt bóng bàn...

+ Ngành gỗ, tận dụng gỗ cành, ngọn, gỗ tạp làm đồ gia dụng, bao bì, văn hóa phẩm...

Ngoài ra còn chú ý các ngành nghề sản xuất khác phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Ngành cơ khí là mũi nhọn của Quận cần phải đẩy mạnh hợp tác hóa tổ chức lại sản xuất đồng bộ và cân đối, từng bước đi lên sản xuất lớn một cách vững chắc, phải làm cho tỉ trọng sản phẩm và giá trịcủa khu vực sản xuất quốc doanh và tập thể ngày càng lớn hơn khu vực cá thể, năng suất lao động bình quân cũng phải cao hơn.

Thực hiện ngay biện pháp mở hội nghị khách hàng, trưng bày và bán các hàng hóa do ngành TTCN Quận sản xuất, khuyến khích khen thưởng cụ thể các hành vi tiết kiệm vật tư nguyên liệu, đồng thời nghiêm phạt mọi trường hợp lãng phí, không quản lý tốt vật tư hàng hóa. Xí nghiệp cung ứng vật tư của Quận đẩy mạnh hoạt động để phục vụ đắc lực và có hiệu quả cho các ngành sản xuất TTCN. Xác định 3 bộ phận hoạt động của xí nghiệp cung ứng vật tư: Một bộ phận chuyên lo vật tư kỹ thuật các loại, một bộ phận phụ trách vật tư phế thải và một bộ phận phụ trách cung ứng nguyên liệu từ nông, lâm, hải sản cho chế biến và bao bì...

Trong phạm vi đườc Thành phố phân cấp và thực hiện sự phân cấp quản lý giữa Quận và phường: Quận sẽ quản lý toàn diện các đơn vị kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã, xí nghiệp hợp tác và tư nhân có quy mô lớn, có tầm chi phối rộng hoặc khó giải quyết vấn đề vật tư nguyên liệu. Phường phụ trách quản lý hành chánh chỉ đạo kế hoạch sản xuất cho các đơn vị sản xuất dưới hình thức tổ hợp hoặc hợp tác xã nhỏ và các đơn vị sản xuất cá thể.

Củng cố tăng cường Ban công nghiệp, giao thông vận tải, liên hiệp xã Quận, bộ phận phụ trách TTCN phường, thống kê, thuế, đảm bảo Quận, phường luôn luôn quan hệ chặt chẽ và nhanh chóng trong công tác quản lý và tổ chức sản xuất. Xây dựng hệ thống thông tin kinh tế từ đơn vị sản xuất đến phường, Quận để kịp thời phục vụ cho chỉ đạo. Đẩy mạnh hơn nữa việc khôi phục các cơ sở vắng chủ mà Quận đang quản lý để nhanh chóng đi vào sản xuất, thống hư hao mất mát, mở cửa hàng ký thác rộng rãi, để kiềm giá góp phần cải tạo trung tiểu thương và ổn định một phần giá cả thị trường. Đặc biệt chú trọng giáo dục phong cách phục vụ nhân dân của cán bộ, công nhân viên ngành thương nghiệp đảm bảo trong sạch, liêm khiết, cần cù giỏi nghề, giỏi việc, ngày càng phục vụ tốt hơn, được nhân dân cảm mến, tín nhiệm hơn. Sắp xếp tổ chức lại việc mua bán trong chợ Bình Tây nhằm đạt các yêu cầu: có hàng hóa, buôn bán đúng pháp luật, chống lậu thuế, chống hàng gian, giả, có trật tự, vệ sinh. Chủ động lập một số hợp tác xã mua bán chuyên ngành các loại nông sản thủy sản. Thực hiện cuộc cải tạo sắp xếp lại tiểu thương, tiếp tục đấu tranh chủ yếu bằng biện pháp kinh tế thị trường kết hợp đúng mức và đúng lúc với biện pháp giáo dục và hành chánh. Nỗ lực vận động chuyển tiểu thương sang sản xuất hướng chính vào các ngành TTCN và tổ chức nông trường nông trại trồng cây nông nghiệp ngắn ngày: đậu, chuối, màu hoặc trại nuôi tôm, cá, heo... Tập trung tổ chức xây dựng một vài điển hình tốt.

Năm 1980 quyết tâm giải quyết chợ trời, sắp xếp lại việc mua bán có khu vực, chỗ nơi nhất định, có trật tự, vệ sinh. Thực hiện quản lý chặt và thu thuế đầy đủ. Kiên quyết nghiêm phạt các trường hợp phá rào pháp luật, gian lận, phá rối thị trường, trừng trị mạnh mẽ bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn môi giới áp phe trên thị trường hàng hóa.

Sắp xếp lại chợ rau Mai Xuân Thưởng, Lê Quang Hiền và các chợ khác trong Quận, đảm bảo yêu cầu: trật tự, vệ sinh, chấp hành pháp luật kinh tế. Củng cố và tăng cường các BQL các chợ đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ.

Ngành ăn uống tổ chức ngay và tốt cửa hàng ăn tập thể phục vụ cán bộ, công nhân viên với giá hạ phù hợp với tiền lương và thuận tiện người ăn. Một mặt khác cần tổ chức mạnh mẽ mạng lưới cửa hàng, quầy hàng, xe đẩy phục vụ quần chúng vảng lai, tham gia vào thị trường ăn uống đấu tranh kềm chế các hàng quán tư nhân thao túng giá cả, đồng thời là 1 nguồn thu tiền mặt quan trọng có hiệu lực.

Tổ chức củng cố tốt nhà trọ, giá rẻ đáp ứng nhu cầu nghỉ trọ của cán bộ, bộ đội và nhân dân đi lại xa, lỡ đêm. Tổ chức hệ thống nhà tiêu, nhà cưới nhằm phục vụ nhân dân và hướng dẫn dân nếp sống văn hóa mới, tiết kiệm, giản dị.

Mở rộng mạng lưới cửa hàng, trạm, đội sửa chữa phục vụ các nhu cầu bức thiết và phổ biến của nhân dân về sửa chữa, dịch vụ.

