Hai năm qua, nhất là sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, những chủ trương mới đã chỉ ra hướng đi có nhiều triển vọng và thuận lợi; nhưng quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn gay gắt, đặc biệt là trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và đời sống của nhân dân. Tình hình đó đã ảnh hưởng đến việc thực hiện những nhiệm vụ mà Đại hội Quận Đảng bộ lần thứ IV đề ra.
Đại hội Đảng bộ Quận lần này có nhiệm vụ đánh giá đúng thực trạng tình hình của Quận, kiểm điểm những việc đã làm được, chưa làm được và những nguyên nhân, từ đó vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu sát hợp, đưa Quận 3 từng bước đi dần vào thế ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho những năm tới.
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ VÀ ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ QUẬN LẦN THỨ IV
Ngành sản xuất tiểu thủ ôcng nghiệp hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, đã không ngừng phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ lần thứ IV đề ra và góp phần quan trọng vào việc đóng góp cho ngân sách của Quận. Giá trị tổng sản lượng Đại hội đề ra cho năm 1987 là 780 triệu đồng, thực hiện được 937 triệu, năm 1988 là 930 triệu thực hiện được 1,2 tỷ, trong đó giá trị các mặt hàng xuất khẩu chiếm 27,7%. Không tính phần các cơ sở tự lo và phần viện trợ của các tổ chức từ thiện, Quận đã đầu tư 662,363 đô la rúp để nhập máy móc trang bị cho các ngành may, may da, điện tử, đông lạnh và các ngành này đã bắt đầu phát huy tác dụng, đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Mô hình hợp doanh trong sản xuất phát huy được tác dụng và hiệu quả cao. Gần đây nhiều cơ sở đầu tư lớn hơn, một số cơ sở đã liên doanh với nước ngoài đang mở rộng quy mô hoạt động, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có dấu hiệu phát triển, tiềm năng về vốn, khoa học kỹ thuật bắt đầu được khơi dậy; trong sản xuất đã chú trọng đến hìnhthức, chất lượng, có những sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng Nhà nước; ngành may, may da, thêu được khách hàng ở một số khu vực 1 và 2 ưa chuộng; ngành chế biến hải sản có uy tín với nước ngoài - giữ được ưu thế ở thành phố. Hai năm đã thu hơn 2.800 lao động vào khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Những cơ sở sản xuất hoạt động không hiểu quả đã chuyển xuống hình thức thấp hơn, tạo điều kiện để các cơ sở đi vào hoạt động đúng thực chất.
Nhưng nhìn chung sản xuất của Quận còn bấp bênh, những cơ sở có năng lực hoạt động thì nguồn vật tư không ổn định hoặc chỉ phục vụ cho những năm trước mắt để tạo vốn ban đầu; những ngành nghề truyền thống chưa được phát huy. Trong 2 chương trình phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu thì hàng xuất khẩu thực hiện tương đối tốt, hàng tiêu dùng còn ít. Một số cơ sở sản xuất còn làm ảnh hưởng môi sinh, môi trường, biện pháp xử lý không tốt, ảnh hưởng sức khoẻ nhân dân. Việc khai thác tiềm năng để phát triển sản xuất như lao động, vốn, khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Một số máy móc nhập về không đưa vào sử dụng kịp thời và một số lại không đồng bộ làm hạn chế việc phát huy hiệu quả. Khu vực sản xuất ngoài quốc odanh bung ra chưa mạnh, một thời gian dài gần 30% số cơ sở hoạt động cầm chừng, chỉ mới chuyển động sau khi có nghị quyết 16 của Bộ Chính trị, những mặt hàng có giá trị và chất lượng cao còn ít. Đời sống vật chất, tinh thần của những người lao động thủ công nhất là trong khu vực tập thể còn thấp, chưa đủ để tái sản xuất sức lao động. Tác động của đảng, chính quyền, các đoàn thể để sản xuất bung ra còn hạn chế, phần lớn các cơ sở mới ra đời do yêu cầu cuộc sống của họ.
Trong tình hình nguồn vốn xây dựng cơ bản còn ít, Quận có chú trọng thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Quận và cơ sở cùng làm” nên trong 2 năm đã có thêm một số công trình phục vụ cho phát triển kinh tế và đời sống như mở rộng Xí nghiệp hải sản, Xí nghiệp Tân Định, Xưởng đông lạnh, Xưởng điện tử, cải tạo và sửa chữa cầu Vườn Xoài, Công trình điện, nước, vệ sinh công cộng ở các phường, công trình hồ bơi, sửa chữa và mở rộng trường Đô Lương… với tổng kinh phí đầu tư xấp xỉ 3 tỷ đồng, phần lớn các công trình đã phát huy được tác dụng. riêng hồ bơi do sai sót ở khâu thiết kế và thi công, thời gian xây dựng kéo dài gây lãng phí; tình trạng nhà cửa, đường sá, cống rãnh tiếp tục xuống cấp nghiêm trọng.
Giao thông vận tải có khai thác và sử dụng được các phương tiện vận tải quốc doanh, tập thể, đảm bảo thực hiện được kế hoạch vận chuyển hàng năm. Lực lượng cơ giới thi công cầu đường được đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh, có tham gia thi công một số công trình ở các tỉnh; hoàn thành kế hoạch duy tu và sửa chữa cầu, đường theo phân cấp của thành phố. Tuy vậy khả năng phát riển ngành vận tải còn hạn chế, phương tiện vận tải quốc doanh còn ít, chưa thực hiện được kinh doanh vận tải, vận tải quốc doanh nếu tính đúng tính đủ là không có lãi.
Nhà đất, Công trình công cộng đã thực hiện một số nhiệm vụ mà Đại hội đề ra như xây dựng nhà mới, sửa chữa nhà bị hư hỏng, giải quyết cấp nhà cho cán bộ công nhân viên và các gia đình chính sách, điều chỉnh mặt bằng cho các đơn vị sản xuất kinh doanh; duy tu bảo quản được một số đường hẻm, cống rãnh, đèn đường, vĩa hè, vệ sinh đường phố, chăm sóc các công viên theo phân cấp. Song trên lĩnh vực này còn một số tồn tại, nhà cấp 3, cấp 4 ban đầu Thành phố chủ trương hoá giá nhưng sau ngưng lại nên chưa hoá giá được bao nhiêu (chỉ tiêu Đại hội đề ra hoá giá 80%), chương trình xây dựng 100 căn hộ mới chỉ thực hiện đượcv 43 căn; quận chưa thực hiện được việc kinh doanh nhà; mặt bằng ít nhưng vẫn còn sử dụng bất hợp lý, chưa phát huy hết công năng nhà xưởng. Đường hẽm, cống rãnh do Quận không phân cấp cho phường quản lý, để hư hỏng nặng mới sửa chữa, gây tốn kém lãng phí; nhiều công trình thi công kéo dài, chất lượng không đảm bảo.
Khu vực kinh tế ở Đắc Nông, Duyên Hải vẫn được duy trì. Tại Đắc Nông, ngoài việc trồng cao su theo kế hoạch của Thành phố, đã xen canh trồng sả, gừng, và trồng cà phê; ở đây tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng có những biến đổi rõ rệt và bước đầu hạch toán có lãi. Duyên Hải tập trung phát triển cây bạch đàn, dừa nước, nhưng do điều kiện nước và đất chua mặn nên không triển khai được việc nuôi tôm, cá như kế hoạch Đại hội đề ra. Hiệu quả kinh tế ở Duyên Hải rất thấp mặc dù đã sử dụng lực lượng cải tạo viên để lao động cho nông trường. Đại hội lần trước đề ra đến năm 1990 phải đưa về đây 50 hộ dân nhưng chưa thực hiện được và nếu như không có kế hoạch cụ thể thì cũng khó thực hiện được kế hoạch đề ra; việc giáo dục số cưỡng bức lao động tại đây còn kém; một số trại viên mãn hạn trở về tiếp tục phạm pháp, quản lý lao động lỏng lẻo, để trại viên trốn về thành phố quá nhiều.
Thương nghiệp XHCN có nhiều cố gắng phấn đấu khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần tự lực tự cường, từng bước cải tiến phương thức kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức, nhờ vậy mà toàn ngành đã thực hiện được nhiệm vụ đề ra. Các chỉ tiêu về doanh số và một số mặt hàng chủ yếu hàng năm đều đạt và vượt kế hoạch (năm 1987 doanh số bán ra 11,03 tỷ, đạt 104% kế hoạch, năm 1988 doanh số bán ra 34,5 tỷ đạt 104% kế hoạch) bảo đảm được những mặt hàng thiết yếu cho người tiêu dùng. Quận cũng đã nhận ra những thiếu sót chủ quan nóng vội trong việc cải tạo một số ngành hàng dưới các hình thức “cửa hàng hợp tác kinh doanh” mà thực chất là tư nhân chi phối nên đại bộ phận đã trả về tư nhân. Tuy vậy vẫn còn những khuyết nhược điểm như bộ mặt thương nghiệp của Quận còn nghèo nàn, chưa khai thác hết mặt bằng hiện có, thương nghiệp quốc doanh, HTX không cạnh tranh được với thương nghiệp tư nhân về phương diện giá cả, thị trường, thị hiếu, chất lượng hàng hoá, tinh thần thái độ phục vụ, thời gian mua bán, nhiều cửa hàng vắng khách, hành chánh hoá trong mua bán và có nơi còn cửa quyền. Các cửa hàng ăn uống quốc doanh chất lượng ngày càng sa sút, khách sạn xuống cấp, điểm ăn nhậu của tư nhân phát triển tràn lan lấn chiếm lòng lề đường.
Các hoạt động dịch vụ chuyển dần theo hướng phục vụ phát triển kinh tế và phục vụ đời sống nhân dân, nhưng vừa qua hướng bung ra của dịch vụ chưa mạnh, chỉ có những dịch vụ nhỏ như may đo, uốn tóc, sửa chữa và một số dịch vụ chế biến; những dịch vụ có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế như du lịch, khách sạn, nhà ở, vận tải, xây cất… chưa khai thác được; tiềm năng dịch vụ trong nhân dân còn lớn nhưng chưa bung ra, Ban chấp hành đã có hướng chỉ đạo phát triển dịch vụ từ đầu năm 1988 nhưng việc tổ chức thực hiện chưa tốt, chưa tạo ra được những khu vực và trung tâm dịch vụ của Quận.
Quận có mạnh dạn đầu tư vốn cho khu vực kinh tế quốc doanh, hợp doanh nhằm tạo điều kiện để phát triển mạnh thành phần kinh tế này, nguồn thu cho ngân sách hiện nay chủ yếu từ các công ty xí nghiệp và việc cân đối ngày càng theo hướng ổn định. Thu ngân sách Quận năm 1987 là 1,1 tỷ, năm 1988 là 4,4 tỷ đồng. Theo phân cấp của thành phố diện chi của Quận rộng hơn, nhưng 2 năm qua vẫn đảm bảo được. Tài chính chưa làm tốt việc kiểm tra hạch toán ở cơ sở, nhiều cơ sở không tính đúng, tính đủ đến khi thực hiện Chỉ thị 118/CT mới phát hiện một số cơ sở rơi vào tình trạng “lãi giả, lỗ thật” và “ăn” vào vốn cố định.
Thuế có nhiều nỗ lực lớn để thực hiện chủ tiêu trên giao, hai năm 1987 và 1988 đã thu gần 3 tỷ đổng, vượt kế hoạch Thành phố giao; có linh hoạttrong việc miễn giảm thuế cho những đơn vị mới mở ra và những mặt hàng có yêu cầu phát triển. Tuy vậy chính sách thuế còn bất hợp lý trên nhiều mặt, nếu thu đúng như pháp lệnh thì nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh phải đóng cửa, người buôn bán nhỏ không thể tiếp tục hoạt động, thuế còn rơi vào tình trạng vừa lạm thu vừa thất thu.
Tuy còn trong cơ chế bao cấp và tiền mặt luôn bị căng thẳng nhưng Ngân hàng đã có nhiều cố gắng góp phần vào việc giải quyết nguồn vốn cho phát triển kinh tế ở Quận; gần đây Ngân hàng đã có đổi mới, từng bước áp dụng cơ chế hạch toán kinh doanh và bước đầu đã phát huy được hiệu quả. Bên cạnh Ngân hàng Nhà nước, Quận có mạnh dạn cho phát triển loại hình HTX tín dụng nên cũng đỡ góp phần tháo gỡ khó khăn về tiền mặt cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh và giảm được tình trạng cho vay nặng lãi trong nhân dân. Mặt hạn chế của Ngân hàng trong thời gian quan là chuyển hướng kinh doanh chậm, thiếu cơ chế linh hoạt và nếu tình hình này còn kéo dài thì hoạt động Ngân hàng vẫn còn khó khăn, công tác tiết kiệm và công tác tín dụng Ngân hàng sẽ hoạt động kém hơn so với các HTX tín dụng ở phường.
