Chủ Nhật, ngày 13 tháng 10 năm 2024

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành huyện Đảng bộ khoá VI trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VII (Phần 2)

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ VII (5 NĂM 1996-2000)

Năm năm tới, sự nghiệp đổi mới của đất nước tiếp tục phát triển trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Những thành tựu của công cuộc đổi mới và đang tạo ra thế lực, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới. Những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được tao ra. Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cư đan xen nhau và cùng tác động tới chiều hướng phát triển đất nước.

Nằm trong bối cảnh chung, trong thời kỳ 1996-2000 huyện sẽ có những đặc điểm:

Về thuận lợi:

- Hóc Môn là huyện có độ dày truyền thống cách mạng trong suốt hai thời kỳ kháng chiến. Truyền thống này là chất liệu vô giá, luôn hun đúc tinh thần vượt khó, thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên không ngừng chung toàn huyện.

- Huyện có thế mạnh đa dạng, tiềm năng kinh tế dồi dào chưa khai thác hết như tiềm năng về đất đai, lao động, vị trí địa lý thuận lợi sát trung tâm thành phố nối liền các tỉnh bạn với những tuyến đường giao thông quan trọng liên vận quốc tế đi qua. Quá trình đô thị hoá chuyển đổi nhanh sắp tới sẽ hình thành các khu công nghiệp quy mô tập trung, tạo thêm điều kiện tiếp cận nhanh với KHKT và công nghệ hiện đại. Nếu những yếu tố này được khai thác tối đa, Huyện sẽ có điều kiện phát triển mạnh trong những năm tới.

- Những thành quả 20 năm qua - nhất là trong 5 năm qua, đã tạo tiền đề cho huyện tiếp tục đi lên. Toàn huyện luôn giữ vững thế ổn định chính trị, tạo điều kiện phát triển mọi mặt. Sự đoàn kết thống nhất nội bộ là một trong những yếu tố làm tăng sức chiến đấu của toàn Huyện Đảng bộ trong tình hình mới.

Khó khăn:

- Huyện còn lúng túng chưa xác định rõ chương trình mũi nhọn để tập trung đầu tư nên tốc độ phát triển kinh tế xã hội chậm. Các vấn đề xã hội còn nhiều mặt cần quan tâm. Trình độ kiến thức, tay nghề của lao động Hóc Môn chưa tương ứng phát triển kinh tế.

- Việc phân cấp quản lý cấp huyện chưa rõ và trên thực tế huyện đang chuyển dần sang chỉ là cấp quản lý hành chính. Từ đó, việc định hướng trên một số lĩnh vực có khó khăn.

Căn cứ dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, dự thảo vân kiện Đại hội Đảng thành phố lần VI, hiện trạng huyện và quy hoạch tổng thể huyện đến năm 2010 đã được thành phố phê duyệt, phương hướng nhiệm vụ 5 năm (1996-2000) của huyện gồm nội dung sau:

Mục tiêu chung:

- Tiếp tục giữ vững thế ổn định chính trị huyện truyền thống, huyện anh hùng để tạo nền tảng phát triển mạnh kinh tế - xã hội địa phương. Tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu toàn diện và đồng bộ.

- Trong xu thế phát triển chung của thành phố, 5 năm 1996-2000 sẽ là thời kỳ phát triển sôi động nhất của các huyện ngoại thành so nội thành, trong đó có Hóc Môn và huyện sẽ là một trong những hướng tập trung của thành phố. Để đón lấy thời kỳ sôi động này không hụt hẫng, huyện phải luôn phát huy tối đa lợi thế của mình, có những phương án khả thi nắm lấy thời cơ, đẩy lùi nguy cơ - nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn so các huyện trong thành phố đang cùng trong quá trình phát triển.

Theo hướng này, huyện tiếp tục tập trung khai thác tối đa mọi nguồn lực, thế mạnh địa phương, chú trọng củng cố quan hệ sản xuất, phát huy các hình thức hợp tác mới (tạo động lực, tiền đề tăng trưởng nhanh kinh tế), thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp điều kiện huyện, nhằm đưa huyện có bước phát triển nhanh, vững chắc, theo định hướng XHCN.

- Tăng cường chăm lo đời sống vật chất, tinh thần nhân dân cao hơn mức hiện nay. Phấn đấu đưa mức thu nhập đời sống bình quân đầu người/năm tăng gấp đôi năm 1995. Tiếp tục thực hiện chương trình XĐGN, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo trong nhân dân, rút ngắn mức sống chênh lệch giữa nội thành và ngoại thành. Cần dự đoán hết những vấn đề phát sinh về xã hội trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá để không ngừng tập trung xây dựng và giữ cho nếp sống nông thôn văn minh tốt đẹp hơn trong điều kiện huyện đã đô thị hoá, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng – an ninh, gắn chặt giữa nhiệm vụ quốc phòng và an ninh để bảo vệ vững chắc sự nghiệp cách mạng của huyện trong tình hình mới. Thường xuyên chăm lo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, công an, các ngành thực thi và bảo vệ pháp luật.

- Không ngừng nâng lên sức chiến đấu cả hệ thống chính trị, trong đó Đảng phải thật sự trong sạch vững mạnh để đủ sức lãnh đạo ngang tầm thời kỳ phát triển mới. Chính quyền từ huyện đến cơ sở phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Các đoàn thể - MTTQ đa dạng hoá phương thức tập hợp và hoạt động, không ngừng phát huy cao khối đại đoàn kết toàn dân, cùng phấn đấu đưa huyện vượt lên giàu mạnh, đúng định hướng XHCN.