Nỗ lực hơn nữa chế biến lương thực từ bộ mì ra mì sợi khô và bánh mì. Đảm bảo định lượng, chống hao hụt, lất cắp xén bớt, gian lận trong chế biến. Xử lý nghiêm các vi phạm lấy cắp lương thực của dân. Tổ chức quản lý thống nhất ngành chế biến mì sợi và bánh mì. Củng cố Phòng lương thực, đến cửa hàng, kho, tổ phục vụ được trong sạch có năng lực, nhiệt tình phục vụ nhằm làm thật tốt công tác phân phối lương thực. Chống cửa quyền, tùy tiện quy định gây khó khăn cho dân. Kiểm tra thường xuyên các tổ chức phân phối, đồng thời kiểm tra việc tiêu dùng lương thực, chống trùng lắp, gian lận làm thiệt hại cho Nhà nước.

b)- Tài chánh, thuế, giá, ngân hàng:

Củng cố một mặt Ban tài chánh, thuế, giá để để tiếp nhận nhiệm vụ ngân sách năm 1980. Xây dựng hệ thống tài chánh từ Quận đến phường và đơn vị kinh tế, kinh doanh hành chánh sự nghiệp thuộc Nhà nước, các cơ sở sản xuất, kinh doanh tập thể. Chế độ sổ sách tài chánh phải được thống nhất, quản lý tốt tài sản, vốn đầu tư. Hoạt động tài chánh phải tác động tích cực đến sản xuất lưu thông góp phần giải quyết tốt việc làm cho nhân dân. Chú trọng củng cố đội ngũ cán bộ, công nhân viên thuế từ trên xuống được trong sạch, liêm khiết, nhiệt tình. Đẩy mạnh thu thuế đúng chính sách, đúng đối tượng, không bỏ sót. Xử lý nghiêm các hành vi trốn lận thuế. Tăng thu trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất, lưu thông; đồng thời chi phải chặt chẽ, tiết kiệm, hợp lý. Phấn đấu bội thu để ổn định tài chánh.

Công tác giá phải vận dụng đúng chính sách chung, duyệt giá nhanh, kịp thời để thúc đẩy sản xuất lưu thông, theo dõi chặt giá cả báo cáo kịp thời. Dự toán chính xác tình hình để đấu tranh tốt giá cả.

Tiền lượng phải có tác dụng khuến khích sản xuất và nâng cao hiệu quả công tác. Trong phân phối biểu hiện bằng tiền lương phải nắm vững quan điểm kết hợp 3 lợi ích: Lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của người laođộng. Trong các đơn vị kinh tế quốc doanh phải vận dụng chính sách chế độ chung để trả lương, thực hiện trả lương theo sản phẩm, áp dụng tiền thưởng rộng rãi để khuyến khích nâng cao năng suốt lao động. Trong cơ quan hành chánh sự nghiệp phải thực hiện chấm công theo ngày công, trả tiền bồi dưỡng ngoài giờ theo chính sách, chế độ. Kiên quyết khắc phục tình trạng kỹ luật lỏng lẻo giờ giấc không đảm bảo, ăn cắp giờ Nhà nước làm việc riêng và thực hiện ngay chế độ bảo hiểm xã hội.

Ngân hàng: Phải phát huy tốt vai trò tác dụng là ngành quản lý tổng hợp và kịp thời bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất và lưu thông, phải góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả quản lý mà kết quả là đẩy mạnh được sản xuất, tập trung được nguồn hàng, thúc đẩy được tốc độ lưu thông hàng hóa, giải quyết được việc làm cho nhân dân.

Ngân hàng phải đẩy mạnh tín dụng đảm bảo kịp thời nguồn vốn vay cho các đơn vị kinh tế hoạt động. Tăng cường quản lý tiền mặt nhưng phải hết sức giải quyết linh hoạt kịp thời nhu cầu về tiền mặt cho các hoạt động kinh tế, đảm bảo không để thiếu tiền mặt cho sản xuất và lưu thông.

Nỗ lực vận động phong trào gởi tiền tiết kiệm cao hơn nữa. Ngân hàng phải đảm bảo việc gởi vào lấy ra dễ dàng, tuyệt đối không để khó khăn trong việc rút tiền tiết kiệm của nhân dân với bất cứ lý do gì.

c)- Công tác xây dựng nhà đất công trình công cộng:

- Nắm chắc tình hình nhà cửa kho tàng trong Quận, trên cơ sở đó tiến hành quản lý chặt chẽ mọi mặt. Đối với số diện tích còn trống, nghiên cứu đề xuất việc phân phối, sử dụng đúng chính sách, đúng chế độ ưu tiên cho khu vực sản xuất và gia đình công nhân trực tiếp sản xuất không có nhà ở. Giải quyết kiên quyết các trường hợp sử dụng nhà sai chế độ qui định của Nhà nước, xem xét lại các trường hợp phân phối nhà không đúng chính sách, không hợp lý để điều chỉnh.

- Nắm và quản lý tốt đất đô thị, chống tùy tiện đào ao, xây cất bừa bãi.

- Tiến hành thu tiền nhà đầy đủ đúng quy định của trên, không để thất thu, đồng thời phải có kế hoạch bão dưỡng, sửa chữa kịp thời để duy trì tuổi thọ của công trình và đảm bảo vệ sinh, an toàn cho người sử dụng.

- Có kế hoạch quản lý tiến dần đến điều hành toàn bộ khâu phục vụ mai táng cho các gia đình có người qua đời.

- Quan tâm giải quyết tối đa theo khả năng vấn đề nước và điện, đường trong Quận nhất là ở các khu xóm lao động.

d)- Sắp xếp lực lượng lao động, giải quyết công ăn việc làm:

Dựa vào các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước, phấn đấu 2 năm 1980 - 1981 giải quyết được cơ bản vấn đề người lao động chưa có công ăn việc làm bằng nhiều cách: Cung cấp theo yêu cầu tuyển sinh, tuyển dụng của cấp trên, mở mang ngành nghề sản xuất TTCN là hướng chính, đồng thời tổ chức nông trường, nông trại trồng cây nguyên liệu, khai thác nuôi trồng thủy sản. Thực hiện chế độ nghĩa vụ lao động đối với thanh niên không đủ tiêu chuẩn vào quân đội, mở rộng việc tận dụng lao động phụ gia đình bằng nhiều nghề hay gia công theo từng công đoạn hoặc từng sản phẩm hoàn chỉnh.

