Đại hội Đại biểu Đảng bộ quận 11 lần thứ IV họp từ ngày 02/10/1986 đến 07/10/1986. Sau khi nghiên cứu thảo luận nội dung báo cáo do Ban chấp Hành Đảng bộ Quận 11 nhiệm kỳ III trình bày, Đại hội đã thống nhất thông qua Nghị quyết sau đây:
I.VỀ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH :
1/Đại hội nhất trí đánh giá: 3 năm qua (1983 – 1986) tình hình về các mặt đã có nhiều chuyển biến đáng kể, phần lớn các chỉ tiêu Đại hội 3 đề ra đều đạt được, trong đó nổi bật lên là:
-Sản xuất CN – TTCN vẫn giữ vững được nhịp độ phát triển tương đối khá, tỉ trọng sản phẩm, giao nộp hàng năm tăng dần, các ngành nông lâm ngư nghiệp đặc biệt là nông Trường Duyên Hải đã đạt được một số tiến bộ đáng kể.
-Thương nghiệp XHCN mở rộng được mạng lưới, cải tiến phương thức phục vụ, doanh thu hàng năm tăng lên, chủng loại mặt hàng nhiều hơn, dần dần phát triển theo hướng phục vụ cho đời sống nhân dân lao động và sản xuất. Các ngành quản lý kinh tế tổng hợp đã cố gắng tháo gỡ một phần những vướng mắt, hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh phát triển.
-Các ngành xây dựng, Nhà Đất, Công trình công cộng, Giao thông Vận tải đã cố gắng làm thay đổi một phần cấu trúc hạ tầng trong Quận, phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
-Công tác chăm lo đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân đã đạt được một số kết quả nhất định trong giải quyết việc làm, nhà ở, học hành, phòng và chữa bệnh, vui chơi giải trí, phục vụ hai bữa ăn cho CBCNV, lực lượng vũ trang và nhân dân được khá hơn.
-Công tác cải tạo XHCN đã bước đầu đạt được kết quả trong việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất và phân phối lưu thông, tạo tiền đề cho việc củng cố và xây dựng quan hệ sản xuất XHCN cho các năm tiếp sau.
-Một số mặt về an ninh quốc phòng như bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn trị an, công tác tuyển quân, công tác hậu phương quân đội... đạt được nhiều thành tích đáng kể.
-Các đoàn thể tiếp tục phát triển về số lượng, tổ chức và phát động được nhiều phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Mối quan hệ đoàn kết các dân tộc trên địa bàn Quận ngày càng thêm gắn bó. Bộ máy chính quyền từ Quận đến Phường được củng cố, vai trò của HĐND ngày càng được xác định rõ hơn. Công tác quản lý hành chánh, Quản lý kinh tế xã hội có nhiều điểm tiến bộ hơn trước.
-Công tác xây dựng Đảng, trong đó nổi lên là công tác phát triển Đảng được đẩy mạnh, phát triển đào tạo được nhiều đảng viên, cán bộ trẻ có triển vọng. Số chi bộ, đảng bộ vững mạnh hàng năm đều tăng lên.
2/Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình thực hiện các nhiệm vụ của Quận trong ba năm qua cũng còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm, trong đó Đại hội tập trung nhấn mạnh những điểm chủ yếu sau:
-Công suất máy móc thiết bị đưa vào sử dụng mới đạt khoảng trên 40%. Một bộ phận máy móc, thiết bị cũ kỹ, không còn phù hợp với yêu cầu mới của sản xuất. Trong khi đó việc đầu tư cho sản xuất CN – TTCN chưa được tập trung. Về ứng dụng khoa học và kỹ thuật trong sản xuất chưa được quan tâm. Chủng loại sản phẩm tuy đa dạng, nhưng mặt hàng chiến lược chưa được hình thành rõ nét, chất lượng sản phẩm nhìn chung còn kém, sản xuất hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng thấp, còn lúng túng trong việc xác định thị trường tiêu thụ. Việc khai thác và chế biến lâm sản trong nhiều năm qua chưa đạt được hiệu quả kinh tế đáng kể.
-Thương nghiệp, dịch vụ XHCN bao gồm cả cung ứng xuất khẩu và cung ứng vật tư phát triển chưa đủ mạnh, chưa tương xứng với sản xuất CN – TTCN của Quận, không những chưa làm được vai trò chủ đạo mà còn bị cơ chế thị trường chi phối, mối quan hệ hợp tác giữa các đơn vị thương nghiệp với sản xuất còn rời rạc. Công tác quản lý nói chung đặc biệt là quản lý đăng ký kinh doanh, quản lý giá cả, quản lý thị trường còn lỏng lẽo, còn một số đơn vị thương nghiệp dịch vụ chạy theo doanh số, chạy theo chênh lệch giá, mua quanh bán quẩn.
-Ngân sách Nhà nước còn bị thất thu, nhất là việc xác định doanh thu, định mức thuế đối với các hộ sản xuất kinh doanh lớn chưa sát thực tế. Việc hạch toán kinh tế thực hiện chưa tốt, nên giá thành sản phẩm, phí lưu thông còn cao. Ý thức tiết kiệm chưa tốt, nhiều cơ quan, Công ty, xí nghiệp còn sử dụng công quỹ một cách lãng phí, gần đây có khắc phục được một phần. Ngành Tài Chánh – Thuế nhìn chung chưa làm tốt được chức năng là công cụ quản lý, công cụ điều tiết. Đầu tư xây dựng cơ bản còn tràn lan, có trường hợp còn gây lãng phí, chưa cần thiết, chưa đúng hướng.
