Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Một số điểm chính về quy hoạch cơ bản của Quận 11

----

Trước khi quyết định những công tác và những mục tiêu cụ thể sắp tới,chúng ta cần xác định những điểm chung về quy hoạch của Quận mà trước đây anh 6 D6an và đại diện một số ngành có liên quan của Thành phố đã cùng với Quận bàn bạc và quyết định phương hướng .

A.- TÍNH CHẤT VÀ YÊU CẦU CỦA QUẬN 11

VỀ PHƯƠNG DIỆN QUY HOẠCH

1/ Với đặc điểm thuận lợi cơ bản là một quận có khá nhiều xí nghiệp và 4.505 cơ sở TTCN có thiết bị tương đối khá, đội ngũ công nhân có tay nghề giỏi nên tương lai Quận 11 sẽ là quận có công nghiệp và TTCN phát triển.

Do đó công cuộc cải tạo và xây dựng ở Quận 11 phải nhằm phát triển các mặt hàng ngày thêm phong phú, chất lượng sảm phẩm và hàng hoá đảm bảo hơn. Đời sống công nhân và nhân dân lao động ngày càng được cải thiện , khả năng tích luỹ cho Nhà nước ngày càng cao hơn .

2/ Với các công trình văn hoá và thể dục thể thaolớn như : Công viên Đầm Sen , sân vận động ở Trường Đua Phú Thọ , các di tích lịch sử như chùa Gò, chùa Giác Viên, đồn Cây Mai, với truyền thống cách mạng kiên cường và nhiều chiến công mà Quận 11 đã làm nên trong quá khứ, nên tương lai Quận 11 sẽ là một quận đóng góp nhiều về cơ cấu hình thành trung tâm văn hoá và giao dịch quốc tế theo nhiệm vụ chung của cả thành phố .

Xuất phát từ tính chất và đòi hỏi trên , ta phải xây dựng Quận 11 sao cho mang được phong thái của một Quận XHCN , văn minh về mặt cấu trúc, ăn ở, đi lạivà phục dịch về mọi mặt cho đời sống nhân dân .

B .- MỘT SỐ HƯỚNG VỀ QUY HOẠCH CƠ BẢN CỦA QUẬN 11 :

Tính chất và yêu cầu trên , một số hướng về quy hoạch cơ bản của Quận 11 như sau :

1/ Quy hoạch về ranh giới :

Hiện trạng về ranh giới của Quận 11 có mấy chỗ bất hợp lý :

Ap Tân Phước xã Phú Thọ Hoà cũ của Quận Tân Bình như một mũi nhọc thọc sâu vào nội địa của Quận 11 nên thuộc quyền quản lý của Quận 11 .

Xung quanh hồ Đầm Sen và đường Tân Hoá ( giáp Quận 6 ) ranh giới chưa rõ ràng , hợp lý .

Trước đây Thành uỷ đã có dự kiến quyết định lại về ranh giới nhưng đến nay chưa thực hiện được . Sắp tới đề nghị trên có quyết định dứt khoát về vấn đề này .

2/ Quy hoạch về lao động :

Với diện tích 550 ha ( theo ranh giới mới ) Quận 11 có khả năng dung chứa mật độ dân số thích hợp vào khoảng 150.000 người nên cấn tiếp tục thực hiện càng sớm càng tốt việc di giản dân ra khỏi Quận thêm từ 50 – 70 ngàn người nữa .

3/ Quy hoạch về các khu vực ăn ở, sản xuất và làm việc :

Hiện nay trong Quận còn khá nhiều nhà ổ chuột chậtchội , các xí nghiệp gây ô nhiểm còn xen kẻ trong khu dân cưn, vị trí các cơ quan phân tán , cần tích cực thực hiện việc điều chỉnh các khuvực này như sau :

- Khu vực sản xuất công nghiệp : sẽ gom các xí nghiệp gây ô nhiểm về phía Tây Bắc của Quận( tức là khu nhị tì Phú Thọ ) sau khi giải tỏa nhị tì này .

- Khu vực TTCN nên tập và phát triển xung quanh hồ Đầm Sen và trường đua Phú Thọ .

- Khu vực cơ quan Quận và lực lượng vũ trang nên sớm điều chỉnh theo quy định trước đây .

Đề nghị trên sớm có quyết định giải tỏa 2 khu vực nhị tì Quảng Đông và Phú Thọcũng như các khu vực chôn cất trong Quậnra khỏi nội thành .

4/ Quy hoạch về đường sá cống rãnh :

Từ hiện trạng có trên 100 ha bị ngập nước vào mùa mưa , ta phấn đấu xây dựng hệ thống cống rãnh để khắc phục nạn ngập úng này. Đường sá trong Quận 11 hiện rất ít và lầy lội chật hẹp. Cần tích cực để sớm thi công nối liền mở rộng và tu bổ các đường Dương Công Trừng , Ong Ích Khiêm , Lạc Long Quân, Lê Đại Hành. Dự kiến sẽ biến đường lạc Long Quân thành vành đai thứ 2 của Thành phố , nối liền từ đường Hùng Vương sang đường Lý Thường Kiệt để giảm bớt lượng xe xuyên tâm nội thành không cần thiết .

5/ Quy hoạch về công trình công cộng :

Quận 11 trước đây không có nơi nghỉ ngơi công cộng , không có mặt thoáng , cây xanh quá ít , ta sẽ tích cực góp phần xây dựng để hoàn thành công viên văn hoá Đầm Sen, sớm tạo nơi cho thanh thiếu niên và đồng lao động nghỉ ngơi giải trí .

Đồng thời cần có hướng để xây dựng khu vực đồn Cây Mai sau khi bộ đội vhủ lực rút đi làm nhà bảo tồn , bảo tàng và công viên Đài liệt sĩ, xây dựng chùa Gò, chùa Giác Viên . Tương lai sẽ biến nhị tì Quảng Đông thành trung tâm của Quận 11 – thành công viên có cây xanh mặt thoáng lẫn chỗ nghỉ ngơi .

6/ Quy hoạch về các cơ sở phục vụ công cộng khác :

Nhận thấy Thành phố phân chia làm 4 cấp là : Thành , Quận , khu vực và phường để phục vụ cáchàng, chợ búa, trường học , y tế, xã hội là rất thích hợp nên tương lai Quận 11 sẽ xây dựng các cơ sở theo cách phân chia này. Đặc biệt là bố trí đều khắp các phường nhà trẻ và nhà mẫu giáo để tạo điều kiện cho giới phụ nữ tham gia sản xuất.

Đề nghị trên cho thiết lập một bệnh viện đa khoa 200 giường và một trường cấp 3 và hai trường cấp 2 để có nơi cho con em đi học đượcgần hơn .

PHẦN THỨ HAI

NHIỆM VỤ MỤC TIÊU 2 NĂM 1977 – 1978

-----

Quận 11 chúng talà một quận nội thành , có vị trí kinh tế tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp lớn, đông đảo lực lượng lao động có tay nghề giỏi , khả năng sẳn có và tiềm tàng để sản xuất được nhiều mặt hàng phong phú phục vụ nhu cấu đời sống của nhân dân và xuất khẩu . Cơ sở sản xuất nhiều , thiết bị máy móc dồi dào nhưng tuyệt đại bộ phận làm ăn vừa cá thể vừa gia đình có tính chất lẻ tẻ tản mạn . mật độ dân số trong quận còn khá đông gấp 2,5 lần so với mật độ dân số nội thành ) , hơn phân nữa là người Hoa , nhiều tiểu thưởng tiểu chủ thất nghiệp và phi sản xuất . Những đặc điểm chung này cho thấy Quận chúng ta có nhiều thuận lợi nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn , cản ngại trong quá trình cải tạo XHCN và xây dựng CNXH .

Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ chung của Thành phố do Đại hội Đảng bộ lần thứ I đề ra trong kế hoạch 5 năm1976 – 1980 , những nhiệm vụ mục tiêu của Thành phố trong 2 năm 1977 – 1978 như sau :

1/ Tập trung cao lực lượng cải tạo quan hệ sản xuất phi XHCN :

Để:” Hoàn thành việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh “ trong 2 năm 1977 – 1978 như nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố đã nêu Quận chúng ta trước hết Quận chúng ta phải xoá bỏ kinh doanh thương nghiệp tư nhân, chuyển phần lớn tư sản thương nghiệpvà trung tiểu thương sản xuất . Trong năm 1977 TNXHCN nắm trọn khâu bán buôn, 50% khâu bán lẻ , và cuối năm 1978 nắm 70% khâu bán lẻ trên những nàgnh hàng thiết yếu có khả năng chi phối và điều khiển thị trường. Đồng tiến hành cải tạo tư bản hoàn thành trong năm 1978 các ngành kinh tế khác; nhất là phải tập trung cao độ cải tạo ngành tiểu thủ công nghiệp một thành phần kinh tế quan trọng trước mắt và lâu dài của địc phương; sắp xếp và tổ chức lại, nhanh chóng thành lập các HTX sản xuất , tổ sản xuất; các ngành giao thông vận tải , nhà đất , văn hoá , ý tế .. . Vũng tiến hành cải tạo đồng bộ , giáo dục, hướng dẫn đi vào làm ăn tập thể bằng các hình thức phù hợp . Trong quá trình cải tại phải hết sức chú trọng tăng năng xuất, đảm bảo chất lượngsả phẩm , phong phú mặt hàng lương thông phân phối tốt, đáng tiêu chuẩn, kịp thời đáp ứng nhu cầu về đời sống và sản xuất.

2/ Ra sức khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân :

Đẩy mạnh việc nghiên cứu sử dụng nguyên liệu trong nước , phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp quan trọng như : Chế tạo, sửa chữa thiết bị máy móc , dệt da may mặc, chế biến thực phẩm…. Và các ngành kim khí phục vụ nông nghiệp, KTM , các ngành nghề xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 1978 đưa hầu hết năng lực sản xuất trong vào sản xuất vàtăng giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp lên 25 triệu đồng ( tăng 30% mỗi năm ) phải thu hút 7500 lao động .