NHIỆM VỤ MỤC TIÊU TỪNG LĨNH VỰC

I. VỀ KINH TẾ

Định hướng chung: Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp – thương mại - dịch vụ đã được xác định từ nhiệm kỳ V, tạo tiền đề để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp huyện đô thị hoá ở những nhiệm kỳ sau. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất. Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp – TTCN và nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phấn đấu giữ tốc độ tăng bình quân CN-TTCN hàng năm từ 18-20%, tốc độ tăng bình quân nông nghiệp hàng năm 5%, đạt giá trị TSL hai ngành sản xuất chính CN-TTCN, nông nghiệp từ 293 tỉ đốn 311 tỉ đồng, tăng hơn thời kỳ 1991-1995 là 115,8%, trong đó công nghiệp – TTCN chiếm tỷ trọng 75%, nông nghiệp 25%. Thực hiện một số chương trình mang tính mũi nhọn trong sản xuất - dịch vụ - du lịch để thúc đẩy kinh tế huyện phát triển nhanh, vững chắc.

1. Sản xuất công nghiệp – TTCN:

- Phấn đấu đạt giá trị tổng sản lượng CN-TTCN từ 215-233 tỉ đồng, tỉ trọng ngoài quốc doanh 94,2%, quốc doanh trên 5%. Xuất khẩu từ 25-30%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm từ 18-20%. Ưu tiên phát triển ngành giải quyết nhiều lao động như dệt, may mặc. Chú ý công nghiệp hoá các ngành có điều kiện, phát triển ngành nghề chế biến nông sản như chế biến sữa bò, thịt gia cầm, đường mía, cơ khí phục vụ nông nghiệp. Quan tâm phát huy ngành truyền thống địa phương như ngà sừng, đan giỏ, đan đệm… để có những sản phẩm đặc trưng, tiêu biểu của huyện.

- Khai thác tốt nhất nguồn tiềm lực địa phương. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng đất công, nhà thuộc sở hữu Nhà nước, các khu quy hoạch để có chủ trương sử dụng, khai thác mặt bằng cơ sở vật chất hiện có triệt để và kêu gọi vốn đều tư để thực hiện các dự án. Quản lý, cấp giấy phép cho những đơn vị khai thác nước ngầm, các hầm đất chặt chẽ để quản lý tốt tài nguyên của huyện.

- Động viên tối đa mọi nguồn lực, tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cho sản xuất kinh doanh:

* Đối với khối kinh tế quốc doanh: Trong khi chờ có hướng dẫn cụ thể, huyện vẫn quản lý toàn diện về kinh tế và theo sự phân cấp, phân quyền quản lý của trên. Về lâu dài, trong điều kiện đã giao vốn và tài sản các đơn vị kinh tế quốc doanh cho Cục quản lý vốn thành phố, huyện chỉ tác động trong phạm vi quản lý chung ở địa phương để quốc doanh tiếp tục phát triển. Theo hướng này, huyện chú trọng đầu tư về cán bộ và một số điều kiện khác cho một số công ty, xí nghiệp quốc doanh chủ yếu để phát huy được vai trò chủ đạo ở cấp huyện như trong lĩnh vực vật tư xăng dầu, sản xuất VLXD…

* Đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, chú trọng định hướng đầu tư để hạn chế tình trạng hình thành tự phát có thể gây hậu quả xấu. Song song, tăng cường quản lý nhà nước thông qua các biện pháp hành chính, thuế, kết hợp các sở, ngành thành phố, nắm chặt hơn tình hình sản xuất kinh doanh để kịp thời chấn chỉnh, không để hậu quả phát sinh.

- Theo quy hoạch tổng thể đến năm 2010, huyện tiến hành lập các dự án trọng điểm để kêu gọi vốn đầu tư, tạo điều kiện cho nền kinh tế huyện phát triển vươn lên theo hướng CNH, HĐH, trong đó thực hiện theo quy hoạch khu công nghiệp 400 ha ở Tân Thới Hiệp, khu công nghiệp ở Đông Thạnh, Xuân Thới Sơn, và có chủ trương cụ thể đón nhận những ngành công nghiệp từ nội thành ra ngoại thành, ôu tiên các cơ sở công nghiệp kỹ thuật cao, chế biến lương thực, thực phẩm, ngành giải quyết được nhiều lao động. Tập trung tháo gỡ vướng mắc về đầu tư, nhất là đất đai, vốn, khoa học và công nghệ, các thủ tục liên quan cấp giấy phép thuộc thẩm quyền của huyện như xây dựng, thành lập doanh nghiệp ngành nghề… Xác định rõ phát triển sản xuất công nghiệp phải gắn môi sinh môi trường. Công nghiệp-TTCN địa phương gắn chặt các đơn vị sản xuất công nghiệp của Trung ương, thành phố đóng trên địa bàn. Xây dựng tốt cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp.

- Trang bị thêm máy móc mới dạy nghề cho TTDN huyện để đáp ứng kịp nhu cầu dạy nghề trong tình hình mới. Có quy hoạch ngành nghề đào tạo, cơ cấu lao động theo dự báo phát triển kinh tế để đạt yêu cầu đào tạo một đội ngũ lao động có tay nghề, tương ứng thị trường lao động những năm tới theo yêu cầu phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mở rộng một số phân hiệu dạy nghề xuống xã - thị trấn ở những nơi có điều kiện.

2. Sản xuất nông nghiệp:

- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông thôn, nông nghiệp theo tinh thần NQ5/TW. Do tiềm năng phát triển trong nông nghiệp còn rất cao: 5 năm tới, nông nghiệp vẫn được xác định là mặt trận quan trọng. Theo quá trình đô thị hoá, đất nông nghiệp huyện sẽ tiếp tục thu hẹp, cần chọn cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao như cây kiểng, cá nước ngọt, chăn nuôi gia cầm công nghiệp… để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp. Tiếp tục sản xuất các vùng chuyên canh đã được định hình, trong đó ưu tiên phát triển vùng cây đặc sản và tiếp tục đẩu mạnh tốc độ tăng chăn nuôi nhanh hơn trồng trọt.