-Cấu trúc hạ tầng đang tiếp tục xuống cấp, nhưng việc tu bổ sữa chửa chậm. Nhiều khu vực dân cư thiếu nước sinh hoạt, còn bị ngập úng, việc quản lý phân phối sử dụng nhà và đất còn nhiều trường hợp chưa hợp lý, chưa công bằng. Tình trạng chiếm dụng trái phép nhà và đất còn khá phổ biến chưa được tập trung xử lý.
-Đời sống CBCNV chức trong khu vực hành chánh sự nghiệp, lực lượng vũ trang, gia đình chính sách, cán bộ hưu trí, nhân dân lao động, nhất là người thợ thủ công làm thuê, làm mướng gần đây hết sức khó khăn, tiền lương thực tế giàm sút nhanh chóng. Tình hình ăn ở của một số khu vực dân cư còn rất chật chội, mất vệ sinh, ô nhiễm môi sinh, môi trường còn nặng nề, tình trạng thanh thiếu niên thất học còn nhiều, mầm móng dịch bện vẫn còn đe dọa, thuốc chữa bệnh thiếu, các loại tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan còn khá phổ biến.
-Công tác cải tạo chưa đạt được mục đích, còn nặng hình thức, chưa quan tâm nhiều đến việc củng cố quan hệ sản xuất XHCN, kinh tế quốc doanh chậm phát triển, kinh tế tập thể chưa vững chắc, năng lực quản lý khu vực kinh tế XHCN nhìn chung còn yếu.
-Chưa quan tâm đúng mức công tác xây dựng quốc phòng toàn dân, khâu tổ chức xây dựng lực lượng còn yếu chưa kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế và bảo vệ kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng. Chưa tổ chức được lực lượng đủ mạnh để chống lại chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, chưa đánh trúng bọn đầu sỏ phá hoại kinh tế, lủng đoạn thị trường. Bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản XHCN chưa tốt. Pháp chế XHCN chưa nghiêm, xét xử trừng trị bọn phạm tội chưa kịp thời, tác dụng giáo dục còn thấp.
-Hoạt động của chính quyền Quận Phường vẫn còn kém hiệu lực, bộ máy cồng kềnh, có lúc chậm cụ thể hóa và tổ chức thực hiện kịp thời chủ trương của Đảng. Phân công phân cấp cho cơ sở chưa đồng bộ, quyền chủ động của cơ sở còn bị hạn chế. Hoạt động của các cơ quan chính quyền trên một số mặt chưa phối hợp đồng bộ với các đoàn thể. Các đoàn thể còn lúng túng trong việc xác định phương thức hoạt động cho phù hợp, phần nào có biểu hiện hành chánh hóa. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động còn bị vi phạm.
-Công tác chính trị tư tưởng thiếu nhạy bén, thiếu tính chiến đấu cao còn bị động đối phó. Công tác tổ chức cán bộ chưa thật sự khoa học. Ở mức độ nhất định; quan điểm đánh giá và sử dụng cán bộ còn chưa tốt, chưa có quy hoạch cán bộ hoàn chỉnh phù hợp với qui hoạch tổng thể về kinh tế xã hội của Quận, do đó còn lúng túng trong các khâu đào tạo, bồi dưỡng, điều động và bố trí cán bộ. Việc phát triển đảng viên trong công nhân lao động, trong đồng bào Hoa còn ít, việc đấu tranh tự phê bình và phê bình để đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng chưa thường xuyên và mạnh mẽ. Những biểu hiện của tư tưởng phi vô sản như gia trưởng, độc đoán, quan liêu sợ đụng chạm, chủ quan nóng vội, tham ô... vẫn còn trong một số cán bộ đảng viên. Một bộ phận cán bộ đảng viên phần nào có sa sút về ý chí chiến đấu, về ý thức trách nhiệm, về tình cảm giai cấp. Tính cục bộ bản vị, ý thức tổ chức kỷ luật trong một số bộ phận, một số đ/c còn nặng.
Nhìn chung chúng ta đang đứng trước những tồn tại khó khăn gay gắt chủ yếu như sau:
Một là: Sản xuất CN – TTCN chưa thoát khỏi cơ chế gia công làm thuê nên vẫn còn bấp bênh chưa ổn định. Các yếu tố cần thiết để ổn định và phát triển sản xuất vẫn còn tiếp tục mất cân đối.
Hai là: Cơ cấu kinh tế công thương nghiệp dịch vụ chưa được hình thành đầy đủ và phát triển đồng bộ.
Ba là: Đời sống của nhân dân lao động, CBCNVC và lực lượng vũ trang còn tiếp tục khó khăn, giá cả thị trường chưa ổn định, đã và đang tiếp tục tăng nhanh.
Bốn là: Chuyên chính vô sản còn bị buông lỏng trên một số mặt, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động chưa thật sự được xác lập, chậm được thể chế hóa.
Năm là: Cơ chế quản lý mới theo tinh thần các Nghị quyết 6 và Nghị quyết 8 của BCH Trung ương Đảng khóa V chưa được cụ thể hóa, do đó sản xuất vẫn còn tiếp tục bị trói buộc, chưa được tháo gỡ nhiều nên chậm phát triển.
Sáu là: Nhiệm vụ chính trị đặt ra cho đảng bộ ngày một lớn và cấp bách nhưng trình độ năng lực lãnh đạo, quản lý của chúng ta chưa chuyển kịp theo tình hình mới.
Nhưng Đại hội chúng ta hướng về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội đại biểu đảng bộ Thành phố lần thứ IV hướng về nhân dân lao động trong Quận, đặt hết niềm tin vào sức mạnh của toàn Đảng bộ, chắc chắn chúng ta sẽ khắc phục dần được khó khăn để đảm bảo thực hiện phương hướng nhiệm vụ mục tiêu mà Đại hội lần này đã vạch ra.