Thực hiện cho kỳ được việc phân bố lại lực lượng lao động để giải quyết nạn thất nghiệp, giảm mật độ dân số, chuyển phần lớn những người phi sản xuất qua sản xuất . trong 2 năm 1977 – 1978 , ngoài những công trình kinh tế của Thành và tw thu hút khoảng 10.000 lao động , ta phải vận động đi xây dựng vùnh KTM, hồi hương, giảm dân cho được 70.000 người , trước hết đối với thành phần phi sản xuất , trung , tiểu thương, gia đình sĩ quan chế độ cũvà các loại đối tượng khác .

Mặc khác, đẩy mạnh tự túc kinh tế , tận dụng đất đai trồng tĩa chăn nuôi trong cơ quan xí nghiệp và gia đình để cải thiện đời sống và góp phần tăng nguồn lương thực thực phẩm .

3/ Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng văn hoá và xã hội :

trước hết cần phổ biến sâu rộng các Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 4, Đại hội Đảng bộ Thành phố và Đại hội Đảng bộ Quận lần thứ nhất ; phát huy truyền thống cách mạng, tinh thần lao động và những nhân tố bước đầu của nền văn hóa mới, con người mới XHCN tăng cường tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – lê nin và đường lối chính sách của Đảng, dần dần làm cho CN Mác – le nin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đởi sống chính trị và tinh thần của nhân dân .

Nhanh chóng giải quyết dứt điểm nạn mù chũ , tăng cường phát triển bổ túc văn hoá , nội trong năm 1977 phải đưa phong trào bổ túc văn hoá thành một phong trào đều khắp từ trong cán bộ ra ngoài quần chúng đẩy mạnh công tác mẫu giáo và nhà giữ trẻ, kiện toàn tổ chức y tế ở cơ sở, nâng cao các phong trào vệ sinh phòng bệnh phòng dịch , bảo vệ bà mẹ và trẻ em , kế hoạch hoá gia đình. Đến năm 1978 liên hệ giải quyết hết nạn người cùi ở trong Quận và đề nghị từng bước chữa trị các bệnh xã hội, các bệnh truyền nhiễm khác cho nhân dân .

Phát huy tác dụng và tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động văn hoá văn nghệ, TDTT, kiểm tra chặt chẽ sách báo lưu hành , từng bước quét sạch những tàng dư của CN thực dân cũ và mới, những tàng tích của CN phong kiến và tập tục lỗi thời .

Tích cực giải quyết những trường hợp khó khăn trong công tác TBXH , thực hiện đúng chính sách và tạo điều kiện để mọi người đóng góp tích cực vào công cuộc cách mạng hiện nay .

Trong 2 năm 1977 – 1978 phải thanh toán một bước quan trọng các tệ nạn xã hội .

4/ Xây dựng kện toàn chính quyền nhân dân Quận , phường :

Trước hết, qua bầu cử HĐND Quận , phường phải củng cố chính quyền vững mạnh thể hiện cho được là một tổ chức của dân do dân và vì dân phải trong sạch, lành mạnh hoá, khắc phục cho được bệnh quan liêu cửa quyền và tình trạng lắm thủ tục gây phiền hà cho nhân dân. Hết sức chú trọng tăng cường hiệu lực của chính quyền về mọi mặt , nhất là trong lĩnh vực quản ly kinh tế, đời sống xã hội.

Tăng cường công tác tuyên truyền tác động thực hiện đều đặn việc kiểm điểm trước nhân dân của các bộ phận chính quyền để phát huy và mở rộng tinh thần góp ý , phê phán của quần chúng .

Tăng cường lực lượng quân sự địa phương trong 3 thứ quân: địa phương quân, tự vệ và dân quân rộng rãi, mạnh về tổ chức, vững về chính trị, góp phần củng cố quốc phòng toàn dân.

Tích cực củng cố, xây dựng các lực lượng công an, nhất là công an cơ sở, xây dựng và củng cố các ban bảo vệ dân phố, tổ dân phòng. Kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng và bọn tội phạm khác, bài trừ có hiệu uqả các tệ nạn xã hội.

Đẩy mạnh công tác Dân vận – Mặt trận, tăng cường củng cố, bồi dưỡng Ban chấp hành các đoàn thể, giáo dục, nâng chất đoàn viên, hội viên, tạo điều kiện để các đoàn thể làm tốt vai trò nòng cốt, động viên hường dẫn q/c các giới thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước.

5/ Ra sức củng cố xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị. Tư tưởng về tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài:

Phải làm cho toàn Đảng bộ nhận thức quán triệt cho thật sâu sắc tình hình giai đoạn mới của CN và thể hiện bằng tư tưởng lãnh đạo, chỉ đạo đúng bằng biện pháp thực hiện cụ thể. Tăng cường xây dựng củng cố tổ chức Đảng các cấp, tập trung nhất là kiện toàn chi bộ vững mạnh, biết lãnh đạo toàn diện, 4 tốt; đồng thời đặc biệt chú trọng xây dựng và củng cố chi đoàn thanh niên Cộng sản HCM.

Thực hiện tốt tập trung dân chủ, tập thể lãnh d0oạ, cá nhân phụ trách. Phát huy cho được trí tuệ tập thể, chống những biểu hiện cá nhân tuỳ tiện, tách rời tập thể. Xậy dựng tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng bộ. Tinh thận chung sức chung lòng cùng nhau gánh vác trach nhiệm. Mặy khác thực hiện nghiệm túc chế độ tự phê bình và phê bình, kịp thời xử lý những trường hợp suy thoái, đẩy lùi tư tưởng tiểu tư sản và những tàn dư của tư tưởng phong kiến, chống mọi biểu hiện cá nhân cục bộ, tự tư tự lợi…, chống mọi tư tưởng tư sản .

Quan tâm và có kế hoạch phát triển đảng viên chú ý cấp phường và các cơ sở sản xuất, mạnh dạn đề bạt cán bộ thong qua công tác, thông qua các phong trào, nhất là trong công nhân và guới trẻ. Đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử suy thoái không đủ tưcách, cảnh giác đề phòng địch và bọn cơ hội chui vào Đảng.

Tạo điều kiện để cán bộ tham gia học tập tại trường, tại chức ngắn hạn, dái hạn. Đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng đào tạo cán bộ tại ch, thông qua công tác vừa học vừa làm nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay.

Từ những nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể trên, căn cứ vào thực tế của tình hình trong Quận để xá định những công tác chính và biện pháp lớn của Quận 11 chúng ta như sau:

I/ CẢI TẠO QUAN HỆ SẢN XUẤT CŨ, XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT MỚI XHCN, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ỔN ĐỊNH VÀ TỪNG BƯỚC CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN LAO ĐỘNG:

Phương hướng cải tạo và xây dựng kinh tế ở thành phố từ đây đến cuối năm 1980 là: “ Kết hợp chặt chẽ việc khôi phục và phát triển sản xuất với việc cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN. Ra sức phát huy năng lực sản xuất hiệncó của các ngành công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp… , tăng cường lực lượng thương nghiệp quốc doanh và thường nghiệp hợp tác xã, cải tiến công tác quản lý kinh tế, nhằm tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất lớn XHCN; giải quyết căn bản nạn thất nghiệp, tạo đủ công ăn việc làm cho nhân dân lao động, tăng cường sức lao động, tăng tích luỹ cho Nhà nước, ổn định và bước đầu cải thiện đời sống nhân dân.”

Yêu cầu công tác cải tạo của Thành phố phải hoàn thành trước “ năm kết thúc kế hoạch 5 năm ( 2976 –1978 ) để có quan hệ sản xuất XHCN đồng nhất và cơ cấu kinh tế thống nhất cùng cả nước tiến nhanh , tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH “.

Quận là một đơn vị được phân cấp quản lý về mặt kinh tế và tài chánh ở một mức độ theo sự phân cấp của Thành , ta phải phát động quần chúng tham gia đấu tranh cai và xây dựng CNXH nhằm góp phần với Thành phố xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ , xoá bỏ quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản và chủ yếu của Quận là ra sức cải tạo các tàhnh phần tiểu thủ công nghiệp , trung thương, tiểu thương .

Công tác này phải được tiến hành một cách kiên quyết , triệt để và khẩn trương , cần phải quan tâm đến kết quả kinh tế và chính trị của công tác , làm thế nào cho năng xuất tăng lên , mặt hàng phong phú hơn , dời sống của nhân dân lao động được ổn định và từng bước được cải thiện .

1/ Cải tạo và xây dựng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp :

Chủ yếu của Quận chúng ta là sắp xếp , tổ chức lại các ngành TTCN theo con đường HT hoá XHCN với nhiều hình thức thích hợp , đồng thời phối hợp với Thành đưa công nghiệp đi vào quốc doanh và công tư hợp doanh .

Đưa lên HTX sản xuất bằng 2 cách : Một là, từ nhữngcơ sở sản xuất lẻ tẻ , cá thể , đồng ngành nghề có điều kiện đưa thẳng vào HTX ; hai là, từ các tổ sản sản xuất chuyển lên HTX . ta chú trọng đến các ngành quan trọng có điều kiện phát triển của Quận như : cơ khí, dệt da, may mặc, đan thêu, đan mây tre lá , thãm len thãm đay… Nhằm sản xuất các mặt hàng tiêu dùng , phục vụ nông nghiệp và hàng xuất khẩu . Động viên tinh thần tự lực , tận dụng nguyên liệu trong nước và phế thãi .

Đối với những ngành nghề không cần thiết thì vận động chuyển ngành sản xuất ; những ngành chưa cần thiết đưa vào hợp tác hoá thì ta để duy trì tính chất cá thể và khuyến khích phát triển theo hướng dẫn của kế hoạch Nhà nước ; những ngành không cần thiết ở lại Thành phố hoặc gây ô nhiễm trong Thành phố thì chuyển ra ngoại thành hoặc đưa đi vùnh kinh tế mới . Thông qua sắp xếp , tổ chức lại sản xuất, phải quy định khu vực sản xuất cho hợp lý, có thể liên hoàn với nhau theo quy hoạch của Quận .