Phải xác lập hồ sơ cơ bản về lực lượng lao động, cấp sổ lao động cho mọi người trong tuổi lao động. Năm 1980 bắt đầu vận động và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ người có sức lao động phải lao động, nếu không tìm được việc làm chính đáng phải chịu sự phân công và giải quyết việc làm của Nhà nước.

Tổ chức việc đào tạo tay nghề cho người lao động, đặc biệt là thanh niên và ưu tiên các nghề thuộc cơ khí chế biến nhựa, đồ gỗ, may, thêu, sơn mài, đá mài...

Tiếp tục giải quyết đưa số đồng bào kinh tế mới về trở lại chỗ cũ theo kế hoạch và sự phân công của Thành phố.

Ban kế hoạch phải có một bộ phận tham mưu cho cấp ủy giải quyết vấn đề bố trí sử dụng và tổ chức quản lý lao động có kết quả tốt.

e)- Văn hóa xã hội:

Tăng cường hơn nữa việc giáo dục và tổ chức phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới trong từng khu phố, cơ quan, xí nghiệp, trường học. Đề cao quan điểm sống quý trọng lao động, đoàn kết, tương thân, tương trợ, kỹ luật trật tự vệ sinh, xây dựng nếp sống giản dị, lành mạnh trong mọi gia đình mọi người. Bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan và các tệ nạn khác nhất là cờ bạc, Phát huy tinh thần làm chủ tập thể để xây dựng phong trào nếp sống văn hóa mới trong từng tổ dân phố. Kiên quyết chống lại việc lấn chiếm lòng lề đường mà mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tổ dân phố là những người hoạt động có hiệu quả nhất.

Thường xuyên chăm sóc, bảo vệ hệ thống thông tin cổ động, hệ thống loa, bảo đảm đưa tin kịp thời nhanh chóng.

Đẩy mạnh hoạt động thư việc, cổ vũ phong trào đọc sách, phục vụ nhân dân đọc sách. Mở rộng mạng lưới bán sách, cửa hàng sách mới, tổ chức bán ngoài giờ (kể cả đêm), ngày chủ nhật và ngày lễ.

Quý I/1980 xây dựng nhà truyền thống, tổ chức cửa hàng chụp ảnh, sang băng nhạc, sửa chữa dụng cụ phục vụ cho văn hóa thông tin.

Củng cố và tăng cường hoạt động của Nhà văn hóa Quận, xác định Nhà văn hóa có một vị trí quan trọng trong công tác văn hóa quần chúng, hướng dẫn các cơ sở, đẩy mạnh phong trào văn hóa mới. Hoạt động văn nghệ phải đi vào cơ sở và từ phong trào cơ sở mà hình thành đội nghiệp dư của Quận. Đẩy mạnh hướng sáng tác tự biên tự diễn phản ảnh người thật việc thật của phong trào cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.

Xây dựng công viên cây xanh ở mũi tàu Phú Lâm, các vườn chơi nhỏ ở phường 12, xây dựng vườn chơi ở khu vực Bia kỷ niệm, dựng thêm bia ở các nơi có truyền thống, có chiến công.

Tổ chức và đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh trong nhân dân, phong trào hể dục buổi sáng, phong trào bơi lội, chạy, bóng chuyền, bóng rổ, cầu lông, đá banh, rèn luyện võ thuật... Kết hợp thể thao với quốc phòng, đặc biệt là trong thanh thiếu niên, công nhân, các lực lượng vũ trang, bán vũ trang và các cơ quan Nhà nước.

Giáo dục ý thức vệ sinh phòng bệnh thành tập quán trong mọi gia đình, mọi tổ dân phố. Kiểm tra chặt chẽ việc chế biến thực phẩm, các cửa hàng ăn uống. Có nội quy và vận động ý thức làm chủ trong phong trào vệ sinh nhất là ở những nơi công cộng, xây thêm các hố rác và nhà vệ sinh công cộng. Chủ động và đảm bảo ngăn ngừa dịch bệnh, nhanh chóng và đủ sức dập tắt mầm dịch bệnh.

Xác định lại mạng lưới khám điều trị từ Quận đến phường. Tổ chức phòng chẩn trị đông y Quận và mở rộng khuyến khích phòng chẩn trị đông y phường do dân lập. Thành lập xí nghiệp chế biến thuốc dân tộc, khuyến khích và vận động nhân dân trồng cây thuốc tạo ra nguồn dược liệu chữa trị cho nhân dân. Tăng cường giáo dục và tổ chức đảm bảo các nơi khám chữa trị luôn luôn hết lòng phục vụ nhân dân. Thể hiện thật tốt khẩu hiệu: "Lương y như từ mẫu" trong toàn ngành. Quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng, sử dụng giáo dục bồi dưỡng anh chị em y, bác sĩ, y tá tại chỗ theo đúng chính sách của Đảng và Nhà nước.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội chữ thập đỏ trên cơ sở nắm vững tích chất, nội dung và phương thức của Hội. Phải mở rộng tổ chức, phát triển hội viên, củng cố các Ban Chấp hành Quận, phường để đủ sức đưa phong trào vươn lên góp phần phục vụ đắc lực đời sống và sức khỏe nhân dân. Đẩy mạnh phong trào kế hoạch hóa gia đình, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch bằng cách đặt vòng, dùng thuốc viên và các biện pháp khác.

- Giáo dục phải nỗ lực thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục và Nghị quyết của Ủy ban cải cách giáo dục Trung ương về việc tăng cường giáo dục đạo đức XHCN ở nhà trường.

Quý I/1980 tổ chức xong nhà trẻ nội trú, xây dựng nhà trẻ điển hình toàn diện, tăng thêm mẫu giáo, để đáp ứng yêu cầu gởi nuôi dạy trẻ cho cán bộ, công nhân viên của Quận.