Phấn đấu đạt hệ số sử dụng ruộng đất 1,67 lần, giá trị tổng sản lượng đến năm 2000 là 78,2 tỉ đồng, trong đó trồng trọt chiếm trên 60%, chăn nuôi khoảng 40%. Theo hiệu quả kinh tế nông nghiệp, dự kiến một số cây sẽ tăng giảm phù hợp như cây lúa, rau sẽ giảm diện tích khoảng 1000 ha, vườn tạp thành vườn cây đặc sản tăng 580 ha… Về chăn nuôi, đàn bò sữa tăng 1500 con (tổng đàn 9490 con), đàn heo tăng 7000 con (tổng đàn 35.000 con). Chú ý nâng cao chất lượng con heo để có thể xuất khẩu được; khai thác chế biến sữa bò và tăng đàn cung cấp giống ể không ngừng phát huy hiệu quả chăn nuôi bò sữa, đang là một trong những thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp của huyện.

- Nắm và quản lý chặt quỹ đất đai theo luật. Soát xét việc sử dụng đất ở các xã - kể các các phần đất các xã đang quản lý để sử dụng đất tiết kiệm, đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế cao. Chú trọng dành 5% quỹ đất công cho xã để sử dụng theo chủ trương chung.

- Hiện đại hoá, cơ giới hoá một số khâu cần thiết trong nông nghiệp như cơ giới hoá khâu làm đất, vận chuyển chế biến, chuyển giao kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học. Xây dựng thí điểm và tiến tới mở rộng một số diện tích trồng rau sạch. Khai thác tốt hơn vùng đất Nhị Xuân, quy hoạch rõ ngoài khu du lịch 50ha, đất còn lại dành một phần cấp cho diện chính sách và dân nghèo sản xuất sử dụng có hiệu quả khu 3 xã ven sông Sài Gòn, đất nhiễm phèn Tân Hiệp, đất giồng các xã vùng cao… Đẩy mạnh phong trào làm kinh tế gia đình, phổ biến rộng, kịp thời trong nội bộ nông dân những mô hình sản xuất giỏi.

- Soát xét thực chất hoạt động các HTX nông nghiệp hiện có để củng cố mở rộng HTX nông nghiệp theo luật HTX mới sẽ ban hành, trong đó chú trọng hợp tác từng khâu, từng phần theo nhu cầu có lợi cho nhân dân và trên tinh thần tự nguyện, hạn chế tình trạng nông dân bị chèn ép trong sản xuất cả đầu vào và đầu ra.

- Đặc biệt chú ý tạo điều kiện xuất khẩu nông sản. Tiếp tục mở rộng tín dụng nông nghiệp, tạo vốn từ nhiều nguồn như vốn XĐGN, vốn từ quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, vốn từ các tổ chức từ thiện quốc tế… giúp cho nông dân chó thêm điều kiện mở rộng sản xuất nông nghiệp. Chú ý hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ trong nông thôn, các điểm bán vật tư nông nghiệp… để phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp. Các đơn vị quốc doanh trong nông nghiệp như Công ty vật tư, công ty Giống cây trồng… nghiên cứu thị trường nông nghiệp, cung ứng kịp thời những yêu cầu cần thiết trong mặt trận nông nghiệp.

- Tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp như điện, nước, thuỷ lợi, xây dựng, tu sửa cầu đường nông thôn.

- Tập trung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất theo kế hoạch và hướng dẫn của thành phố. Chú trọng giải quyết tranh chấp đất, nhất là đối với những trường hợp còn tồn đọng lâu.

3. Thương mại - Dịch vụ - Du lịch:

Chỉ tiêu định hướng cả khu vực này: nội thương và dịch vụ tăng hàng năm 17%, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân hàng năm 15%.

Chú trọng củng cố các đơn vị thương nghiệp quốc doanh cả nội ngoại thương mạnh lên theo hướng kinh doanh phù hợp tình hình mới. Tổ chức quản lý tốt hơn khu vực thương nghiệp tư nhân, tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển theo hướng văn minh hiện đại; kịp thời uốn nắn những hoạt động bất hợp pháp mang tính chất lừa đảo, vi phạm đạo đức xã hội, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế với mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ nhu cầu nhân dân và cùng phát triển.

Theo quy hoạch tổng thể và yêu cầu đã xác định trong nhiệm kỳ VI, tiếp tục tìm đối tác đầu tư với các thành phần kinh tế để khai thác tiềm năng về du lịch Hóc Môn, chú trọng xây dựng khu du lịch nhà vườn ở 3 xã ven sông gắn xây dựng khu dân cư đô thị. Xây dựng mới khu du lịch ở Nhị Xuân.

- Cải tạo lại hoặc xây dựng mới theo quy hoạch các trung tâm thương mại dịch vụ của huyện và các xã - thị trấn; sắp xếp lại trật tự hoạt động các chợ trong huyện, nhất là chợ Hóc Môn, các chợ dọc theo quốc lộ 22 theo hướng văn minh đô thị.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác chống buôn lậu. Thường xuyên tăng cường kiểm tra thị trường, chống những hiện tượng tiêu cực (trốn thuế, hàng gian, hàng giả, đầu cơ nâng giá…).

4. Về tài chánh – Ngân hàng:

Thực hành triệt để tiết kiệm. Ngân sách huyện đảm bảo cân đối nhu cầu thu chi hàng năm theo đúng chế độ, chính sách Nhà nước. Chi ưu tiên một số công trình XDCB phục vụ phúc lợi xã hội, giải quyết chế độ chính sách, chi ANQP và đảm bảo chi các hoạt động thường xuyên. Tăng cườn gkiểm tra chặt chẽ quyết toán các đơn vị kinh tế, góp phần quản lý chặt hoạt động kinh tế trên địa bàn huyện.