Hiện nay Quận 11 có 4.500 cơ sở sản xuất TTCN với trên 15.000 lao động , trong đó ta đã xây dựng được 63 tổ sản xuất và 2 HTX thí điểm. Trong 2 năm 1977 – 1978 ,taphấn đấu đạt chỉ tiêu cải tạo cơ bản bằng nhiều hình thức đối với các cơ sở cá thể để hình thành thên 112 tổ sản xuất với 3.552 lao động . Số cơ sở sản xuất còn lại và một số tổ sản xuất ta thành lập 29 hợp tác xã với 6.800 lao động ( riêng 1977 thành lập 12 HTX ) . Như thế tổng số lao động đưa vào tập thể sẽ lên trên 10.352 người , chiếm 68% tổng số lao động thuộc các ngành TTCN trong Quận hiện nay . Đồng thời phấn đấu giá trị sản lượng lên 30% mỗi năm (năm 1978 : 25 triệu đồng )

2/ Cải tạo và xây dựng thương nghiệp:

Phương hướng của Thành đối với ngành thương nghiệp trong 2 năm 1977 – 1978 là “ xoá bỏ về cơ bản thương nghiệp tư bản chủ nghĩa , chuyển TSTN và một số bộ phận tiểu thương sang sản xuất, đồng thời tích cực xây dựng thương nghiệp XHCN nhằm làm cho thương nghiệp XHCN có khả năng chi phối và điều khiển được thị trường .

Chủ yếu Quận 11 tập trung cải tạo trung tiểu thương 3.883 hộ thương nghiệp các loại . Đồng thời phối hợp với Thành khẩn trương cải tạo xoá bỏ TSTN trong Quận nội trong năm 1977 . Cụ thể trong 2 năm 1977 – 1978 phải chuyển từ 50-70% trung tiểu thương và đại bộ phận TSTN sang sản xuất công nông nghiệp , TTCN ở nội ngoại Thành và các vùng KTM . Đối với số tiểu thương còn được được phép tạm thời buôn bán phải đăng ký kinh doanh , tổ chức tập hợp lại dưới các hình thức thích hợp, bán buôn theo quy định của Nhà nướcvà có tổ chức kiểm tra thường xuyên ..

Điều tra cơ bản năm chắc từng chợ để tiến hành cải tạo các chợ bằng cách bủa mạng lưới thương nghiệp quốc doanh và HTX/TT , sắp xếp tổ chức ổn định trật tự các chợ ; kiên quyết dẹp chợ trời trong năm 1977 ( đường Lý Nam Đế và các nơi khác trong quận ); quản lý tốt thị trường nhằm ổn định giá cả hàng hoá .

Khẩn truơng xây dựng mạng lưới thương nghiệp quốc doanh và HTX/TT theo quy hoạch, kế hoạch sản xuất và thế bố trí dân cư trong Quận. Trong hai năm 1977 –1978 , ta củng cố 03 cửa hàng chuyên doanh đã có, phát triển thêm 9 cửa hàng chuyên doanh của Quận và 06 cửa tổng hợp liên phường ( theo địa bàn 6 phường cũ ) ; củng cố hệ thống HTX/TT , phát triển mở rộng 21 HTX/TT phường , tổ chức căn tin ở mỗi cơ quan xí nghiệp; tiến hành tổ chức và quản lý quốc doanh ăn uống và phục vụ trong Quận ; tăng cường tổ chức các bếp ăn tập thể . Phải đảm bảo phân phối hàng hoá đến tay người tiêu dùng , nhất là nhân dân lao động , công bằng hợp lý thuận tiện đúng tiêu chuẩn định lượng và đúng giá .

Năm 1977 đảm bảo phát triển màng lưới thương nghiệp XHCN bán lẽ chiếm 50% thị trường , qua năm 1978 chiếm 70% thị trường và nhằm vào các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân trong Quận .

Tăng cường khâu thu mua những mặt hàng cần thiết và trao đổi hàng hoá theo hợp đồng hai chiều với các địa phương trong phạm vi cấp trên cho phép và có tranh thủ hợp lý .

Qua cải tạo thương nghiệp tư nhân mà làm tho thương nghiệp XHCN chiếm địa vị chi phối và điều khiển được thị trường từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân , thúc đẩy sản xuất và mở rộng phân bố lại lao động xã hội . Hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiêu thụ phải phối hợp chặt chẽ để làm tốt chức năng người nội trợ của nhân dân, chống tư tưởng kinh doanh theo lợi nhuận đơn thuần.

Ngành thương nghiệp và các tổ chức có liên quan , chủ yếu là các đoàn thể , phối hợp vận động đồng bộ các biện pháp như : giáo dục phát động chính trị , định giá mua hợp lý , hợp đồng hai chiều và tăng cường chất lượng đội ngũ quản lý thị trường , quan trọng nhất là tổ chức nghề nghiệp để tham gia làm ăn .

Đưa vào hợp tác các cơ sở trồng rau , chăn nuôi có quy mô khá, nhưng đồng thời cũng phát động phong trào chăn nuôi , trồng tĩa gia đình để cải thiện bữa ăn và tăng nguồn thực phẩm .

3/ Cải tạo và xây dựng đối với một số ngành kinh tế khác :

a)Về giao thông vận tải :

Phải cải tạo sơm các lực lượng vận tải tư nhân,xây dựng nhanh lực lượng vận tải XHCN đối với Quận , hướng cải tạo và xây dựng về GTVT là :

- Phối hợp vớ Thành xóa bỏ quyền chiếm hữu TBCN về các phương tiện kinh doanh vận tải , cải tạo lối làm ăn riêng lẻ tập hợp tổ chức thành HTX hoặc tổ hợp vận tải các loại xe ba bánh, gắn máy và xe thô sơ. Riêng 30 xe vận tải nhẹ do Thành giao sẽ tổ chức lại cho vào công tư hợp doanh.

- Tiến hành tổ chức đưa vào tổ sửa chữahoặc HTX sửa chữa đối với 75 hộ sửa chữa loại vừa . sắp xếp lại các bến bãi các loại xe lam , xe ba gác , xe xích lô máy.

- Tăng cường sửa chữa hệ thống các đường nhỏ trong Quận , riêng các phường tương đối lớn đề nghị sở cho trải nhựa ( như Ong Ích Khiêm, Lạc Long Quân .. ) . Đẩy mạnh tu sửa, nạo vét cống rãnh bảo quản đường sá, chú ý các đoạn đường giao thông chính của thành phố trong phạm vi Quận. Chú ý tu sửa hệ thống đèn điện, nhất là các khu đường hẻm . Phát triển trồng cây xanh trong các đường trong Quận .

Trong năm 1977 hoàn thành cải tạo và xây dựng GTVT, thành lập một xưỡng sửa chữa cơ khí quy mô trung tu .

b) Về nhà đất :

Các lạoi nhà và đất , nhà thờ , chùa chiền , khách sạn đếu theo chích sách chung của Thành phố.

Chủ yều của Quận là tăng cường công tác bảo quản , sửa chữ, quy hoạch bố trí dân cư : Nắm chắc toàn bộ nhà đất trong Quận , từng bước iều chỉnh, bố trí các khu vực cơ quan , cơ sở phúc lợi công cộng , khu vực nhà ở … Tận dụng nhà sẳn có , giải quyết nhà ở cho công nhân lao động chưa có nhà , tiếp tục giải toả cho được các khu nhà ổ chuột trong Quận như : Khu Cầu Ván , Bàu Chuông , Bồn nước, nhị tì Quảng Đông , Dương Công Trừng …Đồng thời phối hợp với Thành xóa bỏ các thành phần tư sản tư doanh nhà đất .

Trong năm 1977, toàn Thành đăng ký kê khai chủ quyền nhà ở của nhân dân ; điều tra cơ bản nắm chắc nhà tư nhân cho thuê và các loại nhà đất khác ; hoàn thành việc điều chỉnh, phân phối nhà làm việc, nhà ở cho cơ quan, cán bộ đúng tiêu chuẩn quy định.

Năm 1978, tuỳ theo trường hợp, tịch thu, hoặc quản lý nhà cho thuê từ 200m2 trở lên và thu trên 800đ/năm ; cải tạo 70% nhà tư nhân cho thuê theo chế độ 3 quản : quản lý tốt, chấp hành tốt, và sửa chữa tốt; điều chỉnh các loại thuế đất , nhà và trước bạ. Hoàn thiện các nhà trẻ, mẫu giáo trong 21 phường . Từng bước giải quyết nhà hộ sinh , bệnh xá và nhà ở cho gia đình thương binh liệt sĩ . Chủ yếu vẫn là sửa chữa , xây dựng mới rất ít .

c) Về xây dựng :

Nhanh chóng hình thành Phòng xây dựngcủa Quận trong năm 1977 với 50 công nhân có kỷ thuật, tay nghề giỏi và có khả năng quản lý . Khẩn trương tiến hành đăng ký kiểm tra nắm chắc danh sách nhà thầu nhỏ trong Quận ; tiến hành cải tạo với hình thức tổ chức HTX xây dựng hoặc tuyển chọn những người tốt, có khả năng vào các đội xây dựng .

Từng bước xây dựng, phát triển 2 phân xưởng sản xuất ống cống và nghề mộc nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng.

Năm 1977 tiến hành sửa chữa 94 căn nhà; năm 1978 trên 360 căn. Kết hợp với nhà đất lên quy hoạch xây 2 công trình : Công viên chùa Gò và Trung tâm sinh hoạt thanh thiếu niêntại sân bắn Bình Thới .

d)Về tài chánh :

Phấn đấu đưa công tác xây dựng dự toán, lập kế hoạch tài vụ của các ban ngành vào nề nếp,nâng cao chất lượng trong công tác quản lý và tổ chức thực hiện dự toán .

Phát huy chức năng kiểm tra , giám đốc tài chánh ; thông qua đó đẩy mạnh mọi hoạt động thu chi ngân sách, chấp hành mọi quy định chế độ tiêu chuẩn và chính sách Nhà nước đã ban hành .