Củng cố các trường phổ thông cơ sở về mọi mặt, tăng phòng học để giải tỏa ca trưa vào niên khóa tới, sửa chữa trường lớp, xây dựng trường lớp kiểu mẫu và có văn hóa. Ngành giáo dục phải chú ý lãnh đạo giúp đỡ trường Phú Định nhằm giữ vững và phát huy ngọn cờ đầu của Thành phố, từ đó nhân điển hình ra diện rộng ở các trường khác trong Quận.

Đối với học sinh, ngoài văn hóa phải chú ý rèn luyện, tu dưỡng toàn diện nhất là ý thức chính trị, ý thức tổ chức kỷ luậtvà đạo đức. Giáo dục xây dựng đội ngũ giáo viên XHCN, củng cố kiện toàn các ban giám hiệu.

Tiếp tục đẩy mạnh phong trào bổ túc văn hóa nhất là trong cán bộ, công nhân viên. Cần nghiên cứu tổ chức trường cho các thiếu nhi lang thang bụi đời, tạo điều kiện học thuận lợi cho các cháu vì khó khăn phải bỏ học.

- Về thương binh xã hội phải đi sát và giải quyết thật thỏa đáng với tinh thần "Nhớ ơn các liệt sĩ" trên cơ sở chính sách và chế độ Nhà nước ban hành.

Vận động mạnh mẽ phong trào làm theo lời Bác, chăm sóc gia đình TBLS, không để một gia đình nào phải băn khoăn thắc mắc về đời sống mà không được giải quyết, giúp đỡ đúng tình đúng nghĩa. Phải tổ chức công ăn việc làm cho con em liệt sĩ, cho thương binh còn sức lao động và con em thương binh, cho gia đình bộ đội, TBXP.

Các ngành liên quan phải có trách nhiệm phối hợp giải quyết tệ nạn xã hội. Năm 1980 tập trung giải quyết số nằm vỉa hè. Đồng thời phân loại đưa đi cưỡng bức lao động tập trung số lưu manh, lười biếng, tăng cường giáo dục và có biện pháp hành chính đẩy lùi các tệ: Cờ bạc, rượu chè, say sưa, mãi dâm, xì ke, ma túy. Để đảm nhận công tác phức tạp này cần phải củng cố tổ TBXH Quận và phường.

2- An ninh quốc phòng:

Phải làm cho toàn Đảng bộ nhất quán nhận định của Nghị quyết 6 của Trung ương: "hiện nay nước ta vừa có hòa bình, vừa có thể xảy ra chiến tranh do bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc gây ra". Chừng nào bọn theo chủ nghĩa bành trướng và bá quyền còn cầm quyền ở Trung Quốc thì nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn bị trực tiếp đe dọa và thường xuyên bị phá hoại, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là một trọng điểm phá hoại gây bạo loạn của kẻ thù. Vì vậy phải tăng cường công tác quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược bảo vệ tổ quốc.

a)- Quốc phòng:

- Tiếp tục thực hiện lệnh tổng động viên, phong trào quân sự hóa phải được tổ chức tốt và có chất lượng, xây dựng lực lượng tự vệ ở các xí nghiệp, hợp tác xã, kho tàng, trường học, bệnh viện, cơ quan mỗi phường phải có tổ chức 01 tiểu đoàn tự vệ rộng rãi. Từ nay đến hết năm 1980 phấn đấu xây dựng ở phường 1 trung đội tự vệ, ở Quận 01 đại đội bộ đội địa phương.

- Đưa công tác tuyển quân vào nề nếp chặt chẽ theo đúng chế độ, lấy giáo dục tư tưởng làm chính. Điều tra nắm chắc, lập hồ sơ... đến việc sử dụng các biện pháp cần thiết kể cả vận động tình nguyện vào bộ đội. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu chấp hành kiểm tra chặt chẽ để ngăn ngừa và loại trừ tình trạng cơ quan, xí nghiệp Nhà nước là chỗ dựa cho thanh niên trốn NVQS. Nghiêm khắc xử lý bằng kỷ luật nội bộ và pháp luật Nhà nước đối với mọi hành vi hối lộ, bao che, chứa chấp thanh niên trốn tránh nghĩa vụ. Qua điều tra hồ sơ nếu không đủ chuẩn vào quân đội thì thực hiện chế độ nghĩa vụ xây dựng kinh tế.

- Tổ chức cho lực lượng tự vệ phường tham gia sản xuất bằng cách xây dựng xí nghiệp tự vệ, chú ý vào ngành cơ khí.

- Củng cố các Ban chỉ huy quân sự phường cả về số lượng và chất lượng, phải bố trí cho được 01 phường đội phó phụ trách công tác tuyển quân. Tăng cường và củng cố các phòng ban và trợ lý cho Ban chỉ huy quân sự Quận. Thành lập và tăng cường Ban quân báo Quận để nắm tình hình hoạt động của địch.

- Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang". Chăm sóc giáo dục tình đoàn kết quân nhân, định chế độ và hướng dẫn công tác dân vận cho các lực lượng vũ trang.

b)- An ninh: Bất kỳ tình huống nào cũng phải đảm bảo an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh xã hội và phòng chống bạo loạn có hiệu quả. Cụ thể là:

- Tiếp tục tổ chức, giáo dục và mở rộng nâng cao chất lượng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, lấy tổ dân phố làm đơn vị, xây dựng tổ an ninh, củng cố lại tổ trưởng, tổ phó an ninh đảm bảo tin cậy và có năng lực. Phải xây dựng được phong trào có chất lượng đảm bảo an toàn cho các cơ quan, xí nghiệp, cửa hàng, kho tàng... Nắm chắc tình hình dân cư, cư trú, nhập và cắt hộ khẩu để đảm bảo việc thi hành nghiêm túc những quy chế và luật pháp của Nhà nước. Tăng cường giáo dục và xây dựng cho được một mạng lưới nòng cốt trong người Hoa đủ tin cậy để nắm tình hình. Đối với số người nhập cảnh bất hợp pháp, số trốn nước ngoài trở lại hoặc bị bắt thả về, trước mắt phải có kế hoạch quản lý chặt chẽ để xử lý đúng chủ trương của Thành phố. Phân loại và giải quyết số sĩ quan học tập cải tạo về đúng chính sách, xác định cho được số thật sự giác ngộ và số ngoan cố theo con đường bất chính.