Hai năm qua, Quận đã tạo ra được những bước chuyển biến mới trên lĩnh vực quan hệ kinh tế đối ngoại; ngoài việc mở rộng quan hệ với các nước XHCN, đã quan hệ với Nhật Bản, Úc, Pháp, Hồng Kông, Singapore, Philippin để mua bán và hợp tác sản xuất. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1987 là 15,2 triệu đô la rúp năm 1988 xuất 27 triệu đô la rúp. Trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu, hàng sản xuất tại Quận chiếm 60%. Mặc dù tỷ giá hối đoái chưa thật hợp lý, nhưg số ngoại tệ huy động từ Việt kiều nước ngoài gởi về cũng khá hơn trước, năm 1987 kiều hối bằng ngoại tệ và vật tư nguyên liệu tương đương 720.000 đô la, năm 1988 thực hiện 1,81 triệu đô la. Tuy vậy trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Quận chưa được quan hệ trực tiếp, còn phải qua nhiều tầng nấc trung gian; đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm còn ít. Các dịch vụ phục vụ khách du lịch, phục vụ Việt kiều là nguồn thu ngoại tệ tại chỗ nhưng vẫn chưa khai thác được. Việc nhập thiết bị cho một vài cơ sở sản xuất không đồng bộ, phương án nghiên cứu chưa kỹ, do đó hiệu quả thấp và lãng phí; lãi nộp ngân sách còn ít.
Phương hướng cơ bản để giải quyết vấn đề đời sống là tạo việc làm cho người lao động, trong 2 năm đã giải quyết được 8.178 lao động (chỉ tiêu Đại hội lần IV Đảng bộ đề ra là 8.000 người) trong đó 3.161 người có việc làm ổn định. Tiền lương trong khu vực kinh tế Quận không hạn chế mức tối đa; còn đối với khu vực hành chính sự nghiệp thì tạo điều kiện để đơn vị tự tổ chức sản xuất cải thiện đời sống. Riêng ngành Giáo dục, quận đảm bảo các khoản trợ cấp đủ 80kg gạo/tháng theo chủ trương của Thành phố, vào những tháng cuối năm 1988 Quận đã trợ cấp đồng loạt cho mỗi cán bộ công nhiên viên khu vực hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang và các đồng chí nghỉ hưu mễu tháng 5.000đ. Quận đã cấp thêm một số nhà theo diện phân cấp quản lý của Thành phố; các phường cũng đã xây và sửa chữa nhà cho diện chính sách, đối tượng neo đơn; ngoài ra cũng đã giải quyết được một số yêu cầu bức thiết ở các khu xóm lao động như sửa đường, thông cống, xây nhà vệ sinh công cộng…
Nhìn chung việc giải quyết đời sống vừa qua Quận có nhiều cố gắng, nhưng cách giải quyết chưa thật căn cơ, phần lớn các biện pháp đều chắp vá, chưa tạo điều kiện để cán bộ công nhân viên và nhân dân tự lo giải quyết đời sống cho chính mình. Trong khi đó tình hình giá cả tăng vọt làm cho đời sống cán bộ, công nhân viên khu vực hành chính, lực lượng vũ trang, các đồng chí nghỉ hưu, nhân dân lao động cực kỳ khó khăn.
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Quận vẫn cố gắng duy trì số học sinh ở các ngành học, hệ thống phổ thông và phổ cập đêm đã thu nhận phần lớn trẻ vào cấp I; hệ thống bổ túc văn hoá các cấp đã thu hút khá đông cán bộ công nhân viên của Quận và phường theo học; phổ thông trung học hệ B được thành lập để thu nhận số học sinh không đậu vào lớp 10 hàng năm. Giáo dục đã phát triển theo hướng đa dạng và thích hợp với các đối tượng theo học, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn trong nhân dân. Kỷ cương nền nếp trong trường học tương đốu ổn định; tệ càn quấy, gây rối của một số học sinh chưa ngoan có giảm. Tuy nhiên chất lượng giáo dục, trước hết là chất lượng đạo đức, văn hoá vẫn sa sút; còn thiếu các điều kiện để đáp ứng yêu cầu cải cách giáo dục. Sư 5phối hợp trong việc giáo dục học sinh ở nhà trường, gia đình và địa phương thiếu chặt chẽ. Chưa tập trung đúng mức cho nhiệm vụ phổ cập cấp I và giải quyết triệt để tình trạng mù chữ trong dân.
Đối với số học sinh đã nghỉ học, số không vào được đại học, thanh niên mãn nghĩa vụ quân sự trở về cũng đã được dạy nghề và phần lớn đều được giải quyết việc làm. Trong 2 năm Trung tâm dạy nghề đã đào tạo và giải quyết cho 3.400 học viên có việc làm. Tuy vậy trên lĩnh vực này Quận quan tâm không đúng mức về mặt lãnh đạo chỉ đạo cũng như đầu tư cơ sở vật chất, cho nên đến nay cơ sở vẫn chưa ổn định.
Công tác thông tin, tuyên truyền đã góp phần vào việc hướng dẫn dư luận và phổ biến những chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đài phát thanh, bản tin đã đưa được những thông tin cần thiết đến các cơ quan đơn vị và nhân dân. Hoạt động văn hoá văn nghệ phát triển rộng, phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở đã phát triển tốt ở khu vực cơ quan, trường học và một số phường, mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân có tăng, một số nơi hoạt động văn hoá văn nghệ trở thành nhân tố trong đời sống tinh thần. Trên cơ sở những giá trị văn hoá truyền thống, đã từng bước xây dựng nếp sống văn hoá mới, góp phần ngăn chặn các tệ nạn, mô tín, dị đoan, hủ tục lạc hậu, văn hoá đồi truỵ phản động. Tồn tại trên lĩnh vực này là nội dung thông tin chưa phong phú, hình thức còn nghèo nàn, đơn điệu; phong trào tự biên, tự diễn phát triển khá nhưng chưa phục vụ được các công tác trọng tâm của Quận, chưa phản ánh được cuộc sống phong phú sinh động đang diễn ra hàng ngày; văn nghệ chưa kết hợp chặt giữa chức năng giáo dục với chức năng giải trí, không gây được hứng thú trong sinh hoạt của lứa tuổi thanh thiếu niên; nhạc cấm, tệ bài bạc, say rượu, đồng bóng, bói toán… không giảm; chưa tạo được bộ mặt mỹ quan của đường phố, lãnh đạo, chỉ đạo của Quận uỷ trên mặt trận này chưa cân xứng với lãnh đạo kinh tế.
Y tế có chú trọng tăng cường xây dựng tuyến phường, đã có chấn chỉnh lại phòng khám đa khoa phục vụ theo chức năng và ngăn chặn kịp thời không để các dịch bệnh lây lan; thực hiện tốt cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, hạ thấp chỉ tiêu phát triển dân số xuống dưới 1% năm. Triển khai điều trị theo phương châm phục vụ bệnh tại chỗ, tạo thuận lợi cho dân được khám chữa bệnh nơi gần nhất; đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hạ thấp tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Tuy vậy, hoạt động của y tế vẫn còn mang tính chất hành chánh, chưa theo kịp với yêu cầu mới, ít bám dân; hiệu quả hoạt động của các Phòng khám khu vực còn thấp, cơ sở vật chất thiếu thốn; kế hoạch xây dựng phòng khám có 50 giường lưu không thực hiện được.
Chữ thập đỏ, ngoài việc tiếp tục hoàn chỉnh tổ chức màng lưới ở Phường đến các khu phố, tổ dân phố cũng đã đi vào khu vực xí nghiệp, trường học, số hội viên được tập hợp ngày một đông; đã góp phần cùng y tế đẩy mạnh công tác săn sóc sức khoẻ cho nhân dân có kết quả. Tồn tại của Chữ thập đỏ là bộ máy chậm được củng cố, một số nơi chỉ có danh nghĩa, hoạt động hình thức; phong trào chưa đi sâu vào khu vực các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Phong trào rèn luyện thân thể trong người lớn và thanh thiếu niên, học sinh phát triển tốt, đặc biệt là trong khu vực trường học, nhiều bộ môn thể thao đã đạt được thành tích cao trong các cuộc thi đấu và đóng góp nhiều vận động viên cho thành phố.Cơ sở vật chất cũng đã có những bước phát triển đáng kể. Những năm gần đây phong trào thể dục thể thao có nhiều chuyển biến và có những bước tiến rõ rệt. Tuy vậy cần chú ý hơn nữa phong trào thể thao ở các cơ quan xí nghiệp, phong trào tập dưỡng sinh cho người lớn tuổi và cơ sở thể thao trong nhân dân, ngoài việc phát hiện năng khiếu qua các phong trào phải quan tâm hơn nữa việc giáo dục nếp sống mới, giáo dục tinh thần xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc cho thanh thiếu niên.
Quận đã có nhiều cố gắng đảm bảo các chế độ đối với diện chính sách, tổ chức thăm viếng, động viên và kịp thời giải quyết giúp đỡ cho những hộ quá khó khăn, neo đơn; làm tốt việc kết nghĩa đỡ đầu đối với thương binh, con em liệt sĩ. Tuy vậy, đời sống của thương binh và các đồng chí nghỉ hưu còn nhiều khó khăn, một số chế độ đối với các đối tượng chính sách giải quyết không kịp thời.
Việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hỗi đã đạt được những kết quả đáng kể và dần dần có phát huy được vai trò của quần chúng nhân dân. Hai năm qua không xảy ra vụ việc nào nghiêm trọng, tình hình vi phạm kinh tế cũng giảm. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chiến sĩ ngành Công an đã có những bước trưởng thành; công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ văn hoá, kinh tế, củng cố trật tự kỷ cương xã hội có tập trung và đạt một số kết quả, các cấp uỷ phường hàng năm đều có nghị quyết về công tác an ninh. Tuy vậy, số người trốn ra nước ngoài vẫn tăng hơn 2 năm trước; tổ chức các lực lượng tuần tra canh gác, bám các địa bàn trọng điểm còn ít, chưa thật cơ động; phạm pháp hình sự nhất là trọng án tăng lên, tệ nạn xã hội vẫn phát triển, tỷ lệ đấu tranh khám phá đạt thấp (dưới 50%), công tác bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa còn có nhiều sơ hở, nghiệp vụ chuyên môn của Công an chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ lệ sai phạm của cán bộ chiến sĩ công an năm 1987 và 1988 bình quân là 6,2% (chỉ tiêu phấn đấu dưới 1%).
Quận vẫn tiếp tục triển khai xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết 134/NQ của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá III, các phường đã xây dựng được kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản, kế hoạch chống bạo loạn và chống địch tập kích toán tốp nhỏ. Các hoạt động huấn luyện, tổ chức lực lượng dân quân tự vệ, tự vệ cơ quan, quản lý quân dự bị, diễn tập hàng năm đều đạt kết quả tốt; công tác tuyển quân 12 năm liền hoàn thành chỉ tiêu trên giao, đa số thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tuy vậy, còn rất ít cơ quan đơn vị cấp Quận, Thành phố và TW triển khai Nghị quyết 134/NQ, chỉ đạo sơ kết không kịp thời. Việc giáo dục quốc phòng trong thanh thiếu niên và nhân dân còn rất hạn chế, việc kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng quốc phòng ở nhiều đơn vị còn lúng túng, việc quản lý thanh niên trong độ tuổi, quản lý quân dự bị còn lỏng lẻo, tổ chức lực lượng dân quân tự vệ đông nhưng chất lượng không cao; số thương binh, thanh niên mãn nghĩa vụ quân sự trở về chưa có việc làm vẫn còn, đời sống khó khăn.
Các ngành Kiểm sát, Toà án, Thanh tra, Tư pháp đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ được giao và đưa hoạt động đi vào nền nếp; những vấn đề từng ngành có quan điểm khác nhau cũng đã được xem xét giải quyết kịp thời, góp phần thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách, luật pháp của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Số vụ thụ lý, xét xử, thanh tra, hướng dẫn học luật pháp cũng nhiều hơn so với thời gian trước; hầu hết các vụ bắt giam, xét xử đều đúng tội, đúng người, đúng luật pháp, những vụ việc xử lý gần đây đã có nghiên cứu thực hiện theo tinh thần luật tố tụng hình sự. Tồn tại hiện nay là việc học tập luật pháp cho nhân dân và cả CBCNV còn hạn chế, có những vụ án còn để kéo dài, chưa phát huy được vai trò của từng ngành trong việc giáo dục ngăn chặn các tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội, việc coi trọng, giáo dục ở trường cải tạo Duyên Hải không hiệu quả (số trốn tại nhiều hơn số ra trường, một số ra trường tiếp tục phạm pháp. Chưa tổ chức việc thanh tra thực hiện kế hoạch Nhà nước.