Tuyên truyền sâu rộng chính sách thu trong nhân dân , khai thác triệt để các nguồn thu, góp phần khắc phục những khó khăn về ngân sách

Nắm chắc toàn bộ tài sản trong Quận, đưa công tác quản lý tài sản vào nề nếp nhằm phát huy việc sử dụng tài sản một cách hợp lý, ngăn chặc sự lãng phí , thất thoát làm hư hỏng tài sản. Trong 6 tháng cuối năm 1977 , cố găng tổ chức trong 21 Ban tài chánh phường và đưa 50% số Ban tài chánh phường xây dựng được dự toán và báo cáo quyết toán .

Xây dựng, đào tạo một đội ngũ cán bộ nhân viên đủ năng lực trong công tác quản lý tài chánh và tài sản , đáp ứng được yêu cầu cải tạo và xây dựng trước mắt và lâu dài .

đ) Ngân hàng :

Phát huy vai trò chức năng giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền , tăng cường quản lý tiền tệ trên cơ sở những biện pháp phù hợp với các chính sách cải tạo và phát triển kinh tế địa phương, quản lý tập trung các nguồn vốn , đầu tư cho các ngành sản xuất lưu thông trong địa phương, đặc biệt chú trọng đầu tư vốn vào các ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp . Triển khai tốt và mở rộng màng lưới tín dụng , đẩy mạnh phong trào gởi tiền tiết kiệm trong quần chúng và công nhân viên cán bộ chiến sĩ .

Tổ chức thu nhanh các ngồn tiền mặt vào ngân hàng, đảm bảo chi ra phục vụ cho mọi nhu cầu , nhất là về phát triển sản xuất , đời sống nhân dân ; kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu tiền mặt ,tiền quỹ nhằm tiết kiệm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất . Cố gắng thu bớt tiền trong lưu thông về cuối năm 1977 được 19 triệu và năm 1978 được 21 triệu ( 40 triệu tiền mặt trong 2 năm ).

Tập trung quản lý 100% nguồn vốn của các ngành kinh tế quốc doanh, tập thể và đại bộ phận cá thề có thực hiện hợp đồng với Nhà nước.Tăng cường nguồn vốn tiết kiệm , cố gắng đưa số dư bình quân đầu người từ 6,5đ cuối năm 1976 lên 15đ cuối năm 1977 và 20đ cuối năm 1978.

Trên cơ sở quản lý nguồn vốn tốt, tiến hành cho vay 100% xí nghiệp và đơn vị sản xuất Nhà nước, tập thể; đầu tư vốn thích đáng cho sản xuất tư nhân. Phấn đấu đưa số cho vay một triệu cuối 1976 lên 2 triệu cuối năm 1977 và 2,5 triệu cuối năm 1978 .

Đẩy mạnh áp dụng các hình thức thanh toán để ngân hàng thật sự là trung tâm thanh toán , đưa tỉ lệ thanh toán không dùng tiền mặt từ 55% năm 1976 lên 70% năm 1977 và 80% năm 1978 .

II.- BỐ TRÍ LẠI LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG , TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT NẠN THẤT NGHIỆP , VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO ĐI XÂY DỰNG VÙNG KTM .

Theo phương hướng của Thành phố , “ Công tác bố trí lại lực lượng lao động , giải quyết nạn thất nghiệp chủ yếu bằng khôi phục và phát triển sản xuất , tạo công ăn việc làm và vận động đồng bào đi KTM là vấn đề then chốt trong toàn bộ công tác đời sống của Thành phố “.

Công tác bố trí lại lực lượng lao động và vận động đồng bào đi xây dựng vùngKTM gắn liền với công tác cải tạo và xây dựng CNXH .

Chúng ta cần nhận rõ ý nghĩa quyết định của việc phân bố lại lực lượng lao động và yêu cầu bức bách trong việc giải quyết đời sống và xây dựng lại đất nước sau chiến tranh của vấn đề đi xây dựng vùng kinh tế mới . Phải có nhận thức và nhất trí cao , giáo dục trong Đảng bộ và quần chúng hiểu sâu sắc “ Đây là một cuộc chiến đấu mới biểu thị lòng yêu nước , tinh thần tự lực tự cường của nhân dân ta góp phần xây dựng tổ quốc giàu đẹp .

Trong 2 năm 1977 – 1978 và đến giữa năm 1979 ta vận động đưa đi 70.000 người ( 55.000 đi KTM, 15.000 đi hồi hương, 2.000 TNXP ) gồm những người không có công ăn việc làm , thuộc các tầng lớp phải chuyển sang sản xuất. Riêng năm 1977 đưa đi 16.000 người. Ngoài ra khu vực TTCN , xây dựng của Quận và Thành có thể thu hút thêm 7.500 lao động.

CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ :

1/ Phải tiến hành một cuộc vận động sâu rộng trong quần chúng:

Lấy tuyên truyền giáo dục là chủ yếu, kết hợp với biện pháp chính quyền và đoàn thể làm cho người đi người ơ thấy được trách nhiệm của mình , nhằm thực hiện cho kỳ được sự phân công lao động mới, bố trí lại dân cư cho hợp lý.

Công tác phân loại và xét duyệt phải hoàn thành trong cuối quý 2/1977. Diện đi, diện ở phải được nhân dân thảo luận bình nghị theo sự hướng dẫn về tiêu chuẩn. Phải đưa đi khoảng 1.000 hộ sĩ quan chế độ cũ, và cố gắng đưa đi cho dứt điểm số tiểu thương, tiểu thủ thuộc các ngành nghề cần đến nguyện liệu ở vùng kinh tế mới và ngành nghề không có yêu cầu xây dựng Thành phố . Đặc biệt tập trung vận động đồng bào Hoa và kiên quyết không để tình trạng một số đồng bào ở 2 vùng , vừa ở rẩy vừa ở Thành phố .

Ngoài Ban vận động KTM ra , Quận thành lập Hội đồng nghĩa vụ KTM để chỉ đạo thực hiện và 6 đội phát động gồm 120 người, phụ trách 6 khu vực phường cũ .

2/ Công tác xây dựng :

Theo kế hoạch của Thành, mỗi Quận phải xây dựng một công trường thủ công gồm lực lượng dân quân tự vệ , TNXP và số người còn sức lao động trong số gia đình định đi . Lực lượng này sẽ được tổ chức quân sự hoá và Nhà nước sẽ đài thọ theo một chế độ thích hợp . ban chỉ huy công trường sẽ lấy lực lượng quân sự làm nồng cốt kết hợp với cán bộ các ngành , các đoàn thể .

Quận tiếp tục hợp đồng xây dựng cơ bản, đảm bảo đủ số dân của Quận đưa đi. Trong hai năm hoàn tất 10 xã, riêng quý II và quý III năm 1977 làm hai xã gốm 2.000 nhà chứa 10.000 dân đưa đi trong quý IV năm 1977.

Xáx định cho được số thanh niên phi lao động trong Quận đi làm nghĩa vụ xây dựng cho Hội đồng nghĩa vụ KTM huy động, Quận đội chiu trách nhiệm tổ chức, quản lý và chỉ huy xây dựng. Bổ sung cán bộ Ban chỉ huy (10 đồng chí), tăng cường 1.000 TNXP và 100 thợ xây cất. Tận dụng đội cơ giới với 4 máy D7 do Thành cung cấp cùng với dụng cụ quy mô , đồng thời đề nghị Thành cho phép Quận huy động phương tiện và vốn liếng phục vụ cho công trường KTM bằng cách thuê hợp đồng có thời hạn. Đề nghị nghiên cứu tăng mức quy định giá thành mỗi căn nhà từ 500đ đến 600đ.

Mặt khác tổ chức khung cán bộ ở cơ sở cùng với đồng bào để xây dựng bộ máy quản lý xã ấp KTM theo tỷ lệ tương xứng với số đồng bào được đưa đi ở từng phường (kể cả cán bộ đảng viên…)

3/Thực hiện tốt chính sách:

Đối với các xã đã hình thành trước đây, tuỳ khả năng được Thành cho phép, Quận sẽ phối hợp với các tỉnh bạn giúp cho đồng bào Quận 11 ở các xã trong KTM nhưHoà Bình, Hoà Hiệp, An Linh, Bù Lăng, Bạc Liêu… giải quyết những khó khăn về nước uống , lương thực, thực phẩm, thuốc trị bệnh, công cụ sản xuất, giống má… góp phần chăm lo đời sống đồng bào, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát động tại Quận.

Phải thực hiện đúng mọi chính sách của Thành đối với đồng bào được đưa đi xây dựng vùng KTM cả về đời sống tinh thần và vật chất, cho phép được bánnhà thuộc quyền sở hữ hợp pháp, tăng thêm chi phí xây dựng nhà ở và đảm bảo cung cấp lương thực, nhu yếu phẩm cho đồng bào, cho đến khi nào chuyển cho các ỷinh đản nhận …. Khuyến khích tiểu thương, tiểu chủ, từng cá nhân hoặc tổ hợp đem vốn liếng, phương tiện góp phần xây dựng vùng KTM. Nhà nước sẽ giúp đỡ đất đai để họ sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi hoặc giúp đỡ xây dựng nhà máy chế biến, làm các nghề thủ công…..

Ngoài chính sách chung, đối với đồng bào thiên chúa giáo và đồng bào Hoa có chiếu cố đặc điểm tín ngưỡng và dân tộc: giúp họ ở chung từng ấp hoặc liên ấp sau khi ổn định chỗ ăn ở, nếu đồng bào Thiên chúa giáo yêu cầu, chính quyền địa phương cho phép xây dựng nhà thờ và rước linh mục đến làm lễ.

III. ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VĂN HOÁ :

Trên cơ sở nắm vững tình hình, đặc điểm của Quận 11 về lực lượng công nhân lao động, về dân tộc và tôn giáo kết hợp với yêu cầu của Thành, công tác tư tưởng văn hoá của Quận trong hai năm tới phải đi sâu phát huy tinh thần yêu nước, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng XHCN tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân lao dộng, chống tư tưởng bóc lột, ăn bám, làm ăn cá thể của hệ tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, từng bước quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng văn hoá thực dân mới, nhằm giải quyết những ý nghĩ tâm sự nguyện vọng của mỗi giai cấp, mỗi từng lớp quần chúng nhân dân.