- Đẩy mạnh công tác đấu tranh truy tìm, khám phá các tổ chức chính trị phản động và các hoạt động khác của chúng nhất là việc tung tin gây dư luận tác động tâm lý chiến, phải truy tìm cho ra đầu mối và nắm được phương thức hoạt động của chúng.

- Ra sức đấu tranh chống ăn cắp, bảo vệ nghiêm ngặttài sản XHCN, chống bọn tội phạm hình sự nhất là bọn giết người cướp của, cướp giật trên đường phố, cướp có tổ chức, có vũ khí, có phương tiện cơ động.

- Phải tập trung sức và cùng với cấp Thành phố giải quyết tình hình ngủ vỉa hè, chợ trời, lấn chiếm lòng lề đường buôn bán trái phép là nơi dựa và sống của bôn lưu manh, nơi tập trung các tệ nạn xã hội.

- Đảm bảo quản lý chặt chẽ và nghiêm ngặt việc sử dụng vũ khí, chống việc tàng trữ bất hợp pháp, nghiêm khắc xử lý mọi trường hợp vi phạm cả trong nội bộ, bằng nhiều biện pháp mạnh mẽ kể cả kiểm tra hành chánh.

- Củng cố và tăng cường lực lượng công an nói chung nhất là Ban chỉ huy phường, cảnh sát khu vực, các đội BVCT, BVNB, BVKT, hình sự, quản lý trị an, lực lượng CSBV.

- Công tác bắt, giam phải thực hiện đúng luật pháp và chính sách của Nhà nước. Tăng cường cán bộ cho các trại giam và trại cưỡng bức lao động có đủ phẩm chất và năng lực giáo dục cải tạo con người, biết tổ chức làm kinh tế và đời sống thông qua lao động.

c)- Tăng cường hoạt động của Ban nội chính, BCH Thống nhất từ Quận tới phường. Xác định địa bàn trọng điểm và các nơi xung yếu. Có phương án và tổ chức thực tập các phương án, tổ chức thao diễn, giữ vững tuần tra canh gác, sẵn sàng dập tắt các hình thức bạo loạn hay phá hoại của kẻ địch.

Ngành công an phải đề cao cuộc đấu tranh chống hối lộ và bị mua chuộc, chống tệ ức hiếp dân trên cơ sở đảm bảo và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Kiên quyết chấm dứt tệ đánh người, trù dập người tốt bao che kẻ xấu.

Quận ủy, phường ủy phải lãnh đạo chặt chẽ ngành công an, quân sự khắc phục ngay tình trạng cấp ủy buông lỏng lãnh đạo công an, quân sự và công an, quân sự không gắn mình vào sự lãnh đạo của cấp ủy nhất là ở phường.

Các cấp, các ngành trong Quận phải có kế hoạch cụ thể để chăm lo, góp phần cải thiện đời sống cho các lực lượng vũ trang và bán vũ trang.

3- Phát động phong trào quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đấu tranh kiên quyết khắc phục các mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội:

- Tăng cường giáo dục nội bộ và nhân dân nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực. Kiên quyết khắc phục tệ cửa quyền hách dịch. Nghiêm cấm mọi sự tùy tiện ra những quy định gây khó khăn phiền hà cho nhân dân của các ngành.

- Trong các cơ quan, xí nghiệp, bệnh viện, trường học, cửa hàng... phải thực hiện nghiêm chỉnh Nghị định 182/NĐ-CP và 217/NĐ-CP của Hội đồng Chính phủ.

- Phát huy quần chúng đấu tranh mạnh mẽ chống các tệ: Ăn cắp của công, cắt xén tiêu chuẩn củ nhân dân và cán bộ nhân viên, dùng quy thế hối lộ dưới mọi hình thức, ức hiếp quần chúng, trù dập người ngay, bao che kẻ xấu... Chú ý vào các ngành và cơ quan : Thương nghiệp, lương thực, vật tư, kho tàng, nhà đất, bệnh viện, tài chánh, thuế, các đơn vị sản xuất, xét nghĩa vụ quân sự, hộ khẩu, hình sự, trại giam... Có những vấn đề quan trọng và gút mắc, khó khăn, các cấp ủy, ủy ban phường, thủ trưởng các đơn vị cần phải tổ chức hội nghị lấy ý kiến quần chúng, có lãnh đạo và cử người có uy tín, có năng lực tham dự để lắng nghe. Phải giải đáp rõ ràng và giải quyết kịp thời những yêu cầu chính đáng của quần chúng.

- Thực hiện đúng chế độ định kỳ của Hội đồng nhân dân các cấp đúng luật định, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng các cấp tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành viên hội đồng hoạt động nhất là việc tiếp xúc với nhân dân và đề xuất ý kiến với ủy ban nhân dân.

- Nhân dân phát huy quyền làm chủ thông qua tổ chức đoàn thể của mình, vì vậy việc sinh hoạt tổ đoàn thể nhất thiết phải đưa nội dung làm chủ mà kiểm điểm và đóng góp cả 2 mặt nghĩa vụ và quyền lợi. Hàng tháng BCH các đoàn thể tập hợp ý kiến của quần chúng đề xuất hoặc phê bình các cơ quan cũng như cán bộ, đảng viên phản ảnh lại với chi bộ và ủy ban. Đoàn thể phải được xây dựng mạnh mẽ, phải xứng đáng là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân đấu tranh chống tiêu cực.

- Hoàn chỉnh, củng cố và đưa vào hoạt động thiết thực các thanh tra nhân dân các phường. Tổ chức ngay Ban thanh tra nhân dân ở bệnh viện và các tổ chức kinh doanh.

- Tăng cường Ban kiểm tra Đảng, củng cố và tăng cường Ban thanh tra Quận. Quận ủy thành lập một BCĐ để chuyên lo thực hiện nhiệm vụ phát động phong trào quần chúng chống các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội. Phải làm cho toàn Đảng bộ và nhân dân nắm vững đây là một nhiệm vụ cấp bách. Thái độ hời hợt, thiếu trách nhiệm trong cuộc đấu tranh này là hành vi vô kỷ luật, buông lỏng nhiệm vụ, phải được nghiệm khắc phê phán. Bằng mọi biện pháp kết hợp tất cả các lực lượng Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức dân cử cùng với nhân dân ra sức ngăn chặn, đẩy lùi đi đến chấm dứt các hiện tượng tiêu cực nêu trên.

4- Tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể:

a)- Toàn đảng bộ phải nắm vững và thực hiện đúng quan điểm đường lối của Đảng ta về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của từng tổ chức trong bộ máy chuyên chính vô sản, là một cơ chế hợp lý và đúng đắn nhất để thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân nhằm khắc phục những khuyết nhược điểm đang tồn tại trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua tổ chức của mình.

Đảng không bao biện làm thay nhưng không buông lỏng, khoán trắng cho các ngành chính quyền và đoàn thể, mà phải nắm chắc tình hình, đề ra những chủ trương, nghị quyết, biện pháp tổ chức và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện của các tổ chức nói trên.

Chính quyền phải thực hiện đúng các chủ trương, nghị quyết Đảng, biến nói thành chương trình kế hoạch, động viên quần chúng thông qua các đoàn thể mà thực hiện đồng thời chịu sự kiểm tra và báo cáo với Đảng.

Các đoàn thể phát huy sức mạnh của quần chúng, vận động quần chúng dấy lên các phong trào hành động cách mạng thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, của chính quyền bằng nhiều hình thức sinh hoạt phong phú của trí tuệ quần chúng.

Ra sức củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng, xây dựng cho được một chi ủy, ở phường đ/c bí thư và chủ tịch phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực lãnh đạo toàn diện nhất là lãnh đạo kinh tế đời sống. Bố trí đủ cán bộ Đảng phụ trách dân vận ở phường và cán bộ công đoàn, đoàn thanh niên công sản ở các đơn vị kinh tế cơ sở và cơ quan hành chánh sự nghiệp.

Cải tiến chế độ sinh hoạt của chi bộ, đảm bảo có nội dung sát hợp bám sát nhiệm vụ chính trị và xác định rõ: chấp hành chế độ sinh hoạt, báo cáo thỉnh thị chế độ kỷ luật của Đảng. Thường xuyên và nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình trong hội nghị chi bộ. Tăng cường đoàn kết nội bộ trên cơ sở đường lối chính sách của Đảng; nâng cao tình đ/c đấu tranh bảo vệ cái đúng và phê phán cái sai một cách nghiêm túc và có lý có tình. Đề cao phương pháp lãnh đạo bằng hội nghị nghe báo cáo phân tích tình hình, ra chủ trương, nghị quyết, định tổ chức bố trí cán bộ, kiểm tra đôn đốc, xây dựng điển hình, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và phổ biến nhân điển hình.

Kiện toàn và tăng cường các ban của Đảng. Công tác tổ chức phải tăng cường bố trí đủ cán bộ các bộ môn, đảm bảo nắm chắc tình hình cán bộ có năng lực vạch kế hoạch tổ chức và quy hoạch cán bộ, tham mưu bố trí phân công cán bộ sát người, sát việc vì lợi ích của Đảng. Bố trí cán bộ đủ cho Ban tuyên giáo, trường Đảng để đảm bảo nắm chắc và kịp thời tình hình tư tưởng đảng viên và nhân dân, đề ra kế hoạch tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng sát hợp. Đề cao dân chủ và kỹ luật Đảng, tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện đúng phương châm lấy giáo dục ngăn chặn làm chính, khi xử lý phải nghiêm minh, chặt chẽ và kịp thời để nâng cao tác dụng giáo dục trong Đảng.

Các ban Đảng phải nắm vững mối liên hệ lẫn nhau và cùng bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, lập quy hoạch đào tạo cán bộ dài hạn, một mặt tăng cường gởi cán bộ đi đào tạo ở các trường lớp cấp trên, mặt khác trường Đảng Quận phải lập kế hoạch liên tục hoàn thành các yêu cầu: Đảng viên phải qua chương trình cơ sở, đào tạo cán bộ quần chúng cho các đoàn thể, kết hợp các ngành mở lớp nghiệp vụ, tổ chức lớp tại chức... phương hướng huấn luyện đào tạo là giáo dục về chủ nghĩa Mác-Lênin, về quản lý kinh tế, về xây dựng Đảng và làm cho Đảng bộ thông suốt các nghị quyết của Đảng, làm quán triệt và thấm nhuần các nhiệm vụ chính trị của Đại hội Đảng. Các ban Đảng phải đảm bảo chức năng tham mưu đề xuất kế hoạch biên chế để trong thời gian nhất định phải làm chuyển biến mạnh mẽ chất lượng chính trị của Đảng bộ theo Chỉ thị 27 của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Bên cạnh trường lớp, phát động phong trào học tập rộng rãi trong cán bộ đảng viên để nâng cao kiến thức và năng lực về mọi mặt nhằm đáp ứng yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng. Định và thực hiện nghiêm túc chế độ học tập ở chi bộ. Phát động việc đảng viên đăng ký nâng cao chất lượng đảng viên theo tiêu chuẩn xác định.

- Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên. Củng cố để có chất lượng cao cho việc phát thẻ đảng viên vào đầu năm 1980 theo chủ trương của Bộ Chính trị. Hoàn thành tốt với chất lượng cao nhất công tác phát thẻ đảng viên.

Phải nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu đảng viên theo hướng: tăng tỉ lệ đảng viên hoạt động gắn liền với quần chúng, với sản xuất và các hoạt động chăm lo đời sống, nhất là ở các phường, các đơn vị kinh tế cơ sở, nâng cao tỉ lệ đảng viên xuất thân công nhân và lao động trực tiếp sản xuất, đảng viên trẻ và nữ, hạ thấp tuổi đời bình quân đảng viên trong Đảng bộ. Qua 2 năm 1980 - 1981, cơ cấu đảng viên phường phải đạt tỷ lệ quá bán đảng viên công tác dân chính đảng, toàn Đảng bộ phải có 2/3 đảng viên công tác ở cơ sở, nỗ lực phấn đấu phát triển từ 300 đảng viên mới trở lên. Xây dựng cho được chi bộ ở các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp, công ty, của hàng, trường học và các đơn vị kinh tế cơ sở khác. Để thực hiện yêu cầu trên phải làm cho tất cả các chi bộ và đảng viên nhận rõ tình hình đảng bộ, để có sự chuyển biến mạnh mẽ về quan điểm phát triển đảng viên và xây dựng cơ sở Đảng. Ở những nơi chưa có chi bộ hoặc tổ Đảng, Quận ủy phân công Quận ủy viên và một số cán bộ Đảng phụ trách xây dựng cơ sở Đảng. Quận ủy trực tiếp xét duyệt và quyết định kết nạp qua giới thiệu của các đ/c được phân công theo đúng thủ tục và điều lệ Đảng.