II.VỀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ MỤC TIÊU TRONG CÁC NĂM 1986 – 1988:
Đại hội nhất trí thông qua những mục tiêu tổng quát cần phải tập trung thực hiện trong 2 năm tới là: tập trung ổn định và phát triển sản xuất, từng bước lập lại trật tự trong phân phối lưu thông, góp phần làm ổn định giá cả thị trường, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân lao động, tạo cho được một bước đổi mới về mặt xã hội, thường xuyên củng cố và nâng cao chất lượng quan hệ sản xuất XHCN làm tốt công tác an ninh quốc phòng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ kinh tế. Làm tốt công tác xây dựng và huấn luyện lực lượng vũ trang, lực lượng quốc phòng toàn dân để sẵng sàng đối phó với mọi tình huống và trực tiếp trước mắt là chống lại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, quán triệt và thực hiện quan điểm “lấy dân làm gốc” phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ, nhanh chóng đổi mới công tác tổ chức cán bộ, đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng để đáp ứng kịp với yêu cầu mới.
Đại hội một lần nữa khẳng định về cơ cấu kinh tế của Quận là cơ cấu kinh tế công thương nghiệp dịch vụ, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu là mặt trận hàng đầu, là nhiệm vụ trung tâm, chỉ có phát triển đồng bộ giữa sản xuất và phân phối lưu thông mới sớm ổn định được tình hình kinh tế xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
Trên cơ sở đó, phương hướng nghiệm vụ mục tiêu cụ thể và chủ yếu trên từng lĩnh vực hoạt động trong các năm 1986 – 1988 như sau:
1/Ổn định và phát triển sản xuất:
-Thực hiện các biện pháp tổng hợp như cải tạo và tổ chức lại sản xuất, liên kết kinh tế, huy động tốt hơn năng lực thiết bị, máy móc, cải tạo quản lý tốt ngành mua bán vật tư, sơ chế chế biến phế liệu, tăng cường khối lượng vật tư nhập qua con đường xuất nhập khẩu và huy động kiều hối... nhằm đảm bảo nhịp độ phát triển sản xuất bình quân hàng năm về giá trị tổng sản lượng CN – TTCN từ 13 – 15%. Đến năm 1988 giá trị tổng sản lượng phải đạt được thấp nhất 3,4 tỷ đồng, tỷ trọng hàng xuất khẩu chiếm 14%, tỷ trọng sản phẩm thu mua giao nộp chiếm từ 78 – 80%.
-Về nông lâm ngư nghiệp: tập trung các phương tiện vật chất kỹ thuật hiện có, tăng cường đầu tư, mở rộng thêm địa bàn ở ngoại thành, liên kết với một số tỉnh để phát triển sản xuất nhằm đạt cho được các chỉ tiêu chủ yếu.
-Sản lượng tôm xuất khẩu năm 1987 là 65 tấn, năm 1988 là 85 tấn.
-Đến năm 1988 đạt 3.000 tấn thức ăn gia súc, 8.000 con heo giống, 300 tấn heo hơi.
-Sản lượng tôm cá tạp và cá nước ngọt ở Đầm Sen 100 tấn vào năm 1988.
-Sản lượng khai thác lâm sản năm 1987 là 2.500 m3 gỗ tròn, năm 1988 là 4.000 m3 gỗ tròn.
-Đại hội giao trách nhiệm cho Ban chấp Hành nhiệm kỳ IV tiếp tục nghiên cứu xác định rõ và chính xác các ngành mũi nhọn nhằm tập trung đầu tư để đẩy mạnh sản xuất. Trước mắt tập trung đầu tư để đẩy mạnh một số mặt hàng xuất khẩu trên địa bàn Quận như: may mặc, may mũ giày và dệt kim, các mặt hàng da và giả da, vợt cầu lông, chế biến thực phẩm... Cần nhanh chóng mở thêm một số xí nghiệp quốc doanh thuộc các ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, chấn chỉnh củng cố lại các hợp tác xã và tổ hợp. Có kế hoạch cung ứng vật tư nguyên liệu, bố trí cán bộ có năng lực, mở rộng quyền chủ động trong sản xuất, kinh doanh, làm cho các XNQD thật sự trở thành lực lượng chủ đạo. Có chính sách ưu tiên cho các đơn vị sản xuất mặt hàng xuất khẩu được quyền sử dụng ngoại tệ, nhập nguyên liệu máy móc, chế độ ưu tiên sử dụng tiền mặt, có kế hoạch chỉ đạo cụ thể việc thực hiện quyết định 34 của Thành phố để đảm bảo phát triển sản xuất đúng hướng.
2/Về phân phối lưu thông:
Các đơn vị thương nghiệp dịch vụ tập trung đẩy mạnh khâu nắm hàng, phục vụ tốt cho yêu cầu phát triển sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân. Sớm lập lại trật tự trong phân phối lưu thông, thực hiện đúng phương thức phân phối lưu thông XHCN, đổi mới phương thức phân phối, mở rộng mạng lưới, tăng cường văn minh thương nghiệp, bảo đảm được hàng đến tận tay người tiêu dùng thông qua các HTX/TT phường. Thực hiện nghiệm chỉnh Chỉ Thị 12 của Thành Ủy về tổ chức và quản lý ngành ăn uống. Tổ chức tốt bữa ăn công nghiệp cho CBCNV chức và xã viên HTX tiểu thủ công nghiệp. Đến năm 1988 cùng với Thành phố nắm trọn khâu bán buôn, chi phối từ 60 – 65% mức bán lẻ trên thị trường xã hội. Đến năm 1987 mức phân phối bình quân đầu người trong năm gồm:
5 kg thịt, 5 kg cá, 4 kg đường, 50 kg rau quả, 40 quả trứng, 6 lít nước chấm, 250g bột ngọt, 4m vải, 4 kg xà bông, 0,2 ster củi, 120 kg gạo.