1/ Về tuyên truyền phát động:

Nội dung tuyên truyền chủ yếu là phổ biến sâu rộng trong nhân dân các Nghị quyết Đại hội đảng các cấp và những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin làm cho quần chúng nhân dân hiểu được, nắm được phương hướng nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch năm năm của cả nước và kế hoạch hai năm của thành phố và Quận 11.

Rận dụng mọi hình thức tuyên truyền, đặc biệt hết sức đi sâu tuyên truềyn miệng trong các cuộc sinh hoạt đoàn thể, tỏ dân phố, xí nghiệp, trường học của cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể, hệ thống báo cáo viên, phát huy kết quả của các tổ đọc báo, xây dựng tổ nghe đài, xem truyền hình, phát động phong trào và làm theo báo Đảng.xây dựng đều khắp các phòng đọcsách, đọc báo, lập tủ sách và đưa thành sinh hoạt thường xuyên …. Phối hợp với Thành cải tạo ngành in, các nhà sách tư nhân.

2/ Về công tác giáo dục:

Chủ yếu của Quận là cải tạo và quản lý ngành mẫu giáo, hệ thống trường cấp 1, phối hợp với thànhcải tạo và quản lý hệ thống trường cấp 2,3 , chú ý xây dựng trường ở vùng KTM. Củng cố và cải tiếncác lớp mẫu giáo đã có, xây dựng nhà mẫu giáo dân lập Phường với trang thiết bị đầy đủ có sự bảo trợquản lý của Nhà nước.

Tiếp tục hoàn thành xoá nạn mù chữ, chuyển trọng tâm sang bổ túc văn hoá, tổ chức hệ thống trường lớp và bố trí thời gian, chương trình phù hợp nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho cán bộ, công nhân viên Nhà nước và nhân dân. Phấn đáu đến giữa năm 1979 toàn bộ Quận có trình độ phổ cập lớp 3, cán bộ công nhân viêncò trình độ hết cấp 1 (sơ cấp), cấp 2 trở lên đối với trung cấp.

Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng ở trường học, xây dựng Công đoàn giáo dục, Đoàn thanh niên Cộng sản và Đội thiếu niên Tiền phong tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý trường học. Tăng cường giáo dục đội ngũ giáo viên về chính trị , tư tưởng và trình độ chuyên môn , quản lý chặt nội dung giảng dạy, nghiêm cấp giảng dạy giáo lý trong nhà trường.

3/ Về văn hoá văn nghệ:

phát động mạnh mẽ và không ngừng phong trào văn nghệ quần chúng, phong trào văn hoá mới, con người mới, dựa vào các đoànt thể làm nồng cốt quét sạch tàn dư văn hoá và văn nghệ nô dịch ngoại lai, tư sản, phong kiến thực dân cũ và mới.

Giáo dục cải tạo về lối sống, cách ăn mặc, đầu tóc … của chế độ cũ để lại, cải tạo các đội kèn trống, trống,văn nghệ do tư sản nắm và lủng đoạn. Xây dựng qua điểm phục vụ quần chúng, phát huy người tốt việc tốt, xây dựng sân chơi, trung tâm sinh hoạt thanh thiếu niên; chú ý phát triển công tác bảo tồn, bảo tàng.

4/ Về y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em:

Đối với Quận, chúng ta cấn chú ý đến các khu vực nhân dân lao động nghèo khổ, tập trung đông đảo, nhiều ô nhiễm và phát huy phòng chống dịch vừa qua.

Phát động phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi thi đua XHCN về vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch, thực hiện ba sạch (ăn sạch, ở sạch, uống chín); đẩy mạnh phong trào kế hoạch hoá gia đình, sinh đẻ có kế hoạch, phong trào bảo vệ bà mẹ trẻ em. Tăng cường mạng lưới y tế ở cơ sở, đẩy mạnh hoạt động y tế lưu động, thường xuyên kiểm tra vệ sinh lưong thực, thực phẩm.Củng cố tăng cường phòng khám, tủ thuốc dân lập, hệ thống cấp thuốc, nhà hộ sinh…… nhằm phục vụ tốt cho nhân dân; chống nạn ăn cắp thuốc, đưa ra chợ đen. Phát động phong trào trồng và dùng cây thuốc nam, phát triển trị bệnh đông tây y phối hợp.Chú ý giáo dục để sử dụng đúng đắn y bác sĩ nhân viên có kỹ thuật nghiệp vụ của chế độ cũ, đưa y tế tư vào chế độ quản lý của nhà nước.

Đặc biệt quan tâm vấn đề nhà trẻ, dành nơi tốt nhất cho thế hệ tương lai,củng cố và xây dựng tốt cho hai nhà trẻ cũ, phải phát triển thêm mỗi phường từ 1 đến 3 nhà trẻhợp qui cách nhằm phục vụ cho cán bộ công nhân viên và nhân dân lao động.

Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao, chủ yếu là thể dục đều khắp trở thành phong trào có nề nếp của quần chúng. Cải tạo nhanh và triệt để các đội thể dục thể thao tưnhân, đẩy lùi các thứ tệ nạn trong thể dục thể thao cũ, loại bỏ mối quan hệ không hợp lý trong thể dục thể thao của Quận. Xây dựng các đội thể thao trẻ, khoẻ có phong cách XHCN, thiết thực phục vụ thanh thiếu niên và công nhân lao động.

5/ Công tác thương binh xã hội:

Nhanh chóng hoàn thành công tác xác nhận thương binh, công nhận gia đình liệt sĩ, gia đình cách mạng và có công với cách mạng, thi hành đúng chính sách của Nhà nước, không để sót và tạo điều kiện động viên các gia đình trên tích cực tham gia xây dựng đất nước.

Phát động phong trào đoàn kết tương trợ, chú ý các gia đình nghèo tàn tật , neo đơn, thực hiện tốt chính sách về hưu.

Giải quyết cơ bản tệ nạn XH: xì ke, ma tuý, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, cướp giật,trộm cắp vv… Phòng thương binh xã hội, phòng y tế phối hợp với các đoàn thể và lực lượng công an, quân sự tập trung giải quyết chữa trị. Cần phân biệt trong xử lý cải tạo: số đầu sỏ, chủ chứa, chuyên nghiệp phải cải tạo tập trung, số nhẹ cải tạo tại chỗ, chủ yếu là tạo công ăn việc làm cho họ.

IV. CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP , ĐẢM BẢO PHÁT HUYQUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG:

1/ Tăng cường củng cố xây dựng bộ máy chính quyền thực sự của dân, do dân, vì dân:

Chính quyền các cấp Quận là cấp hành chánh đầy đủ và được phân công một phần quản lý kinh tế và tài chánh. Do đó, Đảng ta phải lựa chọn cán bộcó nhiệt tình cách mạng , có kiến thức quản lý để tăng cường bộ máy chính quyền. Cần xác định rõ chính quyền ta chăm sóc mọi mặt đời sống quần chúng. Từ đó tổ chức chính quyền phải thật tinh giản; lề lối làm việc phỉa gọn gàng, khoa học, cố gắng giảm những giấy tờ phiền phức, đi sâu sát, quan hệ mật thiết với nhân dân, hiểu được tâm tư nguyện vọng, khó khăncủa nhân dân (Cấp Quận dành 1/3 thới gian xuống cơ sở).

Song song với quan điểm phục vụ đời sống, chính quyền ta phải quán triệt quan điểm phục vụ cho sản xuất.

Chính quyền thường xuyên sinh hoạt rút kinh nghiệm trong công tác và giữ vững chế độ báo cáo tự kiểm trước dân, động viên sự đóng góp xây dựng của nhân dân đố với chính quyền, tạo nề nếp sinh hoạt đóng góp xây dựng đoàn kết, giải quyết các vấn đề nội bộ nhân dân. Định kỳ Đại hội tổ dân phố toàn Quận để tổng kếtcông tác quản lý của chính quyền .

Phải có chế độ khen thưởng và kỷ luật kịp thời đối với cán bộ nhân viên chính quyền có công hay vi phạmsai lầm . Tích cực thực hiện tốt nghị quyết 228 của Bộ Chính trị về bảo vệ tài sản XHCN và Thông tư 159 của Thủ Tướng Chính Phủ về vấn đề “ Chống bệnh quan liêu giấy tờ, của quyền , giảm bớt phiền hà cho nhân dân trong công tác quần chúng và phục vụ của các cơ quan Nhà nước “.

2/ Củng cố và tăng cường các lực lượng quân sự, Công an , các cơ quan, Viện kiểm sát, Toà án, Thanh tra pháp chế ngày càng vững mạnh :

a)Quân sự :

- Tiếp tục phát triển củng cố xây dựng Đại đội địa phương và cơ quan qua7n sự đủ số lượng mạnh về tổ chức , luôn luôn giáo dục vững về mặt chính trị, rèn luyện tốt về chiến kỹ thuật nhằm đảm bảo hoàn thành tốt chức năng công tác quân sự địa phương. Đồng thời xây dựng giáo dục tốt trách nhiệm quân sự phải làm nhiệm vụ kinh tế, phải tham gia vận động đồng bào và làm nồng cốt xây dựng vùng KTM, quán triệt sản xuất tự túc lương thực theo Nghị quyết của Thành phố .

- Phối hợp với Công an, ban ngành đoàn thể làm tốt công tác giữ gìn trật tự trị an xã hội trong quận . Xây dựng ý thức quân sự hoá cho lực lượng tự vệ để củng cố quốc phòng toàn dântrong giai đoạn cách mạng mới.

- Làm tốt công tác nghĩa vụ quân sự, cùng với Uỷ ban , ban ngành đoàn thể, thực hiện tốt chính sách thương binh, liệt sĩ và hậu phương gia đìng quân đội.

b)Công an :

- Lực lượng Công an phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng chính quyền và nhân dân , liên tục đấu tranh trấn áp nhằm làm thất bại và loại trừ âm mưu hành động phá hoại của bọn phản cách mạng , đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất, những hoạt động phạm pháp hình sự trước mắt phải tích cực chặn đứng những trọng án cướp giật, giết người làm cho tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội ngày càng ổn định .