Trước khi phát triển Đảng phải xây dựng được tổ trung kiên, công đoàn và đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Nghiêm khắc phê phán và kiên quyết chống tư tưởng hẹp hòi, định kiến cá nhân và mọi động cơ quan điểm làm cản trở sự phát triển của Đảng, đồng thời đề phòng sự hời hợt kết nạp vào Đảng những người không đúng tiêu chuẩn và tư cách đảng viên.

b)- Kiện toàn UBND Quận và phường nhằm nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế, xã hội và trị an theo yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Phải chú trọng bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao năng lực quản lý kinh tế cho UBND phường, các ban giám đốc xí nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã, ban chủ nhiệm công ty. Củng cố các ban ngành cấp Quận vững mạnh trong sạch. Trước mắt tăng cường ngay ban tài chính đủ sức làm nhiệm vụ hướng dẫn và quản lý thực hiện ngân sách được phân cấp. Ủy ban nhân dân các cấp phải thực hiện được sự điều khiển hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, thống nhất, đảm bảo chấp hành kỷ luật nghiêm túc. Khắc phục tình trạng tùy tiện phớt lờ, chỉ theo ngành dọc mà không gắn bó với sự chỉ đạo thực hiện của ủy ban, khắc phục lối hoạt động ăn rã, đơn độc. Cải tiến chế độ làm việc có hiệu suất cao và không gây nhiều phiền hà cho nhân dân và cho các cơ quan khác. UBND phường phải thực hiện đầy đủ chế độ thỉnh thị báo cáo với UBND Quận và phường ủy, UBND Quận phải giữ vững chế độ kỷ luật tổ chức đối với UBND Thành phố và sự lãnh đạo của Quận ủy.

Thực sự đề cao vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp, tổ chức các hoạt động của Hội đồng đúng quy định, tôn trọng quyền hạn và nhiệm vụ của các đại biểu nhằm làm cho Hội đồng cũng như mỗi đại biểu ngày càng đạt được sự tín nhiệm cao của nhân dân, thực hiện có hiệu quả quyền làm chủ tập thể thông qua Hội đồng nhân dân. Đề cao quyền lực và chế độ tập thể của Hội đồng, nâng cao chất lượng các kỳ họp, giữ vững các quy chế và pháp luật đã định. Các đảng viên là thành viên HĐND phải thấy hết vinh dự và trách nhiệm của mình, phải tiền phong gương mẫu trong mọi hoạt động của hội đồng.

Tiếp tục củng cố các tổ dân phố, kiên quyết thay thế những người không có năng lực và đạo đức. Bố trí được người tin cậy được quần chúng tín nhiệm thông qua bầu cử dân chủ và tự giác của quần chúng. Xây dựng tổ dân phố đoàn kết, tự quản về các mặt đời sống trên cơ sở phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng.

c)- Các đoàn thể phải nắm vững chức năng cơ bản là vận động, giáo dục, tổ chức quần chúng nhằm dấy lên phong trào cách mạng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng đề ra. Phải nhanh chóng khắc phục tình trạng hành chánh, quan liêu hóa trong hoạt động đoàn thể, xây dựng nề nếp hoạt động và sinh hoạt gắn liền với sản xuất tổ chức đời sống, giữ gìn an ninh trật tự, xây dựng chính quyền và đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, phát huy những mặt tích cực. Đẩy mạnh phong trào thi đua trên mọi mặt, kịp thời khen thưởng các đơn vị và cá nhân lập nhiều thành tích để động viên cổ vũ phong trào. Ban thi đua phải định kỳ có sơ kế, tổng kết để rút kinh nghiệm phục vụ chi chỉ đạo. Phong trào cách mạng của quần chúng phải được tổ chức gắn liền với hoạt động kinh tế và xã hội, gắn liền lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài và kết hợp chặt chẽ 3 lợi ích Nhà nước, tập thể và mỗi người.

Quận 6 có tỉ lệ người Hoa khá đông, mang nhiều đặc điểm riêng biệt và đang đứng trước âm mưu nham hiểm của kẻ thù phản bội Bắc kinh, vì vậy, phải hết sức quan tâm lãnh đạo, tổ chức và vận động cách mạng trong quần chúng người Hoa đúng quan điểm và chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Ban dân vận phải đi sâu nghiên cứu để có phương hướng và phương châm vận động có hiệu quả, trước hết xây dựng một tổ chức chuyên trách và phải tạo ra được 1 mạng lưới nòng cốt tin cậy trong người Hoa. Cán bộ Quận ta nói chung cần học tiếng Hoa mà trước hết là cán bộ đoàn thể và các cán bộ có yêu cầu công tác trong khu vực người Hoa đông đúc. Đây là một đặc điểm lớn của Quận mà Đảng bộ đã xác định cuộc vận động này là một cuộc đấu tranh chính trị sâu sắc với kẻ thù có âm mưu lợi dụng người Hoa để chống cách mạng.

Đoàn Thanh niên cộng sản phải tăng cường củng cố và phát triển mạnh mẽ, nâng cao số lượng và chất lượng đoàn viên, phải chú ý cả 2 mặt mới đáp ứng yêu cầu chung đặc biệt quan tâm là chất lượng.

Trong năm 1980 phải xây dựng được chi đoàn ở các đơn vị, xí nghiệp, trường học, hợp tác xã TTCN, tổ chức đông lao động, xí nghiệp tư nhân đông công nhân, công ty, cửa hàng, nông trường, công trường, đội sản xuất... phải có đoàn viên có chất lượng ở các kho hàng, tổ phục vụ và tổ sản xuất... quan tâm hơn nữa việc giáo dục và phát triển đoàn trong cảnh sát khu vực và tự vệ phường.