Năm 1988 mức phân phối bình quân đầu người tăng thêm từ 10 – 15% so với mức phân phối của năm 1987.
Về xuất nhập khẩu, phát triển chân hàng xuất khẩu tại Quận để đến năm 1988 mức huy động sản phẩm xuất khẩu sản xuất tại Quận phải đạt 40% tổng giá trị hàng xuất khẩu của Quận, tức là chiếm khoảng 5,6% giá trị tổng sản lượng CN – TTCN của Quận.
Năm 1987 đưa kim ngạch xuất khẩu lên 5,5 triệu Đô la rúp, năm 1988 lên 7,5 triệu Đô la rúp, trong đó có 1 triệu Đô la là kiều hối. Về nhập nguyên liệu vật tư thiết bị CN – TTCN phải đáp ứng 5% nhu cầu vào năm 1987 và 8% nhu cầu vào năm 1988.
Về tài chính tiền tệ:
Hoạt động tài chính phải phát huy tốt tác dụng phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, kích thích phát triển sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn thu, tập trung tăng cường và củng cố nhân sự các ngành tài chánh và thuế. Đến năm 1987, nguồn thu từ khu vực kinh tế quốc doanh của Quận phải chiếm 35% ngân sách của Quận, năm 1988 lên 40%. Hết sức tiết kiệm chi, tập trung vốn cho như cầu phát triển sản xuất kinh doanh, cải tạo mở rộng cấu trúc hạ tầng và phúc lợi công cộng.
Hoạt động của Ngân Hàng Quận phải gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn Quận, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh. Kế hoạch tín dụng, tiền tệ phải gắn liền với kế hoạch kinh tế xã hội của Quận. Tăng cường công tác quản lý tiền mặt, tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện phương thức thanh toán thông qua Ngân Hàng Nhà nước, giảm bớt bội chi tiền mặt.
Tăng cường công tác quản lý giá cả, quản lý thị trường, giữ nghiêm kỷ luật giá. Cần nắm sát tình hình biến động giá cả, cải tiến khâu duyệt giá để vừa bảo đảm việc tuân thủ qui định của trên vừa không gây ách tắc cho sản xuất kinh doanh vừa nắm được hàng.
3/Về xây dựng Nhà đất – Giao thông vận tải:
Tập trung các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất, phát triển nhà ở, phục vụ sự nghiệp giáo dục và TDTT, nâng cấp và mở rộng một số đường giao thông nội bộ đi đôi với việc giải quyết cấp thoát nước.
Từ nay đến năm 1988 phải đầu tư thay đổi một số thiết bị sản xuất thủy tinh, may mặc, may mũ giày xuất khẩu với tổng mức đầu tư khoảng 200 triệu (trong đó ngân sách Quận 100 triệu), xây dựng mới 250 căn hộ, cải tạo mở rộng mạng lưới cấp nước sinh hoạt ở các phường: 1, 3, 8, 11, 19. Nâng cấp một số đường hẻm, kiến nghị với Thành phố mở tuyến đường nối liền đường Lãnh Binh Thăng với đường Ông Ích Khiểm để khai thông đưa vào sử dụng nghĩa địa Bình Thới (Nhị Tỳ Quãng Đông cũ).
Có phương án xây dựng thêm trường học, khu TDTT tại nghĩa địa Bình Thới. Chuyển một số cơ sở sản xuất về khu vực Nghĩa địa Phú Thọ. Mở rộng trường Phú Thọ (phường 12), trường Lạc Long Quân (phường 8) trường Hưng Quốc (phường 20). Xây mới trường Mẫu Giáo bán trú ở cạnh nhà trẻ Hữu Nghị. Sửa chữa chung cư phường 7. Bằng mọi biện pháp thực hiện cho được việc điều chỉnh nhà ở, xử lý thu hồi về cho Nhà nước nhà và đất bị chiếm dụng trái phép. Bảo đảm thực hiện cho được việc phân phối nhà ở công bằng hợp lý. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để CBCNV và nhân dân tu chỉnh, sửa chữa nhà cửa.
Để đạt được yêu cầu đó cần sớm kiện toàn bộ máy quản lý nhà đất, tổ chức lại lực lượng thi công, củng cố BQL công trình để đủ sức đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ bản trong những năm sắp tới.
Tiếp tục củng cố đội vận tải nặng, Đội công trình giao thông, nâng năng lực vận tải lên 100 tấn/ phương tiện, vào năm 1987 và 120 tấn/ phương tiện vào năm 1988. Tổ chức khai thác tốt năng lực vận tải trong Quận để phục vụ yêu cầu vận tải trong và ngoài Quận.
4/Tập trung nâng cao chất lượng quan hệ sản xuất mới, củng cố vững chắc quan hệ sản xuất XHCN :
Trước hết kiện toàn và mở rộng các cơ sở kinh tế QD, HD để các cơ sở này đi vào sản xuất ổn định với năng suất, chất lượng hiệu quả ngày càng cao. Xây dựng thêm ít nhất 5 XNQD trong 2 năm 1987 – 1988, củng cố và mở rộng XNQD cấp phường, chấn chỉnh lại các xí nghiệp đời sống của các ngành và các phường. Trước mắt cần kiện toàn bộ máy quản lý ở các phòng ban tham mưu của Quận và phường để đáp ứng yêu cầu đó, có kế hoạch củng cố thành phần kinh tế tập thể, phải giải thể các cơ sở tập thể trá hình, thành lập mới các cơ sở sản xuất theo hướng qui hoạch tổng thể của Quận.
Trong thương nghiệp dịch vụ: xóa bỏ TSTN, tổ chức sắp xếp lại các hộ mua bán, dịch vụ vừa và nhỏ theo các hình thức thích hợp. Tăng cường củng cố các cửa hàng HTKD, chấm dứt tình trạng khoán trắng cho cửa hàng về doanh số, về lãi mà qua đó tư nhân núp bóng Nhà nước để làm ăn sai trái.