- Phải hết sức tôn trọng và bảo vệ nhân dân lao động, quan hệ mật thiết với quần chúng dựa vào quần chúng và quan hệ chặt chẽ với các lực lượng bạn mà thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình . Cụ thể trong hai năm tới :

- Tiếp tục đẩy mạnh phong trào quần chúng “ bảo vệ an ninh tổ quốc “ phấn đấu tới năm 1977 mỗi phường có một tổ dân phố giữ lá cờ đầu trong phong trào. Đến cuối năm 1978 có từ 30 – 35% đơn vị phường và cơ quan xí nhgiệp trở trành đơn vị khá (1977 có từ 20 – 25 đơn vị khá ) . Tổ chức xong các Ban bảo vệ dân phố theo khu vực, đồng thời củng cố các đội dân phòng .

- Điều tra nắm chắc tình hình các loại đối tượng và các tổ chức phản động để có biện pháp trấn áp, giáo dục cải tạo, tổ chức bảo vệ cơ quan xí nghiệp trong sạch vững mạnh . Cuối năm 1977 có 35% đơn vị bảo vệ đạt tiêu chuẩn an toàn, đến năm 1978 có 50% đơn vị bảo vệ tốt, ngoài ra bảo vệ công trình kiến thiết các kho tàng và phòng chống các hoạt động tình báo , các phái đoàn nước ngoài đến thăm quận 11 .

- Bảo vệ tốt trật tự an toàn xã hội : chỉ tiêu giảm trọng án 40% , giảm tai nạn lưu thông 60%, giảm cháy 40%, cảnh sát khu vực nắm chắc tình hình chuyển biến hàng ngày về nhân khẩu đạt yêu cầu “ bốn thông thuộc “ phối hợp công tác chặt chẽ với các đoàn thể quần chúng.

- Xây dựng lực lượng công an lớn mạnh về số lượng và chất lượng, phát triển đếu, cân đối giữa các mặt công tác, tuyển đủ biên chế năm 1977 – 1978, thanh lọc những nhân viên không đủ tiêuchuẩn làm rõ và có xử lý kỹ luật thích đáng những cán bộ chiến sĩ công an vi phạm quyền làm chủ tập của nhân dân và những vi phạm khác .

- Tổ chức giáo dục toàn thể cán bộ chiến sĩ và kế hoạch đào tạo lâu dài, đảm bảo lên được kực lượng dự trữ thay thế khi cần thiết pở mỗi đơn vị và thực hiện tốt chính sách chế độ đối với cán bộ chiến sĩ.

c)Các ngành kiểm sát, toà án, thanh tra pháp chế:

Tổ chức học tập trong nội bộ và ngoài nhân dân thông suốt pháp chế XHCN, tăng cường và củng cố các cơ quan kiểm sát, toà án, thanh tra để phát huy sức mạnh và hiệu lực pháp chế XHCN, giải quyết kịp thời những vi phạm pháp luật Nhà nước và các vi phạm về quyền tự do, dân chủ, về quyền lợi của XH và nhân dân hết sức coi trọng tổ chức thanh tra nhân dân, tư pháp nhân dân. Phải chú ý dựa vào dân để thực hiện công tác này.

Viện kiểm sát và thanh tra nghiên cứu và giải quyết mọi khiếu nại của nhân dân kiệp thời và rõ ràng. Thường xuyên kiểm tra chế độ bắt giam giữ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng chính sách.

Tổ chức bầu cử tốt toà án nhân dân và Hội thẩm nhân dân năm 1977, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống tổ chức các ban tư pháp phường, mỗi tổ dân phố có một tổ hoà giải 3-7 tổ viên. Đến cuối quý I năm 1978 tổ chức các tổ hoà giải ở xí nghiệp và hợp tác xã, năm 1978 tiếp tục củng cố hội thẩm nhân dân Quận và Phường. Chú ý khâu tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ.

V. PHÁT HUY VAI TRÒ CÁC ĐOÀN THỂ, ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG SÔI NỔI, SÂU RỘNG VÀ LIÊN TỤC CỦA CÁC TẦNG LỚP QUẦN CHÚNG:

Trong giai đoạn cách mạng mới nhiệm vụ của công tác dân vận và mặt trận là giáo dục, động viên, tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, đẩy mạng XHCN và xây dựng CNXH. Các đoàn thể phải thể hiện cho được vai trò nồng cốt và xung kích, là gạch nối giữ Đảng và quần chúng, và là chỗ dựa vững chắc của chính quyền cách mạng. Thông qua hoạt động của các đoàn thể phát huy cao độ quyền làm chủ tập thể của nhân dân, trước hết là công nhân và nhân dân lao động , phát động phong trào mạnh mẽ của quần chúng, trung tâm là phong trào lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng CNXH , xây dựng nền văn hoá mới, con người mới.

Quận chúng ta có đông đảo công nhân lao động, nhiều tôn giáo mà đa số là tín đồ thiêng chúa giáo di cư . Riêng đồng bào Hoa chiếm hơn 50% dân số , trong đó có trên 20.000 là Hoa Nùng , sống tập trung ở nhiều khu vực trong Quận. Trong công tác dân vận , Mặt trận phải hết sức quan tâm đặc điểm của từng bộ phận quần chúng để phát huy cao những mặt tích cực và đấu tranh chống lại những mặt tiêu cực.

1/ Công đoàn :

Đảng bộ ta cần ra sức chăm sóc đội ngũ công nhân tạo điều kiện cho giai cấp công nhân làm chủ XN, nhà máy, phát huy sáng kiến , cải tiến kỹ thuận, tham gia tích cực có hiệu quả vào công việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội và mọi công tác chung của địa phương để giai cấp công nhân làm tròn vai trò tiền phong lãnh đạo cách mạng.

Công đoàn Quận có nhiệm vụ đẩy mạnh giáo dục sâu rộng CN MLN , lập trường quan điểm vô sản tư tưởng XHCN, ý thức làm chủ tập thể tinh thần tự lực tự cường, tinh thần tổ chức kỹ luật và thái độ lao động mới cho công nhân. Bồi dưỡng nâng cao về trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, giáo dục công dân mới giải phóng thành công nhân XHCN để phát huy khả năng, kinh nghiệm của họ.Phấn đấu đến cuối năm 1978 có 10% công nhân tham gia các khóa bổ túc kỹ thuật .

Phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân trong tổ chức phân phối. Đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sôi nổi, tăng năng xuất, hoàn thành vuợt mức kế hoạch, tham gia quản lý XN, kiểm tra quá trình sản xuất sử dụng nguyên nhiên vật liệu, phân phối hàng hoá … và tổ chức đời sống sinh hoạt học tập tổ chức đều đặn và có quy định Đại hội Công đoàn cơ sở, nhất là ở các XN, đến cuối năm 1978 phải trở thành sinh hoạt bình thường đều đặn . Thường xuyên tổ chức Đại hội tổng kết thi đua, tổng kết sáng kiến để phát động và động viên phong trào công nhân trong Quận.

Đặc biệt trong công tác cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cải tạo TTCN, phải giáo dục công nhân mạnh dạng đấu tranh với những tiêu cực của chủ , ngăn chặn tình trạng sợ sệt ngán ngại , đồng tình với chủ trốn tránh hoặc chống lại chủ trương của Nhà nước .

Tăng cường chăm lo đời sống cônh nhân viên chức , đảm bảo quyền lợi chính đáng về bảo hộ lao động, về bảo hiểm xã hội, về chính sách tiền lương, từng bước cải thiện điều kiện ăn ở , học tập, nghỉ ngơi , phúc lợi tập thể, vui chơi giải trí. Phối hợp với Y tế và Hội phụ nữđẩy mạnh công tác nữ công . Phấn đấu đến năm 1978 có 60% nhà ăn tập thể đạt tiêu chuẩn 3 tốt , chú ý giải quyết một số trường hợp nhà ở cho công nhân .

Xây dựng củng cố tổ chức Công đoàn Quận , Công đoàn cơ sở lớn mạnh về số lượng và chất lượng, trọng tâm là công đoàn ở các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và tư doanh . Phát triển tổ chức công đoàn trong những cơ sở sản xuất có đông công nhân, những tổ hợp sản xuất, những HTX sản xuất mới thành lập… Đẩy mạnh tổ chức công đoàn ngành để thu hút và quản lý công nhân ngoài xí nghiệp. Trong hai năm 1977 – 1978 củng cố công đoàn cơ sở thật sự vững mạnh và tập hợp 90% cônh nhân vào tổ chức công đoàn , phát triển số lượng đoàn viên công đoàn lên 70% tổng số công nhân viên chức . Chú ý, phát triển đoàn viên công đoàn trong công nhân người Hoa, trong phong trào thi đua lao động .

2) Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh , Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh :

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội xungkích trong tất cả mọi công tác của Đảng và Nhà nước. Đoàn phải xây dựng củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là cánh tay đắc lực, đội hậu bị tin cậy của Đảng, thể hiện đúng là trường học cộng sản chủ nghĩa của tuổi trẻ.

Thanh niên Quận ta chiếm hơn 1/4 dân số . Hai năm qua đã có nhiều đóng góptrong công cuộc cải tạo XHCNvà xây dựng CNXH. Phát huy những thành tích đã đạt được, tăng cường giáo dục thanh niên về nhân sinh quan cách mạng, về ký tưởng Cộng sản, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, “sống chiến đấu lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” … thong qua thực tế công tác giáo dục rèn luy6ẹn thanh niên hiểu sâu sắc về quan điểm cơ bản như lao động, tinh thần phục vụ nhân dân, quyền làm chủ tập thể, nếp sống văn minh, có tổ chức, có kỹ luật, biết khắc phục khó khăn vượt qua trở ngại. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh phong trào thanh niên trong xí nghiệp, ở phường, tổ, trong trường học thi đua hành động cách mạng, hăng hái đảm nhận những nhiệm vụ khó khăn, sẵn sàng “đi bất cứ nơi đâu Tổ quốc cần”. Trọng tâm của phong trào là lao động sản xuất, lao động tình nguyện, xây dựng và bảo vệ đất nước, giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Đồng thời phát động phong trào văn thể mỹ, xây dựng nếp sống mới, con người mới, phong trào học sinh tiên tiến, xây dựng cho được tinh thần thanh niên tiến quân vào lao động sản xuất, tiến quân vào khoa học kỹ thuật.