Phải tổ chức được các phong trào thanh niên có khí thế cách mạng, phong trào 3 xung kích làm chủ tập thể, gắn liền phong trào thanh niên với sản xuất, tổ chức đời sống, giữ gìn an ninh bảo vệ tổ quốc, xây dựng nếp sống văn hóa mới và kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực.

Phải tăng cường giáo dục lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, đạo đức cách mạng và quan niệm cuộc sống lành mạnh, giản dị trong thanh niên.

Thông qua các phong trào, Đoàn phải thường xuyên bồi dưỡng, giáo dục và giới thiệu cho Đảng những đoàn viên ưu tú để xét phát triển Đảng.

Đoàn phải chủ động kết hợp với nhà trường và gia đình tăng cường giáo dục lãnh đạo Đội Thiếu niên tiền phong. Phải tổ chức tốt hoạt động Đội để gắn liền các phong trào thiếu niên nhi đồng vào các hoạt động giáo dục, xã hội và lao động. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào kế hoạch nhỏ và công tác Trần Quốc Toản, phong trào phấn đấu vào Đội và trở thành cháu ngoan Bác Hồ.

Công đoàn phải đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng trong công nhân viên chức và người lao động, phát triển đoàn viên, hội viên Hội lao động hợp tác ở các cơ sở sản xuất kinh doanh, sự nghiệp. Kiện toàn các Hội lao động hợp tác ở phường và đến giữa năm 1980 phải xây dựng được công đoàn cơ sở và Hội lao động hợp tác ở hầu khắp các đơn vị sản xuất sự nghiệp... bồi dưỡng giáo dục cho đoàn viên, công nhân viên chức nắm vững Nghị định 182 và 217 của Hội đồng Chính phủ để thực hiện, nắm vững 5 mặt quản lý của xí nghiệp, tổ chức và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm, tăng năng suất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, khắc phục khó khăn tạo ra nhiều hàng. Cần chú trọng việc chăm lo bảo hộ lao động và tổ chức tốt đời sống công nhân viên chức. Củng cốbộ máy tổ chức công đoàn Quận, cùng với UBND củng cố và đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm xã hội.

- Hoạt động Hội Liên hiệp Phụ nữ phải gắn liền với chăm lo đời sống tổ chức, vận động chị em tham gia sản xuất với các ngành thích hợp lao động nữ, tạo việc làm cho lao động phụ gia đình. Cùng với các đoàn thể khác tổ chức tốt phong trào xây dựng nếp sống mới, sinh đẻ có kế hoạch, các chị, các mẹ tích cực xây dựng chính quyền, đấu tranh chống các mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế và xã hội. Tiếp tục phát triển hội viên, củng cố và tổ chức các chi hội cơ sở gắn liền hoạt động Hội với tổ dân phố. Củng cố và tăng cường Ban Chấp hành Quận theo hướng mạnh dạn đề bạt, chọn lọc cán bộ từ cơ sở, từ phong trào.

- Công tác mặt trận phải tăng cường đoàn kết các giới, đoàn kết quần chúng người Hoa, đoàn kết các tôn giáo, chú ý công tác giáo dục và vận động giới trí thức tại chỗ, giới tiểu chủ, tư sản công thương nghiệp đi vào cải tạo và phát huy tài năng phục vụ Tổ quốc . Tiếp tục đẩy mạnh vận động, tổ chức Hội phụ lão rộng rãi và có chất lượng ở khắp các phường.

Xây dựng và giữ vững nề nấp hoạt động của ủy ban mặt trận các cấp đi vào đời sống, sản xuất, an ninh trật tự và mọi hoạt động phải đi vào con người, nắm chắc đối tượng đề cao vận động thuyết phục, hết sức tránh hình thức quan liêu hóa. Giữ vững sinh hoạt định kỳ, phát huy hiệu lực tiếng nói của các thành viên mặt trận đối với tổ chức chính quyền , Đảng và đoàn thể.

KẾT LUẬN:

Chúng ta tiến hành Đại hội lần thứ II trong điều kiện cả nước đang nỗ lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Chúng ta đang có những thuận lợi to lớn: Có nghị quyết của Trung ương và Thành ủy nhất là Nghị quyết Trung ương lần thứ 6, có lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta và sự ủng hộ rộng rãi mạnh mẽ của nhân dân thế giới mà trước hết là Liên Xô và các nước XHCN anh em. Đặc biệt là sự vững vàng và trưởng thành của Đảng bộ, nhưng bên cạnh cũng còn rất nhiều khó khăn trong quá trình đi lên và do kẻ thù gây ra, mặt khác Đảng bộ cũng còn bộc lộ nhiều nhược điểm yếu kém và còn phạm nhiều khuyết điểm trong lãnh đạo và thực hiện.

Nhiệm vụ 2 năm 1980 - 1981 do đại hội xác định là rất to lớn và nặng nề, toàn Đảng bộ phải đem hết sức mình thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công tác đã đề ra. Sau đại hội, các cơ sở, ban ngành phải có chương trình kế hoạch cụ thể để thực hiện.

- Ban Chấp hành mới phải có những nghị quyết, chủ trương cụ thể từng mặt công tác để chỉ đạo thực hiện.

- Tuy còn nhiều nhược điểm yếu kém và đời sống của cán bộ nhân viên còn nhiều khó khăn, nhưng đảng bộ ta có truyền thống nhất trí, có đội ngũ đảng viên sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, hết lòng vì lợi ích của nhân dân . Trước yêu cầu mới của nhiệm vụ đòi hỏi tất cả đảng viên trong đảng bộ phải nêu cao vai trò tiên phong của người cộng sản, toàn tâm, toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, vững vàng trong mọi tình huống thì chúng ta tin chắc dù với nhiệm vụ to lớn, khó khăn nào Đảng bộ ta cũng sẽ hoàn thành được nhiệm vụ chính trị mà Đại hội quyết định, góp phần đắc lực của mình vào việc thực hiện nghị quyết của Đảng bộ Thành phố trong 2 năm tới.

ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ QUẬN 6

TP. HỒ CHÍ MINH - LẦN THỨ HAI

Thông báo