Đến năm 1988, nâng tỷ trọng thành phần kinh tế XHCN lên 65% tổng sản lượng xã hội, 63% thu nhập quốc dân, 60% giá trị tổng sản lượng CN – TTCN, 65% mức bán lẻ trên thị trường xã hội.
5/Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm, dần dần ổn định và cải thiện một số mặt trong đời sống nhân dân :
Đẩy mạnh hoạt động sinh đẻ có kế hoạch, có những biện pháp chính sách để đảm bảo giữ mức tăng dân số tự nhiên dưới 1,1%. Giải quyết việc làm cho 6.000 lao động mỗi năm. Chọn địa bàn thích hợp để xây dựng cơ sở vật chất cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu từ năm 1988 đến 1990 có thể tiếp nhận 400 hộ mỗi năm đến xây dựng vùng Kinh tế mới.
Thực hiện việc điều tiết hợp lý chênh lệch trong thu nhập của CBCNVC giữa các khu vực trên nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động và có chính sách chiếu cố chăm sóc các gia đình CBCNVC đông con và những người già yếu neo đơn tàn tật. Thông qua các công cụ quản lý thực hiện việc điều tiết thu nhập bất hợp lý của một bộ phận dân cư.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống mới, con người mới, đấu tranh phê bình lối sống vị kỷ, bài trừ văn hóa văn nghệ phản động đồi trụy, mê tín dị đoan.
Đến năm 1988 chấm dứt tận gốc nạn mù chữ và tái mù chữ trong độ tuổi: Nam từ 45 tuổi, nữ từ 40 tuổi trở xuống . Cố gắng tối đa để giải quyết trường lớp cho các cháu 6 tuổi vào lớp một phổ thông, thực hiện phổ cập cấp 2 cho CBCNV và phổ cập cấp 1 cho thanh niên. Cán bộ chủ chốt của Quận và Phường phải học xong cấp 3.
Phấn đấu đạt 100% số phường đạt 5 dứt điểm, coi trọng công tác vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch. Kiểm tra và quản lý chặt chẽ vệ sinh thực phẩm, vệ sinh công nghiệp, vệ sinh ngoại cảnh, hạn chế ô nhiễm môi sinh môi trường, phát động sâu rộng phong trào rèn luyện thân thể, phong trào y võ dưỡng sinh.
Có kế hoạch chăm lo đời sống cho đối tượng chính sách và đối tượng xã hội, thực hiện đúng các chế độ chính sách của Nhà nước kết hợp với việc tổ chức sản xuất nhằm cải thiện đời sống cho cán bộ hưu trí, thương binh gia đình liệt sĩ.
6/Tăng cường công tác khoa học – kỹ thuật :
Từng bước triển khai thực hiện qui hoạch tổng thể, thông qua thực tiễn có điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với khả năng của Quận và yêu cầu phát triển chung của Thành phố.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, kịp thời ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất.
Nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới bằng nguyên liệu trong nước, hoặc sản phẩm mới thay cho hàng nhập sản xuất hàng có giá trị xuất khẩu.
Nghiên cứu ứng dụng khoa học – kỹ thuật vào việc đổi mới công tác tổ chức, công tác quản lý, đổi mới phong các và lề lối làm việc.
Làm tốt công tác tổ chức và có chính sách thích hợp để tập họp và sử dụng tốt lực lượng khoa học và kỹ thuật, lao động có tay nghề kỹ thuật cao, các nghệ nhân giỏi trong và ngoài Quận trong việc nhiên cứu các chuyên đề cần thiết.
Hằng năm dành từ 1 đến 1,5% ngân sách Quận cho hoạt động khoa học – kỹ thuật.
7/Thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý :
-Thực hiện việc hạch toán kinh tế trên cơ sở xác định lại các định mức kinh tế kỹ thuật, loại trừ các chi phí bất hợp lý nhằm giảm dần chi phí trong sản xuất và lưu thông để nâng cao hiêu quả kinh tế.
-Tổ chức thực hiện Nghị quyết 306 của BCT, Quyết định, Chỉ thị 76 của HĐBT. Chú ý vận dụng vào khu vực kinh tế tập thể là khu vực chiếm bộ phận lớn của Quận. Từng bước đổi mới công tác kế hoạch hóa, trước hết phải nghiên cứu để hoàn chỉnh chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu hướng dẫn. Cải tiến phương pháp giao kế hoạch sao cho được nhanh, gọn, đúng, bảo đảm cho kế hoạch thật sự được xây dựng và tổ chức thực hiện từ cơ sở.
-Tiến hành nghiên cứu và tổ chức thực nghiệm một số mô hình mới trong SXKD. Sắp xếp lại bộ máy tổ chức tinh gọn hoạt động đồng bộ, phát huy vai trò của các ngành tham mưu, nâng cao hiệu suất hoạt động của toàn bộ bộ máy trong toàn Quận.
-Xác định rõ chức năng của các cơ quan quản lý hành chánh kinh tế và cơ quan SXKD chống sự chồng chéo lộn xộn, nhầm lẫn.
-Nghiên cứu đổi mới và củng cố chế độ thông tin báo cáo, đảm bảo quyền lực quản lý tập trung của UBND Quận. Mặt khác tạo điều kiện mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị cơ sở.