Trong quá trình thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của Đảng, các tầng lớn nhân dân đều có tham gia đóng góp vào công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá xã hội, giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương, và thái độ ngày càng gắn bó hơn với xã hội mới.
Lực lượng công nhân và lao động thủ công đã kiên trì chịu đựng, khắc phục khó khăn, bám máy, bám ca, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, thực hành tiết kiệm góp phần hoàn thành kế hoạch của đơn vị. Những người tiểu thương, buôn bán nhỏ phần lớn đã chấp hành các chủ trương, chính sách, những qui định của Thành phố, của Quận và muốn được yên ổn làm ăn sinh sống. Giới trí thức tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng muốn đóng góp, cống hiến, sẵn sàng tham gia khi địa phương có yêu cầu, thích làm những công việc thực tiễn và mang lại kết quả cụ thể, mối quan hệ giữa các nguồn trí thức ngày càng gắn bó và cảm thông. Quần chúng các tôn giáp, dân tộc ngày càng hiểu rõ chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng và Nhà nước, mối quan hệ giữa đạo, đời, giữa các dân tộc ngày càng gắn bó, mặc cảm của những người có đạo giảm nhiều, quan hệ cởi mở hơn. Sĩ quan, binh lính và viên chức chế độ cũ phần lớn đều muốn hoà nhập vào cuộc sống, tư tưởng sợ bị phân biệt đối xử được xoá dần, số đông muốn đóng góp sức mình vào việc xây dựng lại đất nước.
Nhìn chung các tầng lớp quần chúng, đồng bào các tôn giáo, dân tộc thông qua hoạt động của các đoàn thể và Mặt trận đã phát huy được tinh thần đoàn kết, gắn bó thi đua lao động, học tập, công tác, thực hành tiết kiệm, góp phần hpàn thành thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế xã hội của địa phương.
Tuy vậy những tác động về kinh tế xã hội và đời sống, sự quan tâm chưa đúng mức của các cấp uỷ Đảng đã làm hạn chế các phong trào cách mạng quần chúng. Một số phong trào quần chúng tham gia có tính cách nghĩa vụ thiếu phấn khởi. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn là khẩu hiệu suông. Nhiều nguyện vọng chính đáng của nhân dân không được giải quyết kịp thời và giải thích đến nơi đến chốn, thậm chí có nơi còn cửa quyền, gò ép. Những hiện tượng tiêu cực như trù dập, ức hiếp quần chúng, tình trạng thoái hoá, biến chất của một số cán bộ đảng viên, cộng với tình hình kinh tế khó khăn kéo dài, một số chính sách không phù hợp làm cho quần chúng có nhiều băn khoăn, không yên tâm, lòng tin giảm sút, thậm chí bất bình.
Trong bối cảnh có những thuận lợi nhất định nhưng cũng còn rất nhiều khó khăn, các tổ chức quần chúng đã luôn cố gắng vận động lực lượng của tổ chức mình ra sức thi đua thực hiện những nhiệm vụ Đảng đã đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế xã hội. Hoạt động của các đoàn thể, Mặt trận có nhiều tiến bộ trong việc góp phần thực hiện dân chủ hoá, công khai hoá và làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Phương thức hoạt động bước đầu có những chuyển hướng theo yêu cầu đổi mới và xu thế phát triển. Trong từng mặt phong trào của đoàn thể như nghĩa vụ quân sự, thanh niên xung phong, tổ chức dạy nghề cho thanh niên, bảo trợ tài năng trẻ, phong trào tự rèn luyện của cán bộ nữ, người phụ nữ mới, tuyến đầu Tổ quốc, Trị An, công trái, phong trào phụ lão 3 giỏi, quỹ bảo thọ… hoạt động ngày càng có chiều sâu và đạt được kết quả tốt. Quần chúng được tập hợp vào các tổ chức ngày một tăng: Đoàn viên đã chiếm 23% trong lứa tuổi thanh niên, 60% thiếu niên vào các tổ chức Đội, trên 94% phụ nữ vào Hội Liên hiệp phụ nữ, 90% các cụ vào Hội phụ lão, 70% quần chúng các tôn giáo cũng đã vào các tổ chức. Tuy vậy, hoạt động của các đoàn thể chất lượng chưa cao, phương thức hoạt động sinh hoạt còn đơn điệu, nghèo nàn, thiếu lôi cuốn, chưa làm cho quần chúng các tổ chức thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của tổ chức mình. Mặt trận và các đoàn thể còn sa vào sự vụ hành chính chưa thật sát quần chúng, chưa nói được tiếng nói của quần chúng nhân dân và chưa bảo vệ được quyền lợi chính đáng của họ.
Công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em có được quan tâm hơn, phát huy được sự phối hợp của các ngành chức năng trong việc quản lý sức khoẻ và giáo dục trẻ em. Mô hình “tổ chức chăm sóc và giáo dục trẻ em trên địa bàn dân cư” tạo cho việc chăm sóc trẻ có hệ thống và khép kín. Tuy vậy 5 quyền cơ bản của trẻ em chưa được quan tâm đầy đủ, hiện tượng tiêu cực từ người lớn ảnh hưởng đến trẻ em đang có chiều hướng gia tăng. Nghị quyết 06-NQ của Quận uỷ về bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em chưa được thể chế hoá và triển khai thực hiện nghiêm túc.
Bộ máy chính quyền không ngừng được củng cố, đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền từng bước trưởng thành qua bồi dưỡng đào tạo và thực tiễn công tác; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý hành chính kinh tế, quản lý sản xuất kinh doanh có được nâng lên, việc cụ thể hoá một số chỉ thị, nghị quyết của Đảng có linh hoạt; trong quá trình tổ chức thực hiện đã rút ra được một số kinh nghiệm, vừa bổ sung cho việc lãnh đạo chỉ đạo của Quận vừa đóng góp cho lãnh đạo của cấp trên. Hội đồng nhân dân có tiến bộ trong sinh hoạt, tiếp xúc với cử tri; phản ảnh được một số nguyện vọng chính đáng của nhân dân lao động và góp phần vào việc giải quyết những yêu cầu quần chúng đặt ra. Tuy nhiên, bộ máy chính quyền vẫn chưa thật tinh gọn, việc phân cấp quản lý giữa phường và ngành còn nhiều chồng chéo, dẫm chân, không phát huy được hiệu lực quản lý, phân định rõ ràng giữa chức năng quản lý hành chính kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh. Trong quản lý kinh tế xã hội không nắm chắc điều tra cơ bản nên chưa phát huy được tiềm năng về kinh tế, lao động và lực lượng khoa học kỹ thuật trên địa bàn. Các phòng, ban do trình độ chuyên môn yếu nên chưa làm tốt vai trò tham mưu, một số chỉ làm nhiệm vụ hành chính. Các ban của Hội đồng nhân dân còn hoạt động hình thức, đại biểu chưa làm hết chức năng; quyền lực thật sự thuộc về uỷ ban nhân dân, do đó chưa tạo được điều kiện để đại biểu Hội đồng phát huy vai trò của mình.
Từ Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ IV đến nay, khoảng thời gian chỉ mới 2 năm, nhưng có nhiều vấn đề lớn đặt ra cho công tác xây dựng Đảng. Với tổng số đảng viên là 3.868 đ/c trong đó có 1.201 đ/c đã về hưu, 1.295 đảng viên ở các cơ sở Đảng Thành phố và TW trực thuộc, đảng viên từ nhiều nguồn, trình độ chênh lệch, nhưng phần lớn đều trải qua thử thách và rèn luyện trong thực tiễn. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đa số đảng viên đều nhất trí cao với những vấn đề đổi mới, những chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trên lĩnh vực kinh tế, xã hội; tuy vậy, niềm tin vào sự đổi mới, tin vào những chuyển động của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ có được trong một thời giangian ngắn rồi giảm dần vì một số chủ trương chính sách không sát thực tế của Nhà nước. Đảng viên băn khoăn, một bộ phận bi quan dao động, giảm hăng hái nhiệt tình; cũng có những bộ phận bộc lộ sự sa sút ý chí, thiếu tiền phong gương mẫu, thụ động trông chờ, trung bình chủ nghĩa, khủng hoảng niềm tin.
Do yêu cầu cấp bách của công tác xây dựng Đảng, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Đảng bộ đã có Nghị quyết về công tác tư tưởng trên cơ sở các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IV và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận. Quận cũng đã tổ chức các lớp trung, sơ cấp chính trị và quản lý kinh tế nhằm trang bị những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin và quản lý kinh tế cho cán bộ đảng viên; đồng thời đã tổ chức thông tin đều đặn tình hình thời sự trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên tiếp thu những quan điểm mới. Tuy nhiên trong công tác tư tưởng còn nhiều mặt chưa tốt, các nghị quyết chưa được quán triệt sâu sắc đến từng đảng viên, thiếu vận dụng sát hợp với tình hình đảng viên ở các loại hình Đảng bộ, Chi bộ, đặc biệt là với đảng viên đã nghỉ hưu và đảng viên ở các cơ sở Đảng Thành phố và TW trực thuộc; những quan điểm của Đảng thường dừng ở tầm nhận thức, chưa đi vào thực tiễn, phương pháp và hình thức công tác tư tưởng chưa được đổi mới, nặng phổ biến, chất lượng thông tin chưa cao, ít thông tin 2 chiều, có nghị quyết tư tưởng nhưng thiếu kiểm tra đôn đốc, sơ tổng kết. Các cấp uỷ Đảng ở cơ sở chưa làm tốt công tác tư tưởng, không nắm chắc tình hình tư tưởng đảng viên; một số cấp uỷ còn lúng túng trong hoạt động, đặc biệt là các đơn vị kinh tế; việc nhân điển hình còn chậm, không thường xuyên; sinh hoạt Chi bộ, tổ Đảng chưa được cải tiến, tinh thần tự phê bình và phê bình chưa mạnh; nhiều thông tri, chỉ thị của Đảng không đến tận đảng viên. Trong đợt nhận xét chất lượng đảng viên vừa qua, tuy chưa phản ảnh thật trung thực chất lượng đảng viên của Quận, nhưng cũng đã đánh giá được mức độ thực trạng tình hình đảng viên hiện nay, số đảng viên tốt 48,18%, khá 47,23%, yếu 4,58%, số để lại xem xét là 0,54%, điều này nói lên chất lượng đảng viên chưa cao, vì số đảngviên khá và yếu kém còn nhiều.
Công tác tổ chức đã có những tiến bộ trong việc quan lý cơ sở Đảng, đối với các đảng bộ, Chi bộ khối phường theo dõi chỉ đạo khá chặt, cơ sở Đảng khối Thành phố và TW có gắn bó hơn; số cơ sở Đảng vững mạnh tăng lên. Công tác quản lý cán bộ; quản lý đảng viên có những tiến bộ, giảm dần tình trạng phân công trái ngành nghề, đội ngũ cán bộ dần dần được trẻ hoá. Việc sắp xếp, bố trí cán bộ có mạnh dạn, nhiều đồng chí trẻ tham gia vào cương vị lãnh đạo phát huy tác dụng tốt, việc cất nhắc đề bạt và thực hiện chính sách đối với cán bộ giải quyết khá kịp thời. Đối với cán bộ đảng viên lấy động viên, giáo dục, nhắc nhở và kiểm tra việc chấp hành điều lệ, luật pháp ở từng cơ sở để ngăn chặn những sai sót, khuyết điểm; một số vụ sai sót đã xử lý thẳng thắn, nhanh gọn và có tình có lý. Hai năm đã phát triển được 285 đảng viên góp phần giải quyết được một số yêu cầu xoá trắng; bộ máy hành chính đã tinh giảm từ 21 phòng ban còn lại 14 phòng ban, 20 phường còn 14 phường.
Tuy vậy trong công tác tổ chức cán bộ còn nhiều khuyết nhược điểm, những tồn tại trong thực hiện nhiệm vụ chính trị có phần thiếu sót của công tác tổ chức; việc quản lý cơ sở Đảng khối sản xuất, kinh doanh chưa tốt, không làm rõ chức năng nhiệm vụ của loại hình cơ sở này để chuyển kịp với yêu cầu phát triển kinh tế; quản lý còn lỏng lẻo đối với các cơ sở Đảng khối Thành phố và Trung ương trực thuộc, còn nhiều cơ sở Đảng nội bộ mất đoàn kết kéo dài. Công tác cán bộ thiếu quy hoạch, bố trí chấp vá, thiếu công khai và dân chủ; trong bố trí cán bộ ít chú ý đến tâm lý, sở trường và khả năng phát triển của cán bộ và nhất là thiếu theo dõi, kiểm tra giúp đỡ nên có một số trường hợp cán bộ không phát huy được phải thay đổi, thậm chí bị kỷ luật. Trong một số trường hợp thể hiện nể nang và không kiên quyết; cán bộ có năng lực ít chú ý giáo dục đề phòng tư tưởng tự mãn. Phát triển Đảng chưa có quy hoạch nên thiếu tập trung bồi dưỡng đối tượng, còn hành chánh hoá, chưa đạt yêu cầu như hướng Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ IV đề ra là phải tập trung vào khu vực trường học, cơ sở sản xuất, cửa hàng, HTX tiêu thụ Phường, cảnh sát đường phố, phụ trách các đoàn thể… Tỷ lệ đảng viên sai phạm vẫn còn cao, trong nhiệm kỳ đã xử lý luật 130 đảng viên, khiển trách 42, cảnh cáo 41, cách chức 13, khai trừ 26, ngoài ra còn xoá tên 8 đảng viên khác. Công tác kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết chưa thường xuyên và nền nếp.