Tiếp tục mở rộng tín dụng, chú trọng cho khu vực nông nghiệp vay sản xuất, tích cực đầu tư cho các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện theo hướng vừa đảm bảo hoạt động hiệu quả, vừa góp phần phục vụ kinh tế xã hội địa phương phát triển.

Thành lập mới Ngân hàng cổ phần nông thôn, chú trọng phát triển vốn trong dân, góp phần phục vụ quản lý kinh tế - đời sống. Thành lập tổ chức quản lý vốn doanh nghiệp theo hệ thống Cục quản lý vốn thành phố.

Phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu thu thuế CTN, nông nghiệp hàng năm, đảm bảo công khai, công bằng, hạn chế thấp nhất thất thu và thuế đọng. Ngành thuế phải thể hiện tốt là đòn bẫy, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời qua thuế, giúp huyện quản lý sát hơn và thực hiện đúng luật pháp đối với các thành phần kinh tế. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với đầu tư theo qui định Nhà nước.

5. Xây dựng cơ sở hạ tầng:

- Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thực hiện phát triển kinh tế huyện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nông thôn mới. Chủ trương xây dựng các khu công nghiệp tập trung, cụm nông nghiệp đã và đang hình thành, một số khu trung tâm tiểu vùng thuộc các xã trung tâm huyện. Hướng ưu tiên đầu tư gồm hệ thống cầu đường giao thông, cấp thoát nước, điện, bưu điện, các cơ sở sản xuất lưu thông. Dự thảo NQ.ĐH VI/TP đã ghi đến năm 2000 thành phố sẽ điện khí hoá 100% xã nông thôn. Theo mục tiêu này, huyện tranh thủ thành phố, phấn đấu rút ngắn đến 1997 hoàn thành 100% xã điện khí hoá. Song song, xây dựng phát triển một số khu dân cư thị tứ mới, bên cạnh những khu dân cư đô thị đang xây dựng, các khu giải toả theo quy hoạch, khu công nghiệp tập trung, trong đó chú ý quy hoạch chi tiết ở các khu vực phát triển công nghiệp, quy hoạch xây dựng các công trình trường học đảm bảo đủ trường học cho học sinh, không để tái ca 3, trạm xá, khu vui chơi giải trí ở các khu dân cư mới hình thành. Tiếp tục hoàn thành các công trình chuyển tiếp chào mừng 20 năm giải phóng, chú trọng xây dựng các công trình truyền thống, như công trình khu di tích ngã ba Giồng gắn nghĩa trang liệt sĩ huyện. Về cơ sở hạ tầng xã hội, ưu tiên giáo dục đào tạo, y tế, các khu vui chơi giải trí cho thanh thiếu niên, các cơ sở hạ tầng phục vụ việc làm người lao động, các khu nhà ở, do cải tạo môi sinh, môi trường… từng bước thực hiện quy hoạch tiêu thoát nước cho toàn huyện, chú ý khu thị tứ, ven lộ, dân cư đô thị, khu vực sản xuất. Tổng mức đầu tư từ ngân sách tăng bình quân hàng năm 25-30%. Ngoài nhà ở do dân tự xây dựng, huyện phấn đấu đến năm 2000 sẽ giúp CBCNV còn khó khăn, dân nghèo, xây dựng từ 150 đến 200 nhà trả góp, theo phương thức dùng nguồn vốn từ quỹ bán hoá nhà do thành phố điều tiết, với lãi suất thấp trả chậm dài hạn (ưu tiên cho CBCNV, dân nghèo có đất nhưng không có khả năng xây nhà).

- Xây dựng các đề án chặt chẽ, xếp thứ tự ưu tiên các công trình để tập trung thực hiện theo từng giai đoạn. Tăng cường liên hệ các sở, ngành thành phố có liên quan, tập trung tháo gỡ những vướng mắc hiện nay về thụ tục ban đầu. Tiếp tục phát huy hình thức đấu thầu, chọn thầu, tăng cường quản lý chặt chẽ trong quá trình thi công, bảo quản, duy tu các công trình xây dựng cơ bản, đảm bảo chất lượng công trình và tiết kiệm. Củng cố “Ban quản lý dự án” để đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng được cơ chế quản lý mới về XDCB. Chú trọng XDCB công trình nào cũng phải kết hợp chặt giữa các ngành chức năng: giao thông công chánh, bưu điện, điện lực, cấp nước để tránh lãng phí trong xây dựng. Kiên quyết thực hiện NĐ 36/CP, lập lại trận tự đô thị.

- Thực hiện mạnh mẽ phương châm “Nhà nước, nhân dân cùng làm”, tuỳ theo công trình có thể lấy sức dân làm chính.

- Tiếp tục phát huy ngành Giao thông công chánh, Bưu điện, phục vụ nhu cầu xã hội và phát triển kinh tế.

- Công bố rõ lộ giới trong huyện gắn quy hoạch lộ giới chung có liên quan trên địa bàn huyện, để giải toả một lần, không gây lãng phí tiền của nhân dân.

5. Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch, quy hoạch trong đó xem thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch để điều chỉnh thực hiện kế hoạch từng năm phù hợp, chương trình hoá các mục tiêu phát triển và các dự án đầu tư. Thường xuyên soát xét điều chỉnh quy hoạch tổng thể, phù hợp theo quá trình phát triển đô thị hoá của huyện, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước thông qua công cụ quy hoạch, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực địa phương.

6. Nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần: Thường xuyên soát xét lại hiệu quả hoạt động các đơn vị kinh tế nhà nước sau thực hiện Nghị định 388/HĐBT để luôn ưu tiên có chủ trương kịp thời, phù hợp. Xây dựng 1-2 công ty cổ phần đối với những đơn vị có điều kiện. Khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế hợp tác tự nguyện ở nông thôn (cả khu vực sản xuất CN-TTCN), nghiên cứu tiếp mô hình HTX nông nghiệp, kiến nghị trên có chủ trương cụ thể phù hợp. Tạo điều kiện kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể - phát triển đúng định hướng, đúng pháp luật. Khuyến khích các hội, đoàn, như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân tổ chức các hình thức hội nghề nghiệp, CLB… giúp nhau làm kinh tế gia đình để không ngừng phát huy và nâng cao năng lực sản xuất xã hội trên địa bàn huyện.

II. VĂN HOÁ XÃ HỘI:

1. Về chăm lo đời sống:

Theo mục tiêu “đến năm 2000, cùng cả nước thoàt qua ngưỡng của đói nghèo”, tiếp tục thực hiện tốt chương trình XĐGN đi đôi phát huy các thành phần kinh tế, góp phần cho đời sống xã hội không ngừng khởi sắc, sôi động và chuyển hoá theo định hướng XHCN. Phấn đấu đến năm 2000, nâng mức sống 80% hộ nghèo trong chương trình lên mức đổn định, đưa ra khỏi chương trình 30% hộ ổn định. Tiếp tục điều tra mở rộng, xác định thêm diện đối tượng, phát động toàn xã hội đóng góp quỹ XĐGN và tạo quỹ XĐGN từ nhiều nguồn để các hộ đối tượng được vay và vay cao hơn mức hiện nay. Phát động mạnh phong trào giúp nhau làm kinh tế gia đình để nhân dân nhất là diện XĐGN biết cách làm ăn tự ổn định cuộc sống. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình sản xuất từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Tăng cường công tác quản lý vốn XĐGN ở cơ sở; không để tiêu cực phát sinh làm mất ý nghĩa tốt đẹp của chương trình XĐGN.

Chú trọng có biện pháp hỗ trợ đời sống CBNV khu vực HCSN, giáo viên, nhân dân các xã thuần nông nghiệp. Tăng cường giám sát chế độ đối với người lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của công nhân theo luật định. Phấn đấu nâng bình quân thu nhập đời sống đầu người trên địa bàn huyện đến năm 2000, tăng gấp đôi mức hiện nay, trên 700 USD/người/năm. Hỗ trợ giải quyết nâng thêm 15% nhà cấp 4 lên nhà cấp 3.

Không ngừng nâng lên yêu cầu chăm lo diện chính sách, thể hiệntốt tinh thần đền ơn đáp nghĩa. Cả nhiệm kỳ phấn đấu xây dựng tặng thêm 200 nhà tình nghĩa (chú ý chất lượng xây dựng nhà tình nghĩa). Chăm lo tốt hơn diện chính sách, gia đình có công cách mạng, thực hiện đầy đủ pháp lệnh ưu đãi người có công, không để sai sót, gây phiền hà diện chính sách. Đặc biệt chăm lo đời sống diện chính sách khó khă, bằng mọi khả năng của huyện. Tiếp tục truy tìm hài cốt liệt sĩ của huyện ở các nơi, quy tập về nghĩa trang liệt sĩ huyện. Quy hoạch, xây dựng nghĩa trang nhân dân huyện.

2. Về dân số, việc làm:

Phấn đấu theo hướng tích cực nhất, giảm tỷ lệ tăng dân số từ 1,5%-1,6%. Trong tăng dân số cơ học, gắn quy hoạch tổng thể chung thành phố, huyện sẽ đón nhận một lượng giản dân từ nội thành ra ngoại thành. Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá gia đình trong nhân dân, đưa công tác giáo dục dân số vào các trường phổ thông; đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia đình đến từng cụm dân cư, nhất là ở vùng sâu nông thôn, gia đình đã có 3 con, để kéo giảm tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên xuống 0,05% hàng năm.

Trong tổng dân số, dự kiến lao động đến năm 2000 có 175.000 người, trong đó bình quân hàng năm chưa có việc làm khoảng 10.000 người. Phấn đấu giải quyết cơ bản số lao động chưa có việc làm, trong đó phấn đấu bình quân hàng năm giải quyết 6.000 lao động có việc làm ổn định. Giải pháp chủ yếu là tạo điều kiện phát triển kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, các ngành nghề dịch vụ, chế biến, phát huy các thành phần kinh tế, tiếp tục thực hiện các chương trình bằng vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm , thu hút lao động vào các cơ sở sản xuất CN-TTCN trên địa bàn và các khu lân cận, vận động đưa dân đi lập nghiệp Lâm Đồng và các địa phương khác, khống chế di dân tự phát về huyện, góp phần giải quyết tốt hơn khâu đời sống lẫn trật tự an toàn xã hội. Trung tâm dạy nghề tiếp tục phát huy, nâng cao chất lượng dạy nghề, mở rộng các ngành nghề đào tạo gắn với tốc độ phát triển kinh tế xã hội chung của huyện, góp phần nâng cao trình độ, chất lượng lao động, tương ứng sự phát triển kinh tế xã hội. Hàng năm có hội thảo chuyên đề về dân trí, học nghề, giải quyết việc làm, không ngừng tìm biện pháp để phát huy lực lượng lao động huyện. Thực hiện Bảo hiểm xã hội của người lao động theo chủ trương chung.

3. Đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đến năm 2000, mặt bằng dân trí huyện phải không ngừng được nâng lên. Tích cực hoàn thành giáo dục phổ cập cấp II, theo chủ trương chung thành phố và phấn đấu số đông thanh niên Hóc Môn có văn hoá hết cấp III, để có điều kiện đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề. Huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo từng năm trên 90%, vào lớp 1 trên 98%, tiếp tục xoá mù chữ, sớm xây dựng, sửa chữa các trường quá xuống cấp, xây dựng mới kịp thời một số phòng học không để tái ca 3. Nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các ngành học. Chú trọng đúng mức giáo dục cả 3 môi trường: Gia đình – Nhà trường – Xã hội, mở rộng xã hội hoá giáo dục để toàn xã hội cùng đóng góp công sức đầu tư cho giáo dục. Chăm lo tốt hơn đội ngũ giáo viên, trong đó quan tâm bồi dưỡng giáo viên về chính trị, nghiệp vụ để đội ngũ giáo viên có điều kiện nâng cao chất lượng giảng dạy. Tiếp tục thực hiện tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, không ngừng đào tạo nhân tài cho huyện. Mở rộng và nâng cao chất lượng giải Lê Quý Đôn hàng năm, để kích thích phong trào thi đua học giỏi, dạy giỏi. Tiếp tục thực hiện quy hoạch mạng lưới trường lớp đến năm 2010 theo hướng cải cách giáo dục, các xã - thị trấn dành diện tích đất đủ để phát triển trường lớp cho con em ở địa phương. Quan tâm hoạt động các trường cấp 3 trên địa bàn, để cùng giáo dục con em của huyện. Có chủ trương ưu tiên chăm lo con em gia đình chính sách học hết cấp 3, vào đại học để tạo nguồn đào tạo cán bộ Đảng, chính quyền lâu dài về sau cho huyện. Tăng cường công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em, đặc biệt quan tâm trẻ em gia đình nghèo, khó khăn. Phấn đấu giảm 25% trẻ em suy dinh dưỡng, chăm sóc 100% trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa.

4. Không ngừng chăm lo tốt sức khoẻ nhân dân:

Đặc biệt tăng cường chăm sóc sứa khoẻ ban đầu. Tập trung kiện toàn củng cố mạng lưới y tế từ Trung tâm y tế huyện đến cơ sở. Mở rộng mạng lưới Chữ thập đỏ tận xóm ấp, tăng cường đào tạo đội ngũ bác sĩ tại chổ để đáp ứng chăm sóc sức khoẻ nhân dân theo từng cụm dân cư, nhóm hộ gia đình, góp phần chuyển một bước về chất đời sống nông thôn. Chú trọng cải tiến lề lối phục vụ ngành y, nhất là ở Trung tâm y tế huyện. Soát xét lại việc thực hiện thẻ BHYT để giảm phiền hà người bệnh tại các cơ sở y tế và tăng chất lượng điều trị bệnh. Thực hiện tốt hơn công tác khám chữa bệnh miễn phí cho dân nghèo. Tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh, quản lý và điều trị tốt các bệnh xã hội, thực hiện chương trình y tế quốc gia, tổ chức thường xuyên công tác thanh tra y tế ở các lĩnh vực khám và chữa bệnh, vệ sinh thực phẩm, vệ sinh lao động, vệ sinh môi trường (xử lý tốt hơn các điểm ô nhiễm môi trường ở khu công nghiệp, dân cư, nước thải chăn nuôi, lò mổ heo, phân hoá học, thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp), đầu tư nước sạch cho khu Nhị Xuân và 3 xã ven sông… để bảo đảm chăm sóc tốt sức khoẻ nhân dân, tạo môi trường sống văn minh, lành mạnh, tiến bộ.

5. Hoạt động văn hoá xã hội: Trong điều kiện kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế và ở quá trình huyện đô thị hoá, đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp, ngăn chặn xu hướng lai căng, pha tạp. Chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, văn hoá nghệ thuật, tạo sân bãi hoạt động TDTT, sân khấu ngoài trời ở các xã thị trấn, nuôi dưỡng và phát triển phong trào văn hoá văn nghệ lành mạnh, như “đêm nhạc ngoại thành, tiếng hát vành đai xanh”. Đẩy mạnh truy quét, quản lý, xử lý các loại văn hoá độc hại, lập lại trật tự văn hoá theo chỉ đạo của Chính phủ. Kiến quyết ngăn chặn các tệ nạn xã hội phát triển, nhất là nạn mãi dâm, xì ke, mê tín dị đoan… Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo nhân tài từ hoạt động TDTT, thường xuyên tổ chức các giải thi đấu giữa các xã, phấn đấu đạt nhiều giải các loại TDTT cấp thành phố, toàn quốc và quốc tế. Quy hoạch mạng lưới cơ sở vật chất về văn hoá TDTT, xây dựng Trung tâm văn hoá TDTT quy mô cấp huyện. Các xã - thị trấn có từ 1-2 điểm vui chơi giải trí, TDTT cho thanh thiếu niên để đủ điều kiện phục vụ tương ứng nhu cầu nhân dân. Gìn giữ, xây dựng và không ngừng tôn tạo các di tích lịch sử của huyện. Tổ chức chặt chẽ liên hoàn bộ phận quản lý các điểm di tích, phục vụ tốt các nơi đến tham quan, tìm hiểu truyền thống huyện. Nâng lên hiệu quả hoạt động Bản tin huyện, Đài truyền thanh huyện, xã; góp phần hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách Đảng, Nhà nước. Tiếp tục phát động sâu rộng phong trào “người tốt, việc tốt”, mở rộng cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, cuối năm 1996, có ít nhất 70% hộ gia đình, 70% tổ nhân dân đạt tiêu chuẩn. Từ kết quả này, tiếp tục nhân lên những năm sau.