8/Công tác an ninh quốc phòng :
Đại hội nhất trí trong các năm 1986 – 1988 và các năm tiếp sau, Đảng bộ Quận cần phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa các Nghị Quyết 03 và 24 của BCT, nâng cao ý thức cảnh giác, xây dựng lực lượng Công An – Quân sự vững mạnh, làm tốt công tác quốc phòng toàn dân, đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần xây dựng hậu phương vững mạnh, sẵng sàng ứng phó với mọi tình huống chiến tranh lớn xảy ra, trước hết là đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. Tăng cường công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tư an toàn xã hội, bảo vệ tốt tài sản XHCN, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động của các đối tượng hình sự, chính trị, bọn làm ăn phi pháp, đầu cơ buôn lậu, hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội. Tổ chức quản lý chặt chẽ tình hình các địa bàn dân cư, tập trung đúng mức cho các địa bàn trọng điểm. Thực hiện tốt công tác quản lý nhân hộ khẩu, tình hình di biến động dân số.
Sớm triển khai phương án xây dựng Quận thành pháo đài, gắn việc phát triển sản xuất với bảo vệ sản xuất, kinh tế và quốc phòng. Củng cố “ban một” tổ chức huấn luyện tốt đội ngũ quân dự bị. Xây dựng đều khắp và tổ chức huấn luyện kịp thời cho lực lượng tự vệ cơ quan xí nghiệp. Đảng viên và đoàn viên phải tham gia làm nồng cốt trong lực lượng dân quân tự vệ ở phường, cơ quan, xí nghiệp. Phấn đấu đến hết năm 1988 các Phường Đội Trưởng đều có đủ năng lực và phẩm chất tham gia cấp ủy phường. Làm tốt công tác tuyển quân và giao quân, công tác diễn tập quân sự hàng năm. Thường xuyên làm tốt công tác hậu phương quân đội.
9/Thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ :
a)Công tác vận động quần chúng: quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, toàn Đảng bộ trước hết là các cấp ủy Đảng phải đặt công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Mỗi tổ chức cơ sở Đảng, mỗi đảng viên phải đi sâu hiễu rõ tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Các tổ chức chính quyền phải trở thành công cụ chủ yếu của chế độ làm chủ tập thể XHCN, bảo đảm phát huy cho được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Các đoàn thể làm công tác quần chúng phải thật sự đổi mới cả nội dung và phương pháp vận động quần chúng. Các cơ sở SXKD phải coi trọng phát huy vai trò của Công Đoàn, mở rộng dân chủ, tạo mọi điều kiện cho CBCNV thật sự tham gia làm chủ tập thể của mình trong SXKD.
Có qui chế làm việc, bảo đảm 3 tháng một lần Ban TWQU làm việc với từng đoàn thể quần chúng. Các cấp ủy Đảng phải quan tâm bồi dưỡng cán bộ đoàn thể và cốt cán trong quần chúng.
Công Đoàn: cần chuyển hướng hoạt động mạnh xuống cơ sở, chú trọng xây dựng hội LĐHT. Nâng cao chất lượng của Hội nghị XNVC. Thực hiện tốt Nghị định 182/CP và 217/CP của HĐBT. Trong qui hoạch phát triển Đảng và đào tạo cán bộ cần chú ý số công nhân lao động trực tiếp sản xuất, số cốt cán trưởng thành từ phong trào công nhân. Tập họp, vận động, giáo dục CNVC – lao động nâng cao quyền làm chủ tập thể, phát huy vai trò của tổ chức Công Đoàn, kiểm tra giám sát việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, các chính sách chế độ của Nhà nước. Đẩy mạnh phong trào thi đua phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, xây dựng hệ thống tổ chức Công đoàn cơ sở, hội lao động hợp tác, phấn đấu kiện toàn đội ngũ cán bộ Công Đoàn cân đối với bộ tứ của hệ thống chuyên chính vô sản.
-Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cần coi trọng công tác giáo dục phẩm chất truyền thống và lý thưởng cho thanh niên, đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động cho phù hợp với tuổi trẻ. Cần gắn các phong trào của thanh niên với nhiệm vụ tham gia QLKT, QLXH, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Chú ý nâng cao chất lượng Đoàn viên để xây dựng đội hậu bị cho Đảng.
Củng cố Hội liên hiệp thanh niên để tập họp rộng rãi các tầng lớp thanh niên. Trong hai năm 1987 – 1988 giới thiệu cho Đảng 300 đoàn viên ưu tú có đủ tiêu chuẩn để kết nạp vào Đảng. Ủy ban Thiếu niên nhi đồng có kế hoạch cụ thể, chủ động phối hợp với các ban ngành, các đoàn thể, phát động phong trào toàn dân thực hiện pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
-Hội Liên hiểp Phụ nữ: đẩy mạnh công cuộc vận động các tầng lớp Phụ nữ cùng với các ngành tham gia quản lý kinh tế, QLTT, xây dựng nếp sống mới, xây dựng con người mới. Chú ý chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của phụ nữ trong sản xuất và phân phối lưu thông và chăm lo đời sống gia đình. Coi trọng việc nâng cao trình độ văn hóa, chính trị cho các tầng lớp phụ nữ. Thông qua hoạt động của mình và củng cố nâng chất lượng tổ chức hội. Hội cần chú ý đào tạo bồi dưỡng, phát hiện cán bộ nữ có năng lực tham gia cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
-Mặt trận Tổ Quốc: Cần thường xuyên rút kinh nghiệm để làm tốt nhiệm vụ phối hợp hoạt động với các đoàn thể thành viên để thực hiện các chính sách đường lối của Đảng, lựa chọn đại biểu xứng đáng bầu vào HĐND các cấp, giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa đại biểu HĐND và cử tri. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục chính sách tôn giáo, chính sách dân tộc của Đảng nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt chú trọng công tác Hoa vận, chăm sóc giáo dục bồi dưỡng đội ngũ cán bộ gốc Hoa.
b)Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước :
Nhà nước là nơi thể hiện tập trung quyền làm chủ của nhân dân lao động, là công cụ chủ yếu của chế độ làm chủ tập thể XHCN. Do đó khi đề ra các quyết định kế hoạch để cụ thể hóa các Nghị quyết Đảng, Chính quyền các cấp cần đi sâu lắng nghe ý kiến quần chúng, tham khảo ý kiến Mặt trận và các đoàn thể những vấn đề có liên quan đến quần chúng, triển khai thực hiện phải phối hợp đồng bộ. Thường xuyên định ký có các cuộc họp liên tịch giữa chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể để thống nhất yêu cầu nói trên.