Xây dựng củng cố tổ chức Đoàn vững mạnh, nhất là chi đoàn cơ sở phải bám sát quần chúng, biết tự động công tác.Tăng cường công tác tổ chức, phát triển Đoàn trong các xí nghiệp, trường học trong giới đồng bào Hoa, đồng bào trong các tôn giáo. Cần quan tâm bồi dưỡng cán bộ đoànvề khả năng công tác để đáp ứng yêu cầu ngáy càng lớn, mạnh dạn phát triển đề bạt cán bộ thực hiện đúng chức năng vai trò đội hậu bị tin cậy của Đảng. Trong hai năm 1977 – 1978 phải tập hợp cho được 80% thanh niên vào các tổ chức do Đoàn, Hội, làm nồng cốt, chú ý tập hợp đông đảo thanh niên người Hoa, thanh niên các tôn giáo, nhất là thanh niên Thiên chúa giáo, thanh niên thợ thủ công sản xuất cá thể, gia đình. Phát triển thêm 1.500 đoàn viên thanh niên Cộng sản với đây đủ chuẩn chất và tổ chức đầy đủ chi đoàn trong xí nghiệp, trường học vững mạnh.

Tăng cường công tác đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và đội nhi đồng Hồ Chí Minh. Giáo dục tốt 5 điều Bác Hồ dạy và động viên thiếu niên tham gia mọi mặt công tác theo khả năng. Quan tâm giáo dục các cháu từ vật chất đến tinh thần. Trong hai năm phát triển cho được 25.000 đội viên và triển khai tổ chức đội rộng khắp.

3) Hội Liên hiệp Phụ nữ:

Theo Nghị quyết của Thành ủy: “cần giáo dục các tầng lớp phụ nữ về vai trò trách nhiệm của người phụ nữ đối với Tổ quốc, xã hội và gia đình, vai trò và trách nhiệm của phụ nữ trong đấu tranh cải tạo XHCN và xây dựng CNXH, trong xây dựng gia đình văn hoá mới, nâng cao ý thức làm chủ tập thể, thực hiện nam nữ bình đẳng”. Đẩy mạnh vai trò của phụ nữ trong mọi hoạt động XH, phát động phong trao phụ nữ thực hiện khẩu hiệu “giỏi việc nước đảm việc nhà”, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào các công việc XH. Phát huy khả năng của phụ nữ trong lao động sản xuất, trong các tổ chức phân phối lương thực, thực phẩm và nhất là trong cải tạo tiểu thương tiểu thủ. Phát huy vai trò phụ nữ trong trong việc kiểm tra giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, xây dựng chính quyền, trong việc cải tạo các tệ nạn xã hội và làm nồng cốt trong các hợp tác xã tiêu thụ, phát triển chăn nuôi cải thiện bữa ăn gia đình.

Vai trò chị em trong các hoạt động văn hóa XH rất lớn, vừa có tác dụng đối với XH vừa có ảnh hưởng lớn trong gia đình. Đẩy mạnh cho được phong trào xây dựng gia đình văn hóa mới, sing đẻ có kế hoạch, phong trào nuôi con khoẻ dạy con ngoan, tạo cho được một sinh khí mới trong từng gia đình, chuyển biến thực sự với kết quả cụ thể. Nhanh chóng tổ chức ít nhất mỗi phường một nhà trẻ với những điều kiện phương tiện tối thiểu đảm bảo chăm sóc đầy đủ sứ khỏe cho các cháu. Đồng thời phối hợp với phòng Giáo dục, phát triển các trường mẫu giáo, phối hợp với phòng Y tế kiện toàn tổ chức “Hội Bảo vệ bà mẹ và trẻ em”triển khai hoạt động sâu rộng trong nhân dân.

Củng cố kiện toàntổ chức từ tổ hội đến quận hội thật vững mạnh về tổ chức và năng lực công tác. Triển khai tổ chức Hội trong mọi khu vực, chú ý người Hoa, các tôn giáo và sinh hoạt đều đặn. Thường xuyên tổ chức học tập bồi dưỡng cán bộ Hội các cấp, kiểm tra chất lượng hội viên, mạnh dạng đào tạo cán bộ phụ nữ xuất thân từ các phong trào. Phấn đấu trong hai năm 1977 – 1978 phát triển hội lên gấp hai và tập hợp trên 80% phụ nữ vào các tổ chức do Hội làm nồng cốt.

4) Công tác Mặt trận:

Mặt trận có nhiệm vụ đoàn kết các tầng lớp quần chúng trên cơ sở khối liên minh công nông vững chắc, làm thành một lhối thống nhất ý chí hành động.

Đối với trí thức cũ, cần quan tâm giáo dục để các anh chị nhanh chóng trở thành người trí thức XHCN, ích cựcphát huy khả năng trong mọi hoạt động kinh tế, văn hoá, Xh, khoa học kỹ thuật.

Đối với tôn giáo: cầb làm cho đồng bào các tôn giáo hiểu rõ chính sách đại đoàn kết của Đảng và Mặt trận là: “đoàn kết tất cả những người yên nước và tiến bộ trong các tôn giáo , đoàn kết đồng bào có đạo và không có đạo để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước , xây dựng cụôc sống ấm no hạnh phúc”. Nhưng đồng thời ta cũng kiên quyết kịp thời chống lại những hoạt động lợi dụng tôn giáo làm hại đến lợi ích chung của đất nước, dân tộc, phân hoá và cô lập những tên phản động đội lốt tôn giáo để quần chúng tôn giáo khỏi bị tác động xấu và mạnh dạng đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc cụa chúng. Tăng cường vận động quần chúng tôn giáo tham gia hoạt động các Hội , Đoàn, tránh định kiến không đúng để họ thấy rõ chính sách của ta và đặc biệt chú ý gở những mặc cảm tị hiềm của họ nhất là đối với đồng bào Thiên chúa giáo di cư.

Đồng bào Hoa ở Quận ta đông, cần làm cho họ chính sách của Đảng và Nhà nước ta: quyền lợi, nghĩa vụ của người Hoa cũng như quyền lợi nghĩa vụ của người Việt. Đồng thời nghiên cứu sâu những đặc điểm của người Hoa để phát huy mặt tích cực trong công cuộc cách mạnghiên nay. Cần giáo dục để người Hoa tách khỏi những ảnh hưởng chủ thợ cũ, ảnh hưởng của phong tục tập quán lỗi thời và tinh thần đồng tộc, đồng bang, tinh thần dân tộc hẹp hòi, tâm lý làm khách. Động viên họ mạnh dạng d8ấu tranh chống mặt xấu, mặt tiêu cực của giới chủ, của gai cấp tư sản, và các thành phần phi sản xuất làm ăn không chính đáng.

Đặc biệt Quận ta có khoảng 20.000 Hoa Nùng cần quan tâm giáo dục nâng giác ngộ để họ hoà mình với cuộc sống của nhân dân lao động và tích cực xây dựng cuộc sống mới, con người mới, xã hội mới.

Tăng cường sự lãng đạo đới với công tác dân vận và mặt trận. Đảng bộ chúng ta quan tâm chăm sóc đoàn thể hơn nữa. Cần tăng cường cán bộ, củng cố tổ chức tạo điều kiện để các đoàn thể thực hiện tốt vai trò chức năng nhiệm vụcủa mình. Riêng đối với Mặt trận cần kiệt toàn Mặt trận Quận vững mạnh và triển khai tổ chức mặt trận phường với sự phân công cán bộ hợp ký, đảm bảo công tác.

VI. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ CẢI TIẾN LỀ LỐI LÀM VIỆC:

Hai năm tới Đảng bộ ta cần tập trung vào các khâu công tác: công tác chính trị tư tưởng, công tác tổ cức, quản lý đào tạo bồi dưỡng cán bộ, phát triển Đảng viên, trong đó vấn đề tổ Đảng, chi bộ, vấn đề cán bộ và tổ chức thực hiên là những vấn đề cần được quan tâm hơn cả.

1)Công tác chính trị tư tưởng:

a)Về nhận thức tư tưởng:

Phải làm cho thể cán bộ đảng viên trong Đảng bộ nhận thức sâu sắc về tình hình nhiệm vụ mới, nhận thức đúng đắn về giai cấp, về đối tượng cải tạo trong giai đoạn cách mạng XHCN. Đánh giá đúng tình hình hiện nay, thấy cho hết những thuận lợi, khò khăn mà thuận lợi là cơ bản. Giải quyết ngay trong bản thân từng đảng viên những vấn đề về quyền lợi các nhân, gia đình với quyền lợi chung của XH, của gai cấp trong tời kỳ quá độ tiến lên CNXH.