Lề lối làm việc chậm đổi mới, quận uỷ có quy chế hoạt động nhưng chưa được áp dụng triệt để. Do không lường trước được tình hình nên chương trình toàn khoá của Ban chấp hành đề ra quá nhiều, trong đó có một số việc không thực hiện được.
NHỮNG ƯU KHUYẾT ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA ĐẢNG BỘ QUẬN 3 TRONG 2 NĂM QUA
a. Trong bối cảnh có nhiều khó khăn gay gắt, Đảng bộ đã không ngừng phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ lần thứ IV đề ra, đạt được một số kết quả nổi bật như sau:
1. Đảng bộ đã lãnh đạo và vận động các tầng lớp quần chúng vượt qua khó khă, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, nên kế hoạch về sản xuất, kinh doanh xuất khẩu, ngân sách và một số chỉ tiêu về văn hoá, xã hội đều hoàn thành. Trong lãnh đạo biết tháo gỡ khó khăn và biết vận dụng những hình thức phù hợp, tạo được những mô hình làm ăn có hiệu quả.
2. Giữ vững được an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình có nhiều phức tạp, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân phát triển chiều rộng và có một số mặt đi vào chiều sâu. Các ngành Nội chính hoạt động ngày một đồng bộ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ có nâng lên, Công an, quân sự kết hợp bảo vệ được các địa bàn trọng điểm.
3. Các cơ sở được tăng cường và củng cố, khả năng quản lý hành chính kinh tế, quản lý sản xuất kinh doanh có khá hơn, phát huy được tính chủ động của các phường, các công ty xí nghiệp, tạo được đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ chính trị, văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ ngày một nhiều, thích nghi với điều kiện mới.
Những kết quả trên của Đảng bộ đã được Thành phố khẳng định qua việc công nhận quận 3 là đơn vị dẫn đầu trong phong trào thi đua ở cụm II khu vực nội thành trong năm 1986 và 1987.
Nguyên nhân của những kết quả nói trên:
Một là, Phát huy truyền thống vốn có của Đảng bộ qua các nhiệm kỳ từ sau ngày giải phóng đến nay, đoàn kết trên cơ sở thống nhất các quan điểm đổi mới của Đảng để đi đến thống nhất ý chí hành động, trên dưới một lòng. Nhờ đó mà trong điều kiện cực kỳ khó khăn, Quận đã tìm được hướng đi đúng đắn, phù hợp.
Hai là, Có đội ngũ cán bộ năng động, nhiệt tình, lao xốc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và chịu khó tìm tòi học hỏi, có tinh thần tiến công để đưa quận vươn lên. Trong chỉ đạo có mạnh dạn sử dụng bố trí cán bộ, kể cả cán bộ ngoài Đảng và số anh chị em tham gia dưới chế độ cũ.
Ba là, Trong lãnh đạo, chỉ đạo biết vận dụng thù hợp các chỉ thị, nghị quyết cấp trên vào tình hình cụ thể của Quận, chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết dứt điểm từng công việc.
Bốn là, Được sự quan tâm chỉ đạo của Thành uỷ UBND Thành phố, sự hướng dẫn giúp đỡ của các ban, ngành, sở Thành phố, và sự hỗ trợ nhiệt tình của các đơn vị có quan hợp tác.
b. Những khuyết điểm chủ yếu:
1. Kinh tế của Quận mà cụ thể là các ngành xuất tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp, cung ứng hàng xuất khẩu chưa bung ra mạnh, thiếu những mô hình làm ăn lớn, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát huy hết tiềm năng và thế mạnh.
2. Đời sống cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, các đội tượng chính sách và nhân dân lao động còn nhiều khó khăn; Quận còn lúng túng trong biện pháp giải quyết, chưa tìm được giải pháp thích hợp để nhân dân và cán bộ công nhân viên tự lo cho mình. Việc trợ cấp mới thực hiện vào những tháng cuối năm 1988 nhưng không cơ bản.
3. Tình hình xã hội diễn biến ngày càng phức tạp, một bộ phận đáng kể trong lứa tuổi thanh niên tha hoá trong lối sống, văn hoá cũ có biểu hiện ngoi dậy, giá trị đạo đức, truyền thống bị lu mờ, tệ nạn xã hội không giảm mà còn phát triển.
4. Chất lượng hoạt động của các đoàn thể chưa cao, đoàn viên, hội viên hoạt động không đều, nội dung sinh hoạt chậm cải tiến. Công tác chính trị tư tưởng chưa làm chuyển biến được tư tưởng đảng viên, một bộ phận đảng viên có giảm niềm tin ở Đảng, bộ máy tổ chức cồng kềnh, đảng viên đông nhưng không mạnh, cán bộ không thiếu nhưng do việc sắp xếp chưa hợp lý nên không phát huy đầy đủ năng lực của cán bộ.
5. Việc cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng chưa tốt, nhiều Nghị quyết đúng đắn triển khai chậm, không đến nơi đến chốn, tổ chức thực hiện chưa thật khẩn trương, chưa phát huy đúng mức khả năng của các đảng viên nghỉ hưu, đảng viên ở đường phố, lực lượng trí thức, khoa học kỹ thuật và các tầng lớp quần chúng.
Nguyên nhân của những khuyết điểm:
A. Về khách quan:
1. Do cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp còn tồn tại, làm cản trở các hoạt động kinh tế, xã hội, nhiều chế độ chính sách quá cũ kỹ, lỗi thời không thể thực hiện được.
2. Việc phân công phân cấp từ trên xuống có một số lĩnh vực không rõ ràng, còn ôm đồm chồng chéo, không phát huy được năng lực của các địa phương và cơ sở.
B. Về chủ quan:
Một là, Trình độ nhận thức của cán bộ đảng viên kể cả Quận uỷ, Uỷ ban và các cấp uỷ cơ sở còn hạn chế, nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, về tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chưa sâu sắc, đặc biệt là những vấn đề về nền kinh tế quá độ, sản xuất hàng hoá, quan hệ cung cầu, thị trường xã hội.
Hai là, Trong lãnh đạo chỉ đạo nhiều lúc thể hiện sự nóng vội, thiếu thực tiễn, muốn đốt cháy giai đoạn, không kiên quyết, một số quyết định thiếu khoa học. Hội họp nhiều nhưng chất lượng không cao, thiếu kiểm tra đôn đốc, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để bổ sung chỉ đạo.
Ba là, Quận thường bị lôi cuốn vào những công việc trước mắt, nên lơi những vấn đề cơ bản có tính chiến lược về kinh tế, về con người. Trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng Ban Chấp hành chưa quan tâm đúng mức không tập trung bằng lĩnh vực kinh tế.
Bốn là, Công tác tổ chức và cán bộ chưa thật sự đổi mới; trình độ của một số cán bộ ở các phòng, ban tham mưu chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của quận, nhiều quyết định đúng đắn không triển khai kịp thời làm ảnh hưởng đến việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Quận cũng như các chỉ thị nghị quyết của cấp trên.
QUA NHIỆM KỲ 2 NĂM, RÚT RA ĐƯỢC MỘT SỐ KINH NGHIỆM SAU ĐÂY:
1. Về sự đoàn kết thống nhất ý chí và hành động:
Dù trình độ và năng lực chung có hạn chế, nhưng nội bộ đoàn kết thống nhất trên cơ sở những quan điểm đổi mới của Đảng và đấu tranh để đi đến thống nhất ý chí hành động, trên dưới một lòng, nhất định sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp và đó chính là cơ sở quyết định thắng lợi.
2. Về công tác cán bộ:
Trong bố trí sử dụng cán bộ, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, phải mạnh dạn sử dụng cán bộ thực sự có năng lực, dù cán bộ đào tạo từ nguồn nào, không năng về lý lịch thì nhất định sẽ phát huy được tác dụng và tạo được hiệu quả cao.
3. Tính công khai và dân chủ:
Trước khi đề ra một chủ trương gì phải thực sự bàn bạc dân chủ, tham khảo ý kiến rộng rãi của cán bộ đảng viên và quần chúng, trên cơ sở đó, lãnh đạo xem xét, cân nhắc ra quyết định.
4. Về lề lối và tác phong công tác:
Xây dựng lề lối và tác phong khoa học, phân công phân nhiệm rõ ràng, kiểm tra chặt chẽ, có phương pháp chỉ đạo thích hợp, chú trọng nhân các điển hình tiên tiến, nhất định sẽ đảm bảo thực hiện các yêu cầu đề ra.
Hai năm qua, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo chỉ đạo và thực hiện được một số việc như đã nêu trên, nhưng trong từng mặt làm được đều có những thiếu sót và nguyên nhân. Nếu nhìn một cách tổng quát thì những vấn đề lớn mà Đại hội Đảng bộ lần IV đề ra có thực hiện được, song cũng còn có những mặt hạn chế nhất định. Thấy rõ những khuyết điểm tồn tại của mình và kiên quyết sửa chữa, chắc chắn Đảng bộ sẽ thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của Thành phố giao và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ V.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CHỦ YẾU CỦA ĐẢNG BỘ TRONG 2 NĂM 1989-1990
Hai năm tới, với đà chuyển động mới theo tinh thần Nghị quyết 16 của Bộ chính trị, tình hình chung sẽ có nhiều mặt thuận lợi, bài học kinh nghiệm sau 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, việc mở rộng công khai và dân chủ, việc đề ra một số chính sách phù hợp với hoàn cảnh đất nước là những tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và khôi phục niềm tin của các tầng lớp quần chúng nhân dân. Nhưng chắc chắn không còn nhiều phức tạp bởi nền kinh tế còn mất cân đối nghiêm trọng, đời sống của những người hưởng lương và nhân dân lao động còn nhiều khó khăn. Trong bối cảnh chung của xã hội, với đặc điểm của một địa bàn trung tâm, Quận phải tập trung thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu sau đây:
Một là, ra sức phát triển tiềm năng các thành phần kinh tế, trước mắt phát huy mạnh mẽ năng lực dịch vụ, sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng trong nhân dân làm cho kinh tế của Quận chuyển biến nhanh và ngày càng phong phú, đa dạng, giải quyết cơ bản số lao động chưa có việc làm, giữ không để đời sống CBCNV, người lao động sa sút và có cải thiện hơn so với năm 1988.
Hai là, tạo ra được những chuyển động mới trong Đảng trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho cán bộ đảng viên nhanh chóng thay đổi những nhận thức cũ, bắt kịp những quan điểm mới, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, đổi mới công tác tổ chức cán bộ, phấn đấu xây dựng Đảng bộ vững mạnh, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng ngày càng mạnh.