Xác định rõ nhiệm vụ chức năng của các phòng ban làm cơ sở cho việc thực hiện tinh giảm bộ máy, giảm chức phó ở một số đơn vị xét thấy không cần thiết. Phân định rõ chức năng quản lý hành chính và chức năng quản lý SXKD, có kế hoạch tuyển chọn đào tạo, một đội ngũ cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng để bố trí vào các phòng ban tham mưu và các đơn vị cơ sở của bộ máy chính quyền.
Hội đồng Nhân dân Quận và các phường phải đi vào hoạt động thiết thực, thực hiện có hiệu quả chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mình, kiểm tra giám sát được các hoạt động của bộ máy chính quyền. Thể hiện đầy đủ là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương. Đại biểu HĐND phải nêu cao trách nhiệm trước cử tri, tiếp xúc định kỳ với cử tri, tham gia cùng các cơ quan Nhà nước giải quyết các yêu cầu chính đáng của cử tri.
Tổ chức Đảng cần tạo mọi điều kiện cho HĐND và UBND hoạt động một cách chủ động có hiệu lực, thực hiện đúng cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý nhân dân lao động làm chủ” chấm dứt tình trạng bao biện, làm thay, làm thế công việc của chính quyền.
Tiếp tục thực hiện việc phân công phân cấp cho phường để tạo ra điều kiện cho phường phát huy vai trò quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Trước hết đảm bảo Phường là cấp ngân sách, tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, để dần dần tiến tới thực hiện đầy đủ Quyết định 123 của UBND Thành phố.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Do đó phải thường xuyên tổ chức tuyên truyền phổ biến pháp luật, làm cho mọi tổ chức, mọi cá nhân phải hiểu rõ để từ đó tuân thủ nghiêm ngặt. Mọi sự vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh và kịp thời.
Các tổ chức Thanh Tra, Tư Pháp, Công An cùng với Viện kiểm sát phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể quần chúng tiến hành thường xuyên và nghiêm túc các hoạt động Thanh Tra và kiểm tra, hướng dẫn cho các đơn vị cơ sở tự tổ chức Thanh tra, kiểm tra để đề phòng các sai phạm, loại trừ và sửa chữa ngay những sai phạm ở cơ sở.
Quan tâm nâng chất lượng cả hai mặt năng lực và phẩm chất, làm cho các ngành Nội Chính được trong sạch và vững mạnh.
c)Công tác xây dựng Đảng :
-Phải tập trung vào việc đổi mới đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ tổ chức, sắp xếp bộ máy tổ chức phù hợp với cơ chế quản lý mới. Bố trí đúng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, phân rõ chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan đơn vị. Xây dựng và củng cố kỷ cương của Đảng. Nâng cao phẩm chất đạo đức của đảng viên.
Xây dựng chức danh từng cơ quan Nhà nước. Quan tâm kiện toàn các Ban Đảng, các cơ quan kinh tế tổng hợp để đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý.
Phấn đấu đến năm 1988 làm xong qui hoạch tổ chức và cán bộ phù hợp với qui hoạch tổng thể của Quận, làm cơ sở cho việc kế hoạch hóa công tác đào tạo và bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ. Các quyết định về tổ chức và cán bộ phải đảm bảo tính tập thể, phải dân chủ thảo luận, có xem xét ý kiến của cấp dưới ý kiến quần chúng và bản thân người cán bộ đó.
-Củng cố và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng. Có tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh thì mới phát huy có hiệu quả cơ chế quản lý kinh tế mới. Phải sớm xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng loại tổ chức cơ sở Đảng. Bí thư phải có phẩm chất năng lực tương đương với Thủ Trưởng đơn vị, phải nâng cao kiến thức quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, phải quán triệt đường lối quan điểm của Đảng.
Phải giữ vững chế độ và nâng cao chất lượng sinh hoạt ở mỗi tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của cấp trên, kiểm tra công tác của đảng viên. Phải thực hiện phê bình, tự phê bình thường xuyên và có nề nếp trong các tổ chức cơ sở Đảng, trong cấp ủy Đảng. Tổ chức định kỳ 6 tháng 1 lần cho quần chúng đóng góp ý kiến phê bình chi bộ, Cấp ủy và Thủ Trưởng đơn vị. Đến năm 1988 phấn đấu đạt mức 40% số cơ sở đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh, không còn Đảng bộ, Chi bộ yếu kém.
-Hết sức chú ý công tác phát triển Đảng, phấn đấu đến năm 1990 thay đổi về cơ cấu đảng viên hợp lý giữa các khu vực, cố gắng tập trung bồi dưỡng về phát triển Đảng trong lực lượng trực tiếp sản xuất, trực tiếp làm việc ở các cơ sở, tổ đội sản xuất, ở các XNQD, HTX sản xuất TTCN, các công ty Thương nghiệp, các HTX/TT phường, trường học, trạm y tế, phòng khám. Phấn đấu trong hai năm 1987 – 1988 phát triển thêm 450 đảng viên mới. Song song với việc phát triển đảng viên mới, cần phải kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa các sai phạm trong cán bộ đảng viên, kịp thời xử lý đưa ra những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
-Từng cơ sở Đảng phải xây dựng quy hoạch phát triển Đảng một cách tích cực và vững chắc, và phải giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi cán bộ phụ trách, mỗi đảng viên phải làm thật tốt công tác này.