III. AN NINH - QUỐC PHÒNG - NỘI CHÍNH:

- Kết hợp thực hiện chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược, gắn chặt nhiệm vụ an ninh và quốc phòg để bảo vệ vững chắc sự nghiệp cách mạng của huyện trong tình hình mới. Thường xuyên chăm lo, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân sự và công an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh trên địa bàn huyện. Trang bị thêm phương tiện, máy móc, vũ khí, chiến đấu để không ngừng nâng cao năng lực chiến đấu của hai ngành Công an và Quân sự địa phương.

- An ninh: Giữ vững an ninh chính trị trong điều kiện mới. Thực hiện đồng bộ các mặt an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá tư tưởng, an ninh cơ sở, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tội phạm hình sự, hạn chế thấp nhất trọng án. Thường xuyên thông tin những diễn biến âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch để góp phần nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng. Chú ý các lĩnh vực xung yếu có thể phát sinh yếu tố chính trị phức tạp, như lĩnh vực tôn giáo, bộ phận những người bất mãn chế độ, người nước ngoài đến huyện, lãnh vực kinh tế liên doanh nước ngoài… Chú trọng xây dựng nòng cốt ở các địa bàn, xây dựng tổ nhân dân, tổ dân phố thật vững chắc, gắn liền xây dựng mặt bằng an ninh cơ sở phối hợp tăng cường giáo dục lực lượng thanh thiếu niên, hạn chế tối đa số thanh thiếu niên phạm pháp, phối hợp đồng bộ hơn nữa giữa công an huyện và các xã, thị trấn trong xử lý đối tượng phạm pháp, để phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, thật sự phát huy tác dụng, cùng bảo vệ huyện chặt từ gốc. Phấn đấu cuối nhiệm kỳ có trên 80% địa bàn ấp và cơ quan xí nghiệp vững mạnh về mặt an ninh. Nâng cao tác dụng ký kết liên tịch giữa công an và các ngành liên quan, để tăng sức chiến đấu toàn diện hơn trong công tác an ninh. Thường xuyên có sơ, tổng kết chuyên đề công tác an ninh, như sơ kết 5 năm, 10 năm xây dựng ấp, hội thảo chuyên đề công tác phá án, chống buôn lậu, chống trộm cắp cướp giật. Tăng cường phá án - nhất là án trộm cướp tài sản công dân, tăng cường quản lý nhân hộ khẩu, nắm chắc tạm trú, tạm, vắng, di dân tự phát nơi khác đến huyện, để quản chặt hơn công tác an ninh trên địa bàn huyện. Xây dựng lực lượng công an không ngừng nâng cao lý tưởng, nhận thức trong sáng về phẩm chất, giỏi chuyên môn, đủ sức đáp ứng nhiệm vụ. Bố trí tất cả ở các xã - thị trấn đều có công an chính quy. Công an khu vực phải nắm chặt địa bàn, quản lý tốt phạm vi phụ trách.

- Trong công tác quân sự:

Thường xuyên bổ sung kế hoạch phòng thủ và tổ chức diễn tập phòng thủ hàng năm, để không ngừng nâng cao hiệu lực vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Chính quyền điều hành, cơ quan Công an Quận sự làm tham mưu”. Không ngừng nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang, cả quân thường trực, dự bị động viên và dân quân tự vệ, trong đó tiếp tục xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt tỉ lệ so dân số như trên quy định từ 2,5 đến 3% so tổng số dân và tăng cường quản lý, phúc tra, huấn luyện chặt chẽ lực lượng quân nhân xuất ngũ. Phấn đấu hoàn thành tốt chỉ tiêu NVQS hàng năm, xử lý nghiêm theo luật NVQS những trường hợp vi phạm, đảm bảo công bằng xã hội trong thực hiện NVQS, đầu tư kinh phí dạy nghề cho thanh niên xuất ngũ, góp phần thuận lợi trong công tác vận động NVQS hàng năm. Tiếp tục phối hợp chặt giữa quân sự huyện với các đơn vị quân đội đóng trên địa bàn huyện và hợp đồng tác chiến chặt với các tỉnh, huyện bạn lân cận.

- Các ngành chức năng thực thi và bảo vệ pháp luật: tăng cường phối hợp, giám sát các mặt trọng yếu, giúp huyện triển khai sâu rộng luật pháp, nhất là luật dân sự, vận động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, thanh kiểm tra khi có các vụ tiêu cực xảy ra, giúp huyện xử lý nghiêm minh sai phạm. Từng đơn vị khối Nội chính tự soát xét, phát huy ưu điểm, khắc phục nhanh hạn chế, thiếu sót, trong đó cần đẩy mạnh công tác thi hành án, tập trung giải quyết đơn thư khiếu nại, khiếu tố. Chú trọng xây dựng, củng cố lực lượng cán bộ trong các cơ quan thực thi và bảo vệ pháp luật.

IV. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG:

- Toàn Huyện Đảng bộ, mọi cấp mọi ngành, mọi CBĐV, CNV đều phải làm công tác vận động quần chúng. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng, đi sâu tìm hiểu tâm tư nguyện vọng nhân dân để vạch những chủ trương, nghị quyết Đảng sát thực tiễn, thường xuyên kiểm tra thực hiện nghị quyết, sơ kết công tác quần chúng theo nghị quyết. Định kỳ lấy ý kiến nhân dân đóng góp Đảng để Đảng luôn vững mạnh và luôn gắn bó mật thiết với nhân dân. Đặc biệt quan tâm lãnh đạo Đoàn thanh niên để tạo lực lượng kế thừa sự nghiệp chung của huyện trong tươn glai. Không ngừng củng cố, kiện toàn Ban Dân vận Huyện uỷ, khối vận xã - thị trấn đủ mạnh, trong đó ở xã cần phân công UV.TV Đảng uỷ phụ trách Dân vận, phân công Đảng uỷ viên phụ trách Thanh vận nếu Bí thư xã đoàn không là đảng viên.