Để thực hiện phươjg hướng và mục tiêu trên, trong 2 năm tới tập trung vào một số mặt công tác cụ thể:
NHỮNG NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU CHỦ YẾU TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ - XÃ HỘI
Từ những quan điểm mới của Đảng và tình hình thực tế của địa phương, từ đây đến năm 1990 và những năm về sau hướng phát triển kinh tế của Quận là: Dịch vụ và sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
1. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ nhằm tăng tích luỹ ban đầu, vừa góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế chăm lo đời sống, vừa khuyến khích đầu tư của nước ngoài vào Quận:
Để cho số lao động có việc làm, tận dụng được nguồn lao động của số người chưa đến tuổi và quá tuổi, tăng thêm thu nhập, tạo tích luỹ trong nhân dân và cho xã hội, đồng thời cũng phù hợp với điều kiện cụ thể của địa bàn, con đường ngắn nhất và nhanh nhất là phát triển mạnh các loại hình dịch vụ. Phương hướng chung là làm cho hoạt động dịch vụ ở Quận phát triển với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, cạnh tranh thúc đẩy nhau, làm phong phú và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội và cuộc sống của nhân dân. Dịch vụ phát triển không hạn chế ngành nghề, năng lực, quy mô và thành phần; vừa phát triển các dịch vụ cao cấp, vừa duy trì các dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân lao động.
a. Hướng tập trung dịch vụ sản xuất trong 2 năm tới là chế biến nông, lâm, hải sản, lương thực thực phẩm với những phương tiện máy móc hiện đại, tiếp cận kỹ thuật của thế giới nhằm đi vào tinh chế, giảm xuất thô và xuất dưới dạng nguyên liệu.
b. Trong lưu thông phải đảm bảo những mặt hàng thiết yếu cho nhân dân, tạo được nguồn hàng mạnh, hàng hoá phong phú, chất lượng cao để cạnh tranh với thương nghiệp tư nhân. Nâng cao quan điểm nhận thức, biết phát huy những mặt mạnh và những mặt tích cực của nền kinh tế nhiều thành phần; có phương thức kinh doanh mới, biết tiếp cận thị trường, nhạy cảm trong kinh doanh, đưa hoạt động của thương nghiệp ra khỏi ranh giới hành chánh. Tăng cường củng cố tổ chức, sắp xếp lại hệ thống màng lưới, hình thành các cụm thương nghiệp lớn ở khu vực Chợ Đũi, tuyến đường Lê Văn Sỹ (khu chợ Nguyễn Văn Trỗi). Phát triển siêu thị với nhiều hình thức sở hữu; cho đấu thầu các chợ, các cửa hàng kinh doanh kém, nâng cao trình độ văn minh thương nghiệp. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phấn đấu giữ tỷ lệ hàng hoá có mặt ở thị trường bằng mức của năm 1988 không để sa sút.
c. Củng cố và nâng chất lượng dịch vụ ăn uống, nhà hàng, khách sạn đảm bảo phục vụ yêu cầu cho các đối tượng nhân dân kể cả người nước ngoài; rút kinh nghiệm mô hình đấu thầu (Nhà hàng Đại Dương) và nhân rộng mô hình này. Sắp xếp lại việc tổ chức kinh doanh ăn uống của tư nhân theo từng khu vực và từng tuyến đường không để phát triển tràn lan.
d. Đẩy mạnh dịch vụ nhà ở, bao gồm việc cho người nước ngoài thuê nhà để ở, làm trụ sở, nhà ở cho khách du lịch, nhà trọ cho khách vãng lai, xây nhà bán cho dân hoặc cho thuê mướn.
e. Phát triển dịch vụ phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước, dịch vụ kiều hối, dịch vụ phục vụ Việt kiều về thăm quê hương.
f. Ngoài những dịch vụ đang triển khai, tiếp tục đẩy mạnh phát triển dịch vụ phục vụ đi lại, dịch vụ lắp ráp, dịch vụ hành chính pháp lý, dịch vụ khoa học kỹ thuật, dịch vụ phục vụ hội nghị, dịch vụ văn hoá, mỹ thuật, trang trí nội thất, các dịch vụ quanh ga Sài Gòn, dịch vụ vận tải…
Để thực hiện yêu cầu trên, trong 2 năm tới ngân sách Quận sẽ đầu tư cho khu vực này 3,8 tỷ đồng, sắp xếp điều chỉnh lại cơ quan làm việc, số nhà dư ra sẽ đưa vào kinh doanh dịch vụ, khách sạn du lịch và kiến nghị với Thành uỷ xin một số biệt thự hiện chưa sử dụng hết công năng. Tăng cường liên doanh với các công ty, các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước, kể cả hợp tác với tư nhân. Cho các đơn vị cơ sở tự huy động vốn và tự hoàn vốn. Cho các thành phần kinh tế khác tham gia phát triển không giới hạn.
g. Các ngành Tài chính, Ngân hàng, Thuế đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong những năm tới. Tài chính phải đảm bảo cân đối theo hướng tăng cường đầu tư để phát triển kinh tế nhằm tiếp tục tạo nguồn thu cho ngân sách ngày càng ổn định. Trong đầu tư chỉ tập trung vào những công trình trọng điểm, nhanh đem lại hiệu quả, không đầu tư tràn lan. Thực hiện những công trình ngoài nguồn vốn ngân sách theo hướng huy động các nguồn vốn trong nước, ngoà nước và trong dân làm các công trình nhà ở, công trình chợ, cửa hàng, sau khi hoàn thành bán lại cho người sử dụng và trả vốn huy động. Vận dụng linh hoạt các quy định thu quốc doanh để các cơ sở sản xuất có thể hoạt động và phát triển được. Thực hiện khoán kinh phí cho tất cả khu vực hành chính sự nghiệp; chú ý tăng cường vốn ngân sách cho phường vừa giải quyết những yêu cầu được phân cấp, vừa tạo điều kiện thực hiện một số công trình sửa chữa nhỏ. Cho các phường (trừ phường 11, 12) được giữ lại tỷ lệ thuế thích hợp để cân đối ngân sách. Phấn đấu đạt mức thu ngân sách Nhànước trong năm 1989 là 15,4 tỷ và năm 1990 là 34,5 tỷ đồng.
Ngân hàng tiếp tục hoàn thiện phương thức hoạt động kinh doanh, phải đảm bảo hạch toán đủ và kinh doanh có lãi; thực sự đi vào đầu tư thúc đẩy các hoạt động kinh tế; kiểm tra, giám sát và giúp đỡ các hợp tác xã tín dụng hoạt động nhằm đảm bảo sự ổn định và chặt chẽ để cùng cạnh tranh với Ngân hàng và thúc đẩy nhau phát triển, đồng thời xoá bỏ thế độc quyền của Ngân hàng góp phần tháo gỡ nhữn gkhó khăn về tiền mặt cho các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Khi triển khai thực hiện chính sách thuế mới, cần nắm chắc các đối tượng chịu thuế, có vận dụng và miễn giảm hợp lý cho các đơn vị sản xuất những mặt hàng mới có yêu cầu phát triển, kiên quyết không lạm thu và không để thất thu.
h. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại:
Với điều kiện địa lý không thuận lợi, nên ngoài việc mở rộng liên doanh, liên kết hợp tác phát triển kinh tế với các địa phương, trong những năm tới phải hết sức tập trung khai thác đúng mức thế mạnh của Quận về công tác xuất nhập khẩu cũng như quan hệ kinh tế với nước ngoài, phấn đấu tăng doanh số hàng xuất mỗi năm bình quân từ 15-20%. Có kế hoạch vận động hơn 20.000 hộ có kiều quyến ở nước ngoài, đặc biệt là những nhà trí thức khoa học kỹ thuật, các nhà tư sản dân tộc, các nhà công thương ở Quận 3 trước đây hiện đang ở nước ngoài, nhằm tạo điều kiện để phát triển kinh tế của Quận. Mở rộng quan hệ hợp tác đầu tư với các công ty, các tổ chức kinh tế nước ngoài để phát triển dịch vụ, sản xuất ở Quận. Thành lập Liên hiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu và đi vào hướng sản xuất tại chỗ; hình thành các xí nghiệp cổ phần hoạt động theo cơ chế tư nhân cung ứng hàng cho xuất khẩu. Hết sức chú trọng các hoạt động “xuất khẩu tại chỗ” dưới các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ trong nước như dịch vụ phục vụ khách du lịch, phục vụ Việt kiều, dịch vụ nhận ký gởi vật tư nguyên liệu nước ngoài phục vụ sản xuất, dịch vụ kiều hối bằng tiền, vàng. Trước mắt cần nắm chắc một số hộ có nguồn kiều hối lớn để tập trung vận động họ tham gia phát triển kinh tế xã hội ở Quận theo hướng cùng đầu tư chia lãi.
2. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội:
a. Ra sức phát triển sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, đi đôi với việc phát huy mạnh mẽ công suất máy móc thiết bị hiện có, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu. Nhiệm vụ bao trùm của ngành sản xuất tiểu, thủ công nghiệp là tăng sản lượng hàng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm với nhiều mặt hàng mới, độc đáo, có giá trị cao, ít phụ thuộc vào nguồn vật tư, nguyên liệu ở các tỉnh, có khả năng cạnh tranh với một số mặt hàng của các nước Đông Nam Á, thu hút lao động ngày càng nhiều và đời sống của họ được nâng lên. Phương châm để phát triển sản xuất cho 2 năm tới và nhữngnăm sau đó theo công thức là: vốn, kỹ thuật nước ngoài + chất xám và lao động của Quận = sản phẩm có giá trị và chất lượng cao. Năm 1989 thực hiện giá trị tổng sản lượng 1,5 tỷ đồng và năm 1990 là 1,8 tỷ đồng (theo giá cố định 1982).
Hướng phát triển chủ yếu của sản xuất tiểu, thủ công nghiệp trong 2 nămtới vẫn là chế biến, gia công và giữ vững một số ngành mỹ nghệ truyền thống, trong đó chú trọng các nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm, may, may da, điện tử. Tiếp tục hoàn chỉnh theo hướng đồng bộ hoá và hiện đại hoá các dây chuyền máy móc của Xí nghiệp Chế biến Hải sản, Xí nghiệp May, Xí nghiệp Giày da. Tiếp tục củng cố các xí nghiệp quốc doanh, nơi nào hoạt động không hiệu quả cho chuyển mặt hàng, cho thi tuyển hoặc thuê mướn giám đốc, cho tư nhân mua cổ phần. Bắt đầu từ năm 1989 thực hiện khoán lãi cho các xí nghiệp, thực sự trao quyền tự chủ cho xí nghiệp (tự huy động vốn, tự hoàn vốn, tự định giá, tự do mua bán, trao đổi những mặt hàng sản xuất ra, chỉ thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định).
Các xí nghiệp được quyền mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm, tổ chức lưu thông, mua bán sản phẩm làm ra trên thị trường, đường quyền mở rộng hoạt động ra phạm vi ngoài quận nếu có điều kiện. Các xí nghiệp hợp doanh, các loại hình kinh tế tập thể nếu hoạt động không đúng thực chất, hiệu quả kém thì chuyển xuống hình thức thấp hơn hoặc trả về tư nhân. Phát triển mạnh loại hình xi 1nghiệp cổ phần, thúc đẩy phát triển sản xuất tư nhân (trong Quận, ngoài Quận, Việt kiều, ngoại kiều và công ty nước ngoài) không hạn chế thành phần, hình thức sở hữu, quy mô, tự sản xuất tự tiêu thụ sản phẩm, chỉ có nghĩa vụ nộp thuế.
b. Đầu tư xây dựng cơ bản phải được thực hiện có kế hoạch chặt chẽ, bám sát vào mục tiêu kinh tế xã hội để đầu tư, không dàn trải; đối với các công trình kinh tế phải hết sức tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, phát huy nhanh hiệu quả đồng vốn; chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư, khác phục lãng phí các khâu thiết kế, thi công, đất đai, mặt bằng… Dự kiến tổng nguồn vốn ngân sách đầu tư cho xây dựng cơ bản trong 2 năm 1989 và 1990 là 10,7 tỷ đồng trong đó 60% dành cho khu vực kinh tế và 40% cho phúc lợi dân dụng.Bên cạnh vốn ngân sách cần phảidựa vào vốn vay ngân hàng, vốn vay của nhân dân, vốn vay từ nước ngoài là những nguồn vốn quan trọng. Phân cấp các công trình đường hẻm, thoát nước về cho phường; vận động nhân dân tham gia sửa chữa, bảo quản không để xuống cấp. Năm 1989 tiếp tục thực hiện công trình bệnh viện, trường học do Đại hội Đảng bộ lần thứ IV đề ra, trước khi triển khai các công trình mới.
c. Mặt bằng, nhà làm việc, nhà ở đang là khó khăn lớn và dai dẳng. Trước hết về phía Quận phải kiên quyết sắp xếp lại nhà làm việc của các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh, thu hẹp mặt bằng đơn vị hành chính, sử dụng đúng công năng số nhà Quận đang quản lý, chấm dứt bao cấp nhà xưởng các đơn vị kinh tế. Hình thành các khu vực dịch vụ thương nghiệp, dịch vụ nhà ở, phục vụ khách du lịch, dịch vụ văn hoá trên tuyến đường Cách mạng tháng 8, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Lê Văn Sỹ và các phường 6, 7. Thực hiện hoá giá nhà cấp 3, cấp 4; hình thành quỹ phát triển nhà ở, tổ chức xây nhà để bán hoặc cho thuê, 1989-1990 Quận xây dựng từ 100 đến 150 căn hộ ở các khu vực phường 1, 11, 12. Tích cực vận động tư nhân, các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước xây dựng nhà cao tầng để kinh doanh nhà.
d. Sản xuất ở khu vực ngoại thành nên tập trung về hướng Đắc Nông, thực hiện kế hoạch trồng cao su của Thành phố, mở rộng việc trồng cà phê, sả và chế biến tinh dầu sả; phát triển mạnh việc chăn nuôi bà, dê. Chuyển bộ phận trại viên cải tạo từ Duyên Hải về Đắc Nông; trong lúc ở đây chưa có phương án nuôi trồng thích hợp chỉ nên tập trung trồng bạch đàn, dừa nước. Có chế độ ưu đãi đối với cán bộ công nhân viên khu vực ngoại thành như quy định thời gian công tác, thời gian nâng lương, phụ cấp, trợ cấp…
3. Tập trung giải quyết đời sống cho CBCNV, lực lượng vũ trang, các đồng chí nghỉ hưu, các gia đình chính sách và những người lao động nghèo:
Trên cơ sở phát triển dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp trong các thành phần kinh tế mà thu hút số lao động chưa có việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân; phấn đấu đến cuối năm 1990 giải quyết việc làm cho 11.000 lao động. Quận tạo điều kiện cho các đồng chí nghỉ hưu và cán bộ công nhân viên tham gia các hoạt động kinh tế để tăng thêm thu nhập cho gia đình như góp cổ phần vào các đơn vị kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh, nhà ở còn rộng có thể thu hẹp diện tích cho thuê mướn để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ nhà ở cho khách du lịch…; tạo điều kiện cho các đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh để cải thiện đời sống CBCNV. Phấn đấu đến quý 3 năm 1989 tổng thu nhập mỗi CBCNV khu vực hành chính sự nghiệp thấp nhất phải tương đương 100kg gạo/tháng; kiến nghị Thành phố nên có trợ cấp thống nhất cho các đồng chí nghỉ hưu; các đơn vị kinh tế được phép trả lương theo hiệu quả kinh tế, không khống chế mức lương tối đa. Đối với số người chưa có nghề, số thành niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, học sinh rớt cấp 3 và đại học không tiếp tục đi học, Trung tâm dạy nghề cần tổ chức dạy những ngành nghề mà Quận đang phát triển, tạo điều kiện cho người lao động có nghề để tìm việc làm và có thể tham gia sản xuất tại địa phương.
4. Nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành văn hoá xã hội, tạo những chuyển biến mới trên địa bàn:
Trong 2 năm tới cũng như những năm sau phải ra sức chăm lo các hoạt động văn hoá xã hội đúng với vị trí là một trong những địa bàn trung tâm văn hoá của Thành phố; lãnh đạo văn hoá xã hội phải ngang với lãnh đạo kinh tế.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ phải góp phần thiết thực vào việc xây dựng con người mới, nền văn hoá mới, đấu tranh xoá bỏ các tàn dư văn hoá cũ. Năm 1989-1990 tiếp tục đi sâu vào phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, nâng mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân lên cao hơn so với 2 năm 1987-1988. Nội dung thông tin cổ động phải chú ý đến yêu cầu hướng dẫn dư luận. Tạo mối quan hệ tốt giữa văn nghệ chuyên nghiệp với văn nghệ quần chúng, nâng dần trình độ tự biên tự diễn, giữ vững phong trào văn nghệ quần chúng. Tăng cường quản lý nội dung và đầu mối các hoạt động văn hoá văn nghệ, bảo đảm dân chủ nhưng chặt chẽ. Quản lý tốt ngành in góp phần cùng thành phố lập lại trật tự trong in ấn, xuất bản. Xây dựng Nhà Văn hóa Quận thành một trung tâm văn hoá với nhiều loại hình hoạt động hấp dẫn, thu hút đông đảo các tầng lớp quần chúng, nhất là thanh thiếu niên tham gia sinh hoạt. Nhà văn hoá tiến tới lấy thu bù chi nhưng không được chạy theo doanh thu.
Ngành giáo dục tiếp tục ổn định trường lớp, tạo điều kiện đào tạo học sinh theo hướng cải cách giáo dục., Từng bước tách trường cấp 1, 2 thành trường một cấp; cải tạo, nâng cấp những trường không đủ điều kiện giáo dục Quy hoạch lại mạng lưới trường bao gồm: trường công, bán công và dân lập. Đẩy mạnh cuộc vận động xoá nạn mù chữ và phổ cập cấp 1, phát triển mạnh bổ túc văn hoá để đáp ứng yêu cầu học tập của cán bộ các cấp, các ngành. Phấn đấu năm 1990 hoàn thành phổ cập cấp 3 cho cán bộ chủ chốt đương chức, cán bộ kế cận của Quận và Phường. Tăng cường đội ngũ giáo viên giảng dạy chính trị, đạo đức để đảm bảo việc giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh. Tiếp tục chuyển nhà trường phổ thông theo hướng dạy kiến thức cơ bản, lao động, kỹ thuật tổng hợp và chuẩn bị nghề. Hoàn thiện các trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp hiện có. Xây dựng nhà trường, gia đình và địa phương thực sự trở thành một môi trường giáo dục thống nhất.
Tổ chức lại mạng lưới y tế cơ sở theo hướng dẫn đảm bảo có thầy thuốc và thuốc phục vụ tại phường. Năm 1989 tăng cường cho mỗi phường một bác sĩ đa khoa, 1990 có thêm từ 1 đến 2 bác sĩ chuyên khoa về nha, nhi. Triển khai chương trình chống mù loà, khuyết tật và suy dinh dưỡng của trẻ em. Xây dựng phòng khám đa khoa hoàn chỉnh có 50 giường lưu; thực hiện thu viện phí để giảm bớt khó khăn và nâng chất lượng phục vụ trong công tác điều trị, cán bộ ngành y tế giành phần lớn thời gian xuống dân để chăm lo sức khoẻ nhân dân. Củng cố phát triển câu lạc bộ y học dân tộc với sự cộng tác của những lương y giỏi, tay nghề vững. Tổ chức dịch vụ khám chữa bệnh tại nhà và cho mở phòng mạch tư.
Tiếp tục phát triển phong trào tự rèn luyện thân thể trong nhân dân, phát huy ý thức tự bảo vệ sức khoẻ của đông đảo quần chúng. Coi trọng và quan tâm thích đáng đến giáo dục thể chất trong nhà trường, đặc biệt chú trọng hình thức gia đình thể thao và câu lạc bộ thể thao trường học. Đầu tư xây dựng có trọng tâm số vận động viên ở các môn thể thao trọng điểm của Quận. Phát hiện và bồi dưỡng những vận động viên ưu tú cho quận và đóng góp cho đội tuyển thành phố. Tổ chức và tham gia tốt Đại hội TDTT thành phố lần 2 năm 1989-1990.
Lao động – Thương binh xã hội cần kết hợp với công tác điều tra dân số nắm tình hình và phân loại lao động để phục vụ cho kế hoạch giải quyết việc làm, phân bổ lao động và điều động dân cư. Phấn đấu đến năm 1990 giải quyết cơ bản số lao động chưa có việc làm như ở phần trên; đối với các đơn vị kinh tế mới thành lập phải ưu tiên giải quyết lao động tại Quận, đặc biệt là số thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Triển khai sâu rộng các chính sách về an toàn lao động, tiền lương, chính sách đối với lao động nữ. Hạ thấp tỷ lệ lao động nghỉ việc vì ốm đau, tai nạn. Tăng cường quản lý chăm lo đời sống vật chất tiênh thần và đảm bảo các chế độ cho đối tượng diện chính sách; tạo điều kiện để các đồng chí đảng viên lão thành tham gia đóng góp cho địa phương. Đẩy mạnh phong trào kết nghĩa, đỡ đầu cho các đối tượng thương binh, con liệt sĩ. Phát hiện và giải quyết kịp thời những gia đình quá khó khăn, không để xảy ra tình trạng thiếu đói. Phối hợp cùng đoàn thể và các cơ quan chức năng tăng cường biện pháp giáo dục các đội tượng tệ nạn xã hội, chống tệ nạn ma túy, mãi dâm, xử lý nghiêm khắc đối với số chủ chứa.
5. Tăng cường các hoạt đỗng giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững mạnh, đưa luật pháp thực sự đi vào cuộc sống:
Hiện nay, việc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự xã hội ở địa phương là một nhiệm vụ quan trọng và cực kỳ khó khăn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Là lực lượng nòng cốt, các ngành khối nội chính phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu bảo vệ địa bàn, phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết, kịp thời và đúng luật pháp đối với mọi hành vi phạm tội.
Trong 2 năm 1989-1990 tập trung thực hiện Nghị quyết số 06 của Thành uỷ về “Bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội” cụ thể là làm tốt công tác quản lý công khai trên địa bàn dân cư, tập trung vào các tuyến trọng điểm, địa bàn trọng điểm, đối tượng trọng điểm, chủ động nắm, hiểu địch từ xa để đối phó kịp thời và có hiệu quả. Có kế hoạch chủ động phòng chống các hoạt động tình báo, gián điệp trên lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội, không để xảy ra biến động chính trị; bảo vệ chặt chẽ nội bộ, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động phá hoại, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng phường an toàn, cơ quan đơn vị an toàn.
Làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ kinh tế, đánh đúng bọn tội phạm kinh tế, bọn đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả và các hành vi lợi dụng quá trình đổi mới để làm sai chính sách, xử lý kịp thời những cán bộ công nhân viên thoái hoá biến chất xâm phạm tài sản XHCN.
Ngành Công an cần chú trọng củng cố lực lượng an ninh cơ sở, bảo vệ cơ quan, tổ chức lực lượng dân phòng; xây dựng cơ quan, khu phố nhân dân tự quản, tổ chức bố trí và phân công lực lượng quản lý địa bàn thật khoa học, thật cơ động, đáp ứng mọi yêu cầu khi có tình huống xảy ra. Phối hợp chặt chẽ với các ngành để bố trí lao động, giải quyết việc làm, từng bước giải quyết các tệ nạn xã hội và cư trú bất hợp pháp. Đấu tranh ngăn chặn và phòng ngừa có hiệu quả bọn tội phạm hình sự, lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý xã hội.
Củng cố, xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch vững mạnh về tổ chức, giỏi nghiệp vụ và có phẩm chất đạo đức tốt; hạ thấp tỷ lệ chiến sĩ sai phạm. Đảng và chính quyền các cấp phải thường xuyên chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ chiến sĩ, xây dựng lực lượng chuyên sâu, gắn bó với quần chúng.
Công tác quân sự địa phương của Quận trước hết là thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 05 của Thành uỷ và tiếp tục thực hiện Nghị quyết 134 của Quận uỷ, từng bước xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, triển khai và thường xuyên kiểm tra các phương án của các lực lượng kết hợp bảo vệ địa bàn.
Phát triển rộng rãi lực lượng dân quân tự vệ trong cơ quan và ở từng khu phố, tổ dân phố, nâng cao chất lượng dân quân tự vệ, bảo đảm việc tổ chức và huấn luyện để cùng với lực lượng dân phòng tuần tra, cánh gác, bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở; xây dựng lực ượng dự bị động viên đến năm 1990 có ít nhất 5 tiểu đoàn hoạt động có chất lượng. Tăng cường giáo dục luật nghĩa vụ quân sự cho thanh niên và nhân dân; cơ quan quân sự phải thành thạo và quản lý chặt chẽ thanh niên trong độ tuổi; bảo đảm chỉ tiêu giao quân hàng năm với chất lượng và hiệu quả cao. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ. Quận đội và Quận đoàn xây dựng công trình giải quyết việc làm cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
Các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải kết hợp chặt chẽ giữa việc giữ gìn kỷ cương của luật pháp và làm chủ xã hội, giữa pháp luật và chính sách, nhất là tổ chức thi hành các văn bản pháp quy, các Chỉ thị Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chống mọi biểu hiện tả và hữu khuynh khi thi hành các quyết định của cấp có thẩm quyền. Nghiêm chỉnh thi hành Bộ luật tố tụng hình sự và thiết lập trật tự kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Cơ quan Kiểm sát, Thanh tra, Tư pháp cần đổi mới phương pháp hoạt động phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội; kết hợp chặt chẽ với Chi hội luật gia tăng cường công tác giáo dục để mọi công dân và các cơ quan nghiêm chỉnh thi hành pháp luật. Lực lượng thanh tra Nhà nước và thanh tra nhân dân phải được củng cố đủ sức để làm tốt công tác thanh kiểm tra và giải quyết các khiếu tố của công dân, hết sức chú trọng đến kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của Nhà nước. Kiểm sát phải kết hợp chặt với các cơ quan chức năng thực hiện tốt việc phòng ngừa và đấu tranh kiên quyết với những hành vi cố ý làm sai luật pháp, góp phần bảo đảm quyền dân chủ của công dân, bảo vệ kinh tế, bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tăng cường tính công khai, dân chủ trong bắt, truy tố và xét xử; xét xử phải đúng tội, đúng người, đúng luật pháp và mang tính giáo dục sâu sắc; thực hiện tốt việc thi hành án bảo đảm pháp luật được nghiêm minh.