-Nâng cao tính tổ chức kỷ luật, tăng cường công tác kiểm tra của Đảng: đấu tranh khắc phục tình trạng vô tổ chức, vô kỷ luật, tự do, tùy tiện, chấp hành không nghiêm túc các Nghị quyết Chỉ thị của cấp trên. Tập trung khắc phục các hiện tượng buông lỏng kỷ luật của Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra ở ngay tổ chức cơ sở Đảng. Nội dung kiểm tra là phải gắn xem xét việc tổ chức thực hiện các quyết định với trách nhiệm của cơ quan, của cán bộ lãnh đạo và phẩm chất đạo đức của đảng viên. Tăng cường kiểm tra đối với các đơn vị thuộc khu vực sản xuất, phân phối lưu thông những nơi có quan hệ với tiền, hàng, vật tư và các cơ quan thường xuyên tiếp xúc với dân.
Thường vụ Quận Ủy, trực tiếp là đ/c thường trực chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức kiểm tra việc thực hiện Nghị Quyết, Chỉ thị, Quyết Định của cấp Ủy.
Đề cao kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, mỗi cán bộ đảng viên đều phải phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Kh6ng một cán bộ lãnh đạo nào được tự đặt mình ra ngoài tổ chức của Đảng, tự cho mình có quyền nóivà làm khác với Quyết định của tập thể.
Thực hiện nghiêm chỉnh qui chế làm việc trong các tổ chức Đảng, nhất là trong Ban chấp Hành, trong Thường Vụ Quận Ủy, qui chế làm việc giữa Ban chấp Hành với Ban Thường Vụ giữa cấp Ủy với chính quyền các ban ngành và các đoàn thể.
Thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình từ Quận Ủy đến các Chi bộ, các ban ngành theo định kỳ.
d)Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên :
Tập trung bồi dưỡng, giáo dục trang bị lý luận cơ bản và chủ nghĩa Mác Lênin là nhiệm vụ cơ bản và thường xuyên của Đảng bộ. Trước hết là quán triệt các Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 4, 5, 6, các Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 3, 4 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quận lần này.
Nội dung cần tập trung một số vấn đề cần thiết về nhận thức, phương pháp luận đúng đắn, khoa học để nắm vững đường lối chung, đường lối kinh tế, các qui luật khách quan, nhất là chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Tiếp tục làm rõ đặc điểm đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường về nhiệm vụ đẩy mạnh cải tạo XHCN, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, về cơ cấu kinh tế, về 3 cuộc cách mạng, về xoá bỏ cơ chế tập trung quan liệu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý mới, hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN.
Thông qua công tác chính trị tư tưởng, đẩy mạnh đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu xa rời quần chúng. Củng cố lập trường giai cấp công nhân, xây dựng quan điểm quần chúng: lấy dân làm gốc, nâng cao ý chí chiến đấu, ý thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật, xây dựng lối sống giản dị, lành mạnh, khiêm tốn trung thực, khắc phục các biểu hiện tiêu cực chạy theo cuộc sống vật chất tầm thường.
Đến năm 1988 tất cả cán bộ, đảng viên phải thông qua chương trình lý luận chính trị sơ cấp, đến năm 1990 cán bộ chủ chốt (Quận Ủy Viên, Trưởng Phó ban ngành đoàn thể, Bí Thư và Thủ Trưởng các đơn vị cơ sở) phải qua chương trình lý luận trung cấp.
Củng cố đội ngũ cán bộ Tuyên Huấn, Trường Đảng, VHTT. Truyền Thanh, cán bộ Tuyên Huấn ở các đoàn thể và các phường. Tăng cường công tác lãnh đạo của Thường Vụ Quận Ủy đối với mọi mặt hoạt động về công tác chính trị tư tưởng.
Làm tốt công tác bồi dưỡng cho cán bộ Trường Đảng về chính trị và quản lý kinh tế, bố trí một số đồng chí đi học Đại học kinh tế tại chức. Các tổ chức cơ sở Đảng, các ban ngành đoàn thể phải chủ động làm tốt công tác chính trị tư tưởng.
III.Đại hội Đảng bộ Quận giao cho Ban chấp Hành Đảng bộ Quận nhiệm kỳ 4 có kế hoạch phổ biến sâu rộng Nghị quyết của Đại hội. Lãnh đạo chỉ đạo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản đã được đề ra trong Nghị quyết. Từng thời gian có tổ chức kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết và có sơ kết rút kinh nghiệm.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải biến Nghị quyết của Đại hội thành các phong trào thi đua của Quần chúng với nội dung thiết thực phải trở thành hoạt động mang tính tự giác cao, tạo nên sức sống mãnh liệt, kích thích cao độ nhiệt tình cách mạng của quần chúng. Các phong trào thi đua cần được triển khai sâu rộng đến mỗi người, mỗi tổ sản xuất, mỗi tổ dân phố, khu phố, để thông qua các phong trào đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, qua phong trào mà phát triển thêm lực lượng cách mạng.
Nhiệm vụ đặt ra cho các năm tới cho Đảng bộ là hết sức nặng nề. Nhưng dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, được cụ thể hóa bằng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 4. Với tinh thần đoàn kết nhất trí cao độ, với ý chí tiến công cách mạng, tự lực tự cường và bằng kinh nghiệm quí báu rút ra từ thực tiễn trong các năm qua. Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ 4 tỏ ý tin tưởng và kêu gọi các cấp Ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân trong Quận hăng hái vượt qua các khó khăn trở ngại. Để phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội đề ra, ra sức xây dựng Đảng bộ Quận trong sạch vững mạnh xứng đáng là một thành viên của Đảng bộ Thành phố được vinh dự mang tên Bác Hồ vĩ đại.