Trước hết là kết hợp học tập Nghị quyết caccấp, tiến hành chỉnh huấn trong toàn Đảng bộ để toàn Đảng bộ nhất trí cao với phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu đã vạch ra, biến sự nhất trí này thành hành động tích cực cụ thể trong cải tạo XHCN và xây dựng CNXH. Cán bộ đảng viên phải là những người đi đầu, gương mẫu trong mọi công tác, trong mọi phong trào để hướng dẫn, động viên quần chúng phát huy khả năng, sôi nồi hành động cách mạng, dựa vào phong troà quần chúng lên thành cao trào. Đây là cuộc chỉnh huấn có tầm quan trọng hết sức sâu sắc về nhận thức tư tưởng, về vấn đề chuyển giai đoạn cách mạng, có tác dụng trong suốt quá trình tiến lên CNXH. Phải phê phán thật nghiêm khắc những tư tưởng và hành động ngăn cản sự phát triển và đồng thời xây dựng những quan điểm tư tưởng đúng đắn, xây dựng khối đoàn kết nhất trí trong Đảng.

b)Thường xuyên giáo dục cán bộ đảng viên, ngay trong sinh hoạt thường kỳ của tổ Đảng, chi bộ để quán triệt nhuần nhuyễn phương hướng tư tưởng của Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra:

Phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiểu tư sản mà biểu hiện về mặt chính trị là sự giao động, hữu khuynh và tả khuynh, mà hữu khuynh là chủ yếu; về mặt ý thức là chủ nghĩa các nhân dưới nhiều màu sắc; về mặt phương pháp là chủ nghĩa chủ quan, một chiều. Phải kiên quyết đấu tanh chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và những tàn dư tư tưởng phong kiến trong cán bộ Đảng viên”.

Lấy tinh thần, đạo đức “trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính chí công vô tư “ để rèn luyện giáo dục cán bộ đảng viên. Đồng thời phải nghiêm khắc ngăn chặn, hạn chế những trường hợp suy thoái về phẩm chất và mọi biểu hiện về tưtưởng cá nâhn như: tham ô, móc ngoặc, công thần, địa vị, tự tư tự lợi, hưởng lạc …; chống những hành động vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, quan liêu , hống hách, mệnh lệnh, cửa quyền, tự do tự tiện, bản vị cục bộ, nhất là phải triệt để chống tư tưởng tiểu tư sản đang phát triển và tư tưởng xã hơi, hoà bình, hưởng thụ… làm giảm uy tín của Đảng, giảm sức mạnh của tập thể, vi phạm pháp luật Nhả nước và trở ngại cho việc thửc hiện chỉ thị Nghị quyết của Đảng, của Nhà nước.

Đó là những nội dung phải được đưa ra kiểm điểm hàng tháng trong chi bộ, 1/2 tháng trong tổ Đảng, trong kiểm điểm của các cấp uỷ Quận,phường, cơ quan, xí nghiệp… Đồng thời đẩy mạnh công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện ngăn chặn và xử lý nghiêm chỉnh những trường hợp suy thoái, mất phẩm chất trong Đảng.

2) Về công tác tổ chức:

Ra sức củng cố tổ chức Đảng các cấp, nhất là chi bộ phường để làm tròn vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới.

Chi bộ phường là chi bộ lãnh đạo toàn diện gắn liền với chính quyền và đoàn thể phường, gắn với mọi mặt công tác. Phải xây dựng để chi bộ phường vững mạnh biết lãnh đạo toàn diện, 4 tốt:

- Biết lãnh đạo, quản lý XH và biết chăm lo đời sống quần chúng .

- Biết quản lý kinh tế

- Biết chỉ đạo thực hiện công tác dân vận và mặt trận, phát huy làm chủ tập thể của nhân dân lao động

- Nắm vững dường lối chính trị của Đảng, biết làm công tác tuyên huấn, tổ chức, kiểm tra

Từng bước xây dựng Đảng uỷ phường khi đủ điều kiện. Tổ Đảng của chi bộ phường phải được xây dựng củng cố thật đúng vai trò, chịu trách nhiệm trước chi bộ về mọi mặt đối với khu vực tổ Đảng phụ trách, nắm thật chắc tình hình, thông qua các đoàn thể vận động quần chúng thực hiện mọi công tác.

Từng bước xây dựng chi bộ cơ sở ở xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và những cơ sở sản xuất khác. Nhanh chóng phát triển Đảng với cơ sở trắng. Nhiệm vụ chủ yếu các chi bộ xí nghiệp là động viên, lãnh đạo tốt công nhân tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, lãnh đạo tốt công tác tư tưởng .

Các Đảng bộ , chi bộ cơ quan tăng cường công tác tư rưởng , động viên cán bộ , công nhân viên chiến sĩ hoàn thành tốt công tác .

Các Chi bộ phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sinh hoạt, nâng cao năng lực lãnh đạovà thực hiện công , phát huy trí tuệ tập thể , cá nhân phụ trách , giáo dục tính chiến đấu, toàn diện của đảng viên trong mọi công tác , tăng cường quan hệ sâu sắc với quần chúng.

Trong 2 năm 1977 – 1978 , phấn đấu nâng chi bộ khá lên ½ tổng số chi bộ và không để còn chi bộ kém .

Đối với Quận : cấp uỷ Quận phải thật sâu sát với tình hình ở cơ sở về mọi mặt để kịp thời phát huy những ưu điểm, những thành tích xuất sắc, uốn nắn khắc phục những sai khuyết, nhanh nhạy rút kinh nghiệm về chỉ đạo, lãnh đạo, tăng cường cán bộ có khả năng và chất lượng để đủ sức lãnh đạo toàn diện, nhất là kiện toàn các ngành kinh tếvà đời sống xã hội để hoàn thành công tác trọng tâm là cải tạo công thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và vận động xây dựng vùng kinh tế mới.

Tăng cường lãng đạo và củng cố các ban ngành làm chức năng tham mưu cho cấp uỷ. Đối với ban kiểm tra và ban tổ chức cần tăng thêm uỷ viên ban và cán bộ, củng cố phòng tổ chức chính quyền, quy định rõ chức năng nhiệm vụ của các ban ngành và sự quan hệ làm việc giữa các cấp.

Phải làm cho toàn Đảng bộ nắm vững hơn nữa các nguyên tắc và chế độ của Đảng, nhất là về nguêyn tắc dân chủ tập trung, tập hể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, phải hết sức quan tâm sâu sát đối vớicơ sở. Các cấp uỷ Đảng phải đảm bảo là trung tâm đoàn kết thống nhất; phải đảm đương được vai trò lãnh đạo các ngành để phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản. Cấp uỷ và các ban ngành dành 1/3 thời giờ xuống cơ sở.

3) Quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:

Nắm và bố trí cán bộ thật phù hợp để phát huy hết khả năng của cán bộ đảng viên đám ứng với yêu cầu trước mắt và lâu dài.

Nắm thật chặt lý lịch hồ sơ cán bộ đảng viên nộ trong năm 1977 giải quyết cho xong số đứt liên lạc, bỏ sinh hoạt. Cần giải quyết đúng nguyên tắc, có lý có tình, phù hợp với tình hình của thành phố.

Thẩm tra đầy đủ số đảng viên mới kết nạp từ năm 1974 đến hết tháng 3- 1977 theo chỉ thị235 của ban Bí thư. Thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết 228 của bộ chính trị, để kịp thời đưa ra khỏi Đảng những phần tử xấu, cơ hội, thoái hoá, biến chất… những trường hợp sai phạm cần nhanh chóng kiểm tra, kiểm điểm xử lý không để kéo dài.

Trong hai năm 1977-1978 giải quyết xong các trường hợp tồn tại về chính trị cua cán bộ trung, sơ cấp, và các cấp uỷ viên cơ sở, và giải quyếtnhững trường hợp cần thiết đối với đảng viên .

Phân loại cán bộ đảng viên, có kế hoạch bồi dưỡng về chính trị, văn hoá; củng cố trường đảng của Quận thành một bộ phận tách riêng khỏi Ban Tuyên huấn với đầy đủ cán bộ theo quy định và những phương tiện tối thiểu để có thể mở lớp bồi dưỡng đảng thường xuyên. Hết sức chú ý bồi dưỡng đào tạo cán bộ đảng viên từ trong các phong trào, quan tâm đối với công nhân trực tiếp sản xuất, giới trẻ. Lựa chọn những cán bộ đảng viên ưu tú và triển vọng gửi đi đào tạo dài hạn về trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thòi thường xuyên mở lớp bồi dưỡng ở Quận hoặc bằng phương pháp tập huấn tổng kết kinh nghiệm trong thực tế công tác. Mặt khác tổ chức và tạo điều kiện cho cán bộ tham gia học tập bổ túc văn hoá trong nắm 1977-1978 toàn thể cán bộ đảng viên phấn đấu học hết cấp hai và có trình độ bắt buộc hết cấp một.

4) Phát triển đảng viên:

Tăng cường công tác phát triển đảng viên nhằm vào các đoàn viên thanh niên tiên tiến, xuất sắc, những người ưu tú trong các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, nhất là trong phong trào lao động sản xuất, công nhân trong các xí nghiệp, thành phần lao động là giới trẻ.

Mỗi chi bộ phải có kế hoạch phát triển Đảng, phải có biện pháp chọn lọc, phân loại giai cấp thành phần chính trị, xây dựng cốt cán, tuyr6n truyền giáo dục , kèm với thẩm tra, xác minh, tiến hành từng bước đúng nguyên tắc, thủ tục. Phấn đấu nâng tỉ lệ đảng viên công nhân trong Đảng lên 20% . Song song với công tác phát triển phải gảii quyết cho xong những trường hợp chưa rõ ràng về lý lịch để chuyển đảng chính thức ngay những trường hợp đủ điều kiện và đưa ra khỏi Đảng những trường hợp không đủ chuẩn chất . Cảnh giác địch và những phần tử cơ hội chui vào Đảng .

5/ Về lề lối làm việc :

Cần kiện toàn bộ máy hành chính , tránh thủ tục rườm rà không hợp lý và khắc phục tình trạng hội họp quá nhiều để tạo điều kiện cho cán bộ xuống cơ sở nắm tình hình thực tế , sâu sát với quần chúng. Phân công cấp uỷ viên phụ trách từng cơ sở và đưa việc xuống cơ sở thành nề nếp thường xuyên hàng tuần.

Phải có nghị quyết đầy đủ hàng quý , chương trình công tác hàng tháng xủa Quận và Phường, cũng như của các Đảng uỷ, Chi bộ cơ quan xí nghiệp , trường học với biện pháp thực hiện rõ, chỉ tiêu cụ thể . Qua thực hiện , tổng kết rút kinh nghiệm học tập ngay trong thực tiễn công tác . Tăng cường chỉ đạo điểm để có kinh nghiệm chỉ đạo chung.

BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN 11

Thông báo