CHĂM LO XÂY DỰNG ĐẢNG,.CHÍNH QUYỀN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ QUẦN CHÚNG VỮNG MẠNH ĐẢM BẢO THỰC HIỆN CÁC NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI
I. Chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ mới, xây dựng Đoàn thanh niên vững mạnh:
A. Xây dựng Đảng:
Hướng xây dựng Đảng trong 2 năm tới là tập trung thực hiện những nhiệm vụ cấp bách mà Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ V, thứ VI, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị đề ra, trong điều kiện cụ thể của quận phải tập trung vào những công tác sau:
1. Đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng:
Mục tiêu và nội dung công tác tư tưởng 2 năm tới là nâng cao nhận thức lý luận, nhất là các vấn đề mới về chủ nghĩa xã hội, khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là lý tưởng và mục đích phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta; phê phán và uốn nắn kịp thời những nhận thức lệch lạc, dao động về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận những thành quả cách mạng của nhân dân ta. Nâng cao trình độ nhận thức của CBCNV vồ công cuộc đổi mới; đảng viên phải nắm vững quan điểm, quán triệt nội dung nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, có chuyển biến tốt trong nhận thức và việc làm nhất là phải biết cụ thể hoá các nghị quyết của trên và rèn luyện năng lực hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Tạo điều kiện cho đảng viên thường xuyên nắm được thông tin mới về kinh tế xã hội, về quản lý, về pháp luật… Tổ chức xây dộng và học tập điển hình tiên tiến.
Chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ không muốn đổi mới đồng thời chống tư tưởng nóng vội thoát ly thực tế. Kiên quyết đấu tranh chống các phần tử cơ hội, thiếu trung thực, lợi dụng đổi mới, đổi mới hình thức. Hết sức coi trọng việc giáo dục lý tưởng cách mạng cho cán bộ đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức, có lập trường kiên định, vững vàng trước mọi thử thách, khắc phục tâm trạng bi quan, dao động, giảm lòng tin và ý chí chiến đấu, nêu cao lối sống tốt đẹp, lành mạnh, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tư tưởng phi vô sản khác. Đảng viên phải nêu cao tính kỷ luật trong chấp hành nghị quyết, chính sách luật pháp.
Hình thức và biện pháp công tác tuyên truyền phải đổi mới cho thích hợp với tâm lý, trình độ của đảng viên ở từng loại hình cơ sở, khắc phục cách làm cũ kỹ, giản đơn một chiều. Cần tiếp tục mở rộng hơn nữa tính công khai dân chủ trong sinh hoạt Đảng, sinh hoạt các đoàn thể, các cơ quan dân cử, các cơ quan Nhà nước và ngoài xã hội. Cần làm rõ dân chủ phải có lãnh đạo, mở rộng dân chủ nhằm nâng cao ý thức giữ vững kỷ luật và tuân thủ pháp luật.
Nội dung sinh hoạt cấp uỷ và tổ chức cơ sở Đảng phải có phần về công tác tư tưởng. Mở rộng các hình thức tiếp xúc đối thoại trong sinh hoạt với quần chúng, phải nhạy bén với dư luận xã hội, từng bước hướng dẫn dư luận xã hội; chống chiến tranh tâm lý, luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, lợi dụng công khai để phá hoại của địch và bọn xấu, nhất là trên mặt trận kinh tế, văn hoá. Cấp uỷ trực tiếp chỉ đạo công tác tuyên truyền và làm công tác tư tưởng, kiểm tra đảng viên làm công tác tư tưởng.
Để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, Trung tâm giáo dục chính trị tiếp tục mở các lớp trung cấp lý luận và quản lý kinh tế, một số lớp sơ cấp cho đảng viên và cán bộ ngoài Đảng, các lớp cho đoàn thể, lực lượng vũ trang, các lớp đối tượng Đảng, bồi dưỡng kiến thức về công tác Đảng cho cấp uỷ viên mới vừa được bầu sau Đại hội cơ sở, có chương trình nội dung giảng dạy phù hợp với những quan điểm mới của Đảng. Hàng tháng tổ chức báo cáo tình hình thời sự trong nước, quốc tế và những thông tin mới, nhất là thông tin hai chiều cho cán bộ công nhân viên và hệ thống báo cáo viên của Quận, giúp cho các cơ sở có đủ tài liệu để tuyên truyền, giáo dục.
Sinh hoạt chi bộ, chính quyền, đoàn thể hàng tháng phải có nội dung bàn công tác tư tưởng, mở rộng hình thức mạn đàm, đối thoại, tranh luận thực hiện tốt tự phê bình và phê bình… Đổi mới hình thức và phương pháp công tác tư tưởng, củng cố tổ chức tuyên huấn từ Quận đến cơ sở. Hoàn chỉnh lịch sử Đảng bộ thời kỳ 1930-1975 và biện tập xong lịch sử thời kỳ 1975-1985.
2. Tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất thực hiện công cuộc đổi mới; nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng:
a. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Ban chấp hành và tăng cường củng cố các tổ chức:
Xây dựng mối quan hệ làm việc của Ban chấp hành, Ban Thường vụ Quận uỷ, Hội đồng nhân dân và UBND Quận theo hướng Đảng đề ra nghị quyết, chủ trương, Chính quyền tổ chức thực hiện. Đảng có trách nhiệm bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ để thực hiện nghị quyết đề ra; vận động đảng viên, thành viên các tổ chức đoàn thể, mặt trận và nhân dân tham gia thực hiện nghị quyết, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết và đề ra hướng chỉ đạo tiếp theo.
Củng cố kiện toàn các Ban Đảng và Văn phòng Quận uỷ theo hướng tinh gọn, chọn lựa cán bộ có năng lực, phẩm chất, giỏi và chuyên sâu.
Củng cố và nâng chất lượng Ban Thường vụ và Ban chấp hành các đoàn thể quần chúng, đổi mới hoạt động theo hướng đi sát quần chúng, gắn với cơ sở, nắm và kiến nghị giải quyết những vấn đề bức thiết của quần chúng, làm gạch nối giữa Đảng, chính quyền với quần chúng nhân dân.
Kiện toàn bộ máy Uỷ ban nhân dân Quận gắn với Đại hội Đảng bộ Quận lần này và bầu cử Hội đồng nhân dân sắp tới. Thay đổi cách chọn lựa thành viên UBND (cũng như Hội đồng nhân dân) theo nguyên tắc công khai và dân chủ, tránh tình trạng cơ cấu trước, úp chụp, không dựa trên tiêu chuẩn.
Nâng cao năng lực hoạt động của các phòng, ban, và các phường thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ qui định. Đối với các phường, kết hợp đợt bầu cử Hội đồng nhân dân sắp tới cần kiện toàn và củng cố UBND theo hướng chọn lựa cán bộ có phẩm chất, năng lực, được nhân dân thực sự tín nhiệm.
Cải tiến lề lối làm việc, xây dựng phong cách lãnh đạo mới, làm việc theo theo qui chế, theo chương trình; khắc phục tệ giấy tờ, hình thức, phô trương thiếu tinh thần trách nhiệm. Xây dựng chế độ làm việc sâu sát cơ sở, các đồng chí Uỷ viên ban chấp hành phải có chế độ đi cơ sở, cán bộ chủ chốt các phòng, ban phải nắm được tình hình ở cơ sở có liên quan. Song song đó thực hiện tốt chế độ tiếp dân, giải quyết kịp thời các đề nghị, vướng mắc của dân.
b. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực thực hiện sự nghiệp đổi mới, xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ dự bị, kế cận:
Phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Quận cũng như cơ sở có “phẩm chất chính trị vững vàng, có năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn”, trên cơ sở đó từ nay đến 1990 phải:
Tổ chức đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ lãnh đạo phường, đưa đi đào tạo nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị
kể cả ngoại ngữ. Từng bước thực hiện việc phân cấp quản lý càn bộ cho chính quyền.
Sắp xếp cán bộ hiện có vào các chức danh, thực hiện việc luân chuyển cán bộ từ trên xuống và từ dưới lên đối với cán bộ lãnh đạo, nhưng phải ổn định cán bộ chuyên môn, mạnh dạn thay đổi những cán bộ không theo kịp trào lưu đổi mới hoặc năng lực không đáp ứng được nhiệm vụ được giao. Chú ý đề bạt kịp thời những cán bộ trẻ đã được đào tạo, có kiến thức chuyên môn, đã qua thử thách và có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực vào các cương vị lãnh đạo để tăng cường tính năng động, sáng tạo, tránh lối đổi mới và trẻ hoá hình thức; thực hiện dân chủ hoá và công khai hoá trong việc bố trí, sắp xếp, đề bạt cán bộ; phải lấy hiệu quả công tác làm thước đo, bố trí đúng ngành nghề, thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ; ở các đơn vị kinh tế cán bộ lãnh đạo không nhất thiết là đảng viên.
Khẩn trương quy hoạch cán bộ, trước mắt trong năm 1989 quy hoạch Ban Thường vụ, Ban chấp hành khoá VI và các chức danh bí thư, chủ tịch phường, trưởng, phó và bí thư các ngành. Xây dựng quy hoạch cán bộ dự bị, cán bộ kế cận dựa trên tiêu chuẩn từng loại cán bộ đổ có căn cứ đánh giá, lựa chọn bố trí. Tránh tình trạng đánh giá cán bộ hoặc chọn cán bộ dự bị theo cảm tính, chủ quan, qua 1nặng về lịch sử gia đình, bản thân, qúa trình cống hiến… mà xem nhẹ tiêu chuẩn.
Mỗi cấp uỷ cơ sở phải chọn được các cán bộ dự bị cho cấp mình. Mỗi chức danh lãnh đạo phải có từ 2 đến 3 cán bộ dự bị. Chú ý lựa chọn cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ có triển vọng để đào tạo đội ngũ cán bộ kế thừa cho chức danh lãnh đạo. Đồng chí bí thư cấp uỷ và thủ trương đơn vị (từ Quận đến cơ sở) chịu trách nhiệm trước tiên về việc chọn lựa cán bộ dự bị, kế cận.
Để thực hiện được các yêu cầu trên đây phải kiện toàn cơ quan tổ chức từ Quận đến các cơ sở; thay đổi những cán bộ tổ chức phẩm chất kém, bảo thủ, thành kiến hẹp hòi, kém năng lực, không trung thực, thay vào đó những đồng chí có phẩm chất, năng lực, có trí thức rộng, hiểu biết vầ tâm lý, khách quan vô tư, có cách nhìn và đánh giá đúng con người; có kế hoạch nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác tổ chức ở Quận cũng như ở cơ sở.
c. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng:
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về năng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Trên cơ sở phân loại chất lượng đảng viên vừa qua, các cấp uỷ có kế hoạch bồi dưỡng nâng chất đảng viên trong phạm vi ở từng tổ Đảng và từng Chi bộ, đối với những đảng viên loại khá, đặc biệt là yếu kém phải dựa vào ý kiến đóng góp của Chi bộ mà bồi dưỡng giúp đỡ; phấn đấu đến cuối 1990 tăng số đảng viên tốt lên từ 10-15%, giảm dần tỷ lệ đảng viên yếu kém. Đối với những đảng viên loại phấn đấu tốt, cần có kế hoạch bồi dưỡng, đưa vào lực lượng dự bị kế cận.
Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới dựa trên tiêu chuẩn chất lượng, xây dựng quy hoạch công tác phát triển Đảng kể cả số ngoài biên chế và ở trong các công ty, xí nghiệp, hợp doanh và tư nhân; phải coi trọng chất lượng ngay từ khâu chọn lựa đối tượng Đảng. Tăng cường công tác bảo vệ Đàng vả quản lý đảng viên, ngăn ngừa các phần tử cơ hội, phần tử xấu chui vào Đảng, Đoàn Thanh niên cộng sản tạo điều kiện giúp đỡ các đoàn viên ưu tú để phấn đấu trở thành đảng viên.
Tổ chức hướng dẫn chức năng nhiệm vụ của từng loại hình cơ sở Đảng ở phường, cơ quan, công ty, xí nghiệp (quốc doanh, hợp doanh, tư nhân), trường học… Kiện toàn các cấp uỷ cơ sở, thay đổi những bí thư yếu kém. Cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ, đảng bộ cơ sở. Các cuộc họp chi bộ phải có nội dung cụ thể, đề ra nghị quyết và kiểm tra thực hiện nghị quyết. Sinh hoạt Đảng phải được đưa vào nền nếp, đảm bảo được 3 tính chất của sinh hoạt Đảng; thực hiện thường xuyên tự phê bình và phê bình. Tập trung xây dựng các cơ sở Đảng vững mạnh, tiến tới xây dựng Đảng bộ Quận vững mạnh.
3. Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng:
Trước hết phải làm cho toàn Đảng nhận thức đúng đắn về công tác kiểm tra và phải làm cho công tác kiểm tra thực sự là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng; làm tốt việc kiểm tra thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; đưa việc kiểm tra thực hiện nghị quyết thành công việc thường xuyên của Đảng. Các tổ chức cơ sở Đảng phải hết sức chú trọng đến kiểm tra việc thực hiện các quyết định do Đảng bộ đề ra. Cấp uỷ, đặc biệt là Thường vụ và Thường trực phải có chương trình, kế hoạch kiểm tra thường xuyên ngay từ khi có nghị quyết. Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra của Nhà nước, thanh tra công nhân và việc giám sát kiểm tra của quần chúng. Coi trọng và xây dựng chương trình kiểm tra đảng viên chấp hành điều lệ, kỷ luật của Đảng, xem đây là mặt công tác quan trọng để ngăn ngừa đảng viên sai phạm. Uỷ ban Kiểm tra hướng dẫn cho kiểm tra cơ sở Đảng thực hiện các nhiệm vụ kiểm tra theo điều lệ quy định. Đối với đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước phải xem xét kịp thời, xử lý nghiêm minh. Tăng cường Uỷ ban Kiểm tra Quận uỷ đủ sức hoạt động và đảm đương được nhiệm vụ Đại hội giao cho. Các cấp uỷ cơ sở phải phân công một bộ phận làm công tác kiểm tra, nơi ít thì phân công một đồng chí trong cấp uỷ phụ trách. Xây dựng quan hệ lề lối làm việc chặt chẽ trong hệ thống kiểm tra từ Quận đến cơ sở. Uỷ ban Kiểm tra kết hợp chặt với các Ban Đảng xây dựng nền nếp sinh hoạt chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, quản lý đảng viên và kiểm tra đảng viên ở các tổ chức cơ sở nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và hạn chế tiêu cực phát sinh.
B. Xây dựng Đoàn:
Đoàn Thanh niên ngoài việc vận động đoàn viên, thanh niên đi đầu thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; chú ý giáo dục thanh thiếu niên, ngăn chặn những sa sút về phẩm chất, tha hoá trong sinh hoạt, không lành mạnh trong lối sống. Củng cố các cơ sở Đoàn, đưa việc sinh hoạt của Chi đoàn, phân đoàn vào nền nếp, chú ý xây dựng tổ chức Đoàn ở các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh. Chỉ kết nạp vào Đoàn những thanh niên thật ưu tú, quan tâm đến chất lượng, không chạy theo số lượng, kiên quyết đưa ra khỏi Đoàn những đoàn viên không đủ tư cách, không phát huy được tác dụng trong Đoàn.
II. XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN NGÀY CÀNG VỮNG MẠNH, ĐẢM BẢO THỰC HIỆN NHỮNG NHIỆM VỤ MÀ ĐẢNG ĐÃ ĐỀ RA:
Trước hết phải nâng cao hiệu lực quản lỳ và điều hành của bộ máy chính quyền đủ mạnh, bằng cách tăng cường cán bộ lãnh đạo các phòng ban, thực sự phát huy vai trò tham mưu của từng cơ quan chức năng; phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và việc tổ chức thực hiện của chính quyền. Chính quyền phải thực hiện đầy đủ chức năng quản lý của Nhà nước trên cơ sở nguyên tắc“Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”. Nghiên cứu vận dụng các chủ trương chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nắm chắc điều tra cơ bản, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Đảng đã đề ra.
Tổ chức giáo dục, giải thích trong nhân dân nhận thức được quyền lợi và nghĩa vụ, thực hiện đúng pháp luật và qui định và Nhà nước, giám sát việc thực hiện pháp luật ở các ngành chức năng, đảm bảo mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật. Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của các đơn vị kinh tế và của công dân thuộc các thành phần kinh tế, xoá bỏ những định kiến, những khuynh hướng phân biệt đối xử, và thiếu bình đẳng trước pháp luật đối với các thành phần kinh tế.
Xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng nhần dân và UBND để Hội đồng Nhân dân hoạt động có hiệu quả thiết thực.
Thực hiện việc phân công, phân cấp cho phường và cơ sở, tiếp tục giảm biên chế hành chính ở các phòng ban; phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế của các cơ quan Nhà nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Xác định Phường là một cấp quản lý hành chính xã hội tham gia xây dựng kế hạoch Quận. Bỏ cách giao kế hoạch cho phường như trước đây vừa không thực tế vừa không dân chủ. Thường xuyên chăm lo củng cố khu phố, tổ dân phố, xây dựng tổ chức chân rết ở phường ngày càng mạnh, vừa tăng cường hiệu lực quản lý vừa sâu sát dân. Mọi quyết định của chính quyền phải xuất phát từ nhu cầu và lơi ích của nhân dân lao động; khắc phục lối làm việc thiếu cụ thể, thủ tục hành chính rườm rà.
III. THẤU SUỐT QUAN ĐIỂM LẤY DÂN LÀM GỐC, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC ĐOÀN THỂ VÀ MẶT TRẬN, RA SỨC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG THỰC HIỆN CÁC CHỈ THỊ NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG.
Những nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra và kế hoạch cụ thể của chính quyền đều do quần chúng nhân dân thực hiện, nên việc phát động quấn chúng thực hiện một cách tự giác các nhiệm vụ của Đảng và chính quyền là tráhc nhiệm chung. Đảng viên và cán bộ công nhân viên ngoài Đảng dù làm nhiệm vụ gì, ở đâu cũng phải tham gia công tác vận động quần chúng, có vậy nghị quyết của Đảng mới biến thành hiện thực, việc chăm lo đời sống vật chất tinh thần, giải quyết các lợi ích thiết thân, các nguyện vọng bức xúc của quần chúng đều có ý nghĩa tích cực trong công tác vận động quần chúng. Đảng làm công tác vận động quần chúng không dừng lại ở nghị quyết, hoặc chăm lo bồi dưỡng cho các đối tượng trực tiếp trực tiếp lãnh đạo ở các đoàn thể, Mặt trận, mà phải bồi dưỡng cho từng đảng viên về tinh thần, thái độ và ý thức vận động quần chúng. Gương mẫu của cán bộ đảng viên - phẩm chất đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, quan tâm đến nhân dân lao động, đến mọi người, đều có tác dụng tốt trong việc giáo dục, vận động quần chúng.
Lãnh đạo chính quyền Quận, Phường, các Phòng Ban, các công ty, xí nghiệp phải nhận thức đầy đủ kết quả việc tổ chức thực hiện các mặt công tác đều bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Thực hiện công khai dân chủ, thái độ công bằng, nghiêm minh, giải quyết đến nơi đến chốn những vấn đề nhân dân đặt ra, giảm bớt các thủ tục phiền hà, kịp thời giải quyết các khiếu tố, khiếu nại của dân, phong cách khiêm tốn hoà nhã, kiên trì giải thích giáo dục, thuyết phục… vừa tăng uy tín của chính quyền, vừa có sức mạnh động viên quần chúng tham gia hành động cách mạng, Chính quyền phải quan tâm đến đời sống của quần chúng nhân dân, coi đó là thước đo hiệu quả hoạt động của chính mình. Qua các đoàn thể, mặt trận tìm hiểu tâm tư gnuyện vọng của quần chúng, kịp thời sửa đổi, bổ sung việc lãnh đạo, chỉ đạo sát hợp hơn.
Nội dung hoạt động của các đoàn thể, mặt trận là bám sát từng nhiệm vụ, mục tiêu của Đảng và theo chức năng của mình vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện. Xây dựng, phát triển các hình thức tổ chức thích hợp sát với nhu cầu thiết thân của từng đối tượng để động viên, giáo dục, dựa vào quần chúng giải quyết những vấn đề quần chúng đặt ra. Vận động quần chúng giám sát hoạt động của chính quyền, của cán bộ đảng viên, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng vững mạnh. Nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp quần chúng mà có nội dung giáo dục, giải thích phù hợp nhằm phát huy lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và tinh thần tự giác thực hiện các nhiệm vụ đề ra. Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của Ban chấp hành, của cán bộ và thành viên các tổ chức đoàn thể - mặt trận; thường xuyên kiểm tra chất lượng của tổ chức mình, mạnh dạn đưa ra khỏi tổ chức những đối tượng yếu kém, không phát huy tác dụng; xây dựng hoạt động của từng tổ chức đoàn thể - mặt trận đi vào thực chất.
Liên đoàn Lao động giáo dục công nhân viên chức phát huy bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân, phát huy sáng tạo, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh thúc đẩy kinh tế của Quận phát triển. Đẩy mạnh phong trào thi đua trong công nhân viên chức tạo khí thế mới sôi nổi hào hứng, thực hiện hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh tế xã hội. Tăng cường củng cố hoạt động của Công đoàn và Hội Lao động hợp tác ở cơ sở; tập hợp, vận động những người lao động có ngành nghề, có v ốn, chưa có việc làm tham gia vào các nhiệm vụ kinh tế của địa phương như phát triển sản xuất, tổ chức các hoạt động dịch vụ phục vụ phát triển kinh tế đời sống. Kịp thời hình thành tổ chức Công đoàn trong các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh.
Thực hiện các phong trào hành động cách mạng của giới, Đoàn thể phụ nữ đẩy mạnh hơn nữa việc giáo dục phong trào người phụ nữ mới, phong trào nữ công nhân viên chức tự rèn luyện, phong trào nuôi con khoẻ dạy con ngoan, tích cực giáo dục phụ nữ tham gia vào sản xuất, tiết kiệm, chăm lo chính sách hậu phương quân đội, chăm sóc người già, neo đơn; góp phần thực hiện các chính sách xã hội. Tăng cường củng cố chất lượng của Hội, hết sức chú ý đến hoạt động của các tổ hội, phải củng cố lại các tổ Hội với quy mô và loại hình thích hợp, chấm dứt các tổ Hội hoạt động hình thức kém tác dụng.
Thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá IV về bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em; Uỷ ban Thiếu niên Nhi đồng cùng với Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ có chương trình cụ thể ngăn chặn tình trạng hư hỏng của trẻ em đang có chiều hướng phát triển. Có kế hoạch phối hợp với các ngành thực hiện tốt “Năm trẻ em” trên địa bàn. Giúp đỡ để cho tất cả các cháu trong độ tuổi cấp I đều được đi học (ban ngày hoặc ban đêm), phát triển mạnh hơn nữa việc tổ chức bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em trên địa bàn dân cư.
Mặt trận cần có nhiều hình thức tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng và luật pháp Nhà nước; từng bước cụ thể hoá phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong hoạt động của đời sống xã hội, cũng như tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; có biện pháp tốt động viên lực lượng cán bộ đã về hưu tham gia công tác mặt trận.
Tập hợp vận động các nhà trí thức, khoa học kỹ thuật tham gia đóng góp xây dựng địa phương; vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học gắn với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, giúp các cơ sở ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý, nâng cao năng suất, hiệu quả, vừa tạo cơ sở để các nhà khoa học nghiên cứu phát minh, sáng chế, phát triển dịch vụ khoa học kỹ thuật.
Huy động những nhà công thương, những nhà tư sản dân tộc trong Quận và cả những người ở Quận trước đây nhưng hiện nay ở nước ngoài bỏ vốn để tham gia sản xuất; chú ý nắm thật chắc khả năng vốn liếng, ngành nghề, ma họ có thể tham gia trong từng lãnh vực (sản xuất, dịch vụ, kể cả thương nghiệp) v ận động số Việt kiều ở nước ngoài trở về liên doanh, tự tổ chức hoặc gởi vốn về phát triển kinh tế ở Quận.
Thực hiện tốt chính sách tự do tín ngưỡng, đoàn kết các tôn giáo, dân tộc, động viên mọi người tích cực tham gia vào các nhiệm vụ ở địa phương, vận động các cơ sở tôn giáo có vốn hoặc có nguồn tiền chi viện của nước ngoài tham gia đóng góp xây dựng kinh tế, xây dựng cộng đồng xã hội.
Tiếp tục giữ vững nền nếp hoạt động của Hội phụ lão, phát huy vai trò của phụ lão trong việc giáo dục con cháu, làm gương cho thế hệ trẻ về thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng. Duy trì hoạt động quỹ bảo thọ để giúp đỡ, chăm sóc những người già và giải quyết những khó khăn khi đau ốm, tang tế.
Chữ thập đỏ trong 2 năm tới tập trung củng cố hệ thống chân rết ở phường, ở trường học đi vào hoạt động thực chất, đồng thời phát triển vào các cơ quan xí nghiệp, phấn đấu cuối năm 1989 tất cả các cơ sở đều có tổ chức Chữ thập đỏ. Thông qua hoạt động Chữ thập đỏ xây dựng con người mới, cuộc sống mới, giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong nhân dân.
Trên đây là phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu trong 2 năm 1989-1990; Ban chấp hành nhiệm kỳ V phải có chương trình hoạt động toàn khoá nhằm cụ thể hóa các nội dung theo từng thời gian và Uỷ ban căn cứ tinh thần nội dung quyết định của Đại hội đề ra các biện pháp tổ chức thực hiện, các cơ sở Đảng cũng căn cứ vào tinh thần này bổ sung vào việc chỉ đạo ở đơn vị, có vậy Nghị quyết mới thực sự có sức sống.
Hai năm tới, tình hình sẽ tiếp tục có những chuyển động song cũng còn lắm khó khăn. Với sức mạnh đoàn kết nhất trí của Đảng bộ, với truyền thống cách mạng của nhân dân, chúng ta tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và mục tiêumà Đại hội đề ra.
BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN BA