- Chính quyền từ huyện đến xã phải làm công tác vận động quần chúng, phải xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của mình để có sự chú trọng đúng mức, trong đó cần tăng cường chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, chăm lo đời sống nhân dân, không ngừng giáo dục rèn luyện cán bộ viên chức nhà nước cùng làm công tác quần chúng, tạo mối quan hệ ngày càng khắng khít giữa chính quyền với nhân dân. Tiếp tục có kế hoạch hỗ trợ đoàn thể từ huyện đến cơ sở về vật chất, kinh phí, để đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc, đủ điều kiện mở rộng phong trào, trong đó đầu năm 96, Huyện uỷ chủ trương xây dựng mới cơ quan chung các đoàn thể, Mặt trận huyện.

- Các đoàn thể, MTTQ tiếp tục đổi mới mạnh nội dung, phương thức hoạt động, nghiên cứu sâu, nắm bắt kịp thời những nhu cầu bức xúc của các tầng lớp nhân dân, áp dụng nhiều hình thức tập hợp đa dạng, phong phú, phù hợp để không ngừng nâng cao chất lượng, mở rộng số lượng. Mở lớp tập huấn cho CBĐV, cán bộ đoàn thể các cấp, về công tác quần chúng. Khẩn trương quy hoạch cán bộ đoàn thể - Mặt trận gắn quy hoạch cán bộ chung của huyện theo CT19/TU, hạn chế dần tình trạng hụt hẫng, chấp vá cán bộ đoàn thể. Quyết tâm phấn đấu trong 5 năm tới, các đoàn thể - Mặt trận, đưa trên 60% quần chúng các giới vào sinh hoạt ở các tổ chức đoàn thể thích hợp. Mỗi đoàn thể, mặt trận, phải xây dựng được 20% hội viên nòng cốt. Phấn đấu đoàn Khối vận huyện đạt vững mạnh toàn diện, trên 60% các chi tổ hội cơ sở đạt vững mạnh. Các cấp uỷ hàng năm sơ kết thực hiện Nghị quyết 8B/TW để luôn thúc đẩy công tác vận động quần chúng đúng mức.

- Theo hướng trên, từng đoàn thể, MTTQ, nghiên cứu sâu hiện trạng để tiếp tục đề ra những yêu cầu hoạt động thiết thực. MTTQ tiếp tục củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân theo Nghị quyết 7/BCT, làm nồng cốt trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, người tốt việc tốt, vận động đóng góp các công trình phúc lợi xã hội, phát động toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống mới trên địa bàn dân cư, kết hợp Ban tôn giáo, các ngành liên quan, làm tốt công tác tôn giáo vận, phối hợp các ngành chức năng giám sát mọi hoạt động xã hội, hoạt động chính quyền theo luật pháp cho phép. Hội Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân liên kết chặt, tiếp tục mở rộng các phong trào làm kinh tế gia đình, giúp nhau mưu sinh lập nghiệp, tương trợ tình làng nghĩa xóm, xây dựng nếp sống văn hoá mới ở nông thôn. Liên đoàn lao động phối hợp các ngành liên quan thực hiện tốt Nghị quyết 7/TW về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Tập trung phổ biến cho công nhân nắm thật vững Luật công đoàn, Luật lao động, chăm lo đời sống công nhân lao động. Đặc biệt chú trọng xây dựng, phát triển tổ chức công đoàn ngoài quốc doanh, can thiệp, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của công nhân lao động ở các khu vực kinh tế. Hội cựu chiến binh, Câu lạc bộ NNKC, Ban liên lạc tù chính trị huyện phát huy bản chất tốt đẹp của mình, tiếp tục làm nòng cốt về chính trị trong các phong trào quần chúng, tích cực giáo dục thế hệ trẻ, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng vững mạnh.

V. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC:

Phấn đấu xây dựng 100% phòng ban, tổ chuyên viên làm tốt chức năng nhiệm vụ; trên 80% bộ máy nhà nước cấp xã - thị trấn thực hiện toàn diện chức năng quản lý theo pháp luật. Theo hướng này, tập trung xây dựng hệ thống nhà nước từ huyện đến cơ sở thực sự là chính quyền của dân, vì dân. Tiếp tục cải cáchmột bước nền hành chánh nhà nước theo Nghị quyết 8/TW (khóa VII) để không ngừng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trên địa bàn huyện. Khẩn trươngxây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy chính quyền huyện và cơ sở có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ, đủ sức quản lý xã hội theo đúng pháp luật.

- Với vị trí là cấp thực hiện, huyện tiến hành rà soát lại các quy định quản lý hành chánh nhà nước, đã và đang thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, chú ý đi sâu những lĩnh vực như nhà, đất, xây dựng, sản xuất… để góp ý hoặc kiến nghị cấp trên bổ sung, sửa đổi những nội dung không phù hợp thực tiễn, làm vướng mắc cơ sở. Thực hiện “thủ tục hành chánh một cửa” theo chủ trương chung, quan tâm bồi dưỡng, củng cố các cơ quan tham mưu, giúp Uỷ ban huyện chỉ đạo chặt hơn trên một số lĩnh vực.

- Tăng cường trách nhiệm chính quyền xã - thị trấn. Chấn chỉnh hoạt động bộ máy hành chánh của các cơ quan chuyên môn trực thuộc uỷ ban huyện, huỷ bỏ những quy định thủ tục hành chánh, lệ phí hành chánh, dịch vụ hành chánh, trái quy định quản lý hành chánh Nhà nước, lập lại trật tự kỷ cương quản lý, cấp dưới phải chấp hành quyết định cấp trên, xử lý thích đáng CB.CNV vi phạm pháp luật. Quy định tất cả mọi cơ quan từ huyện đến xã - thị trấn, có quan hệ công vụ với dân, phải công bố công khai thủ tục hành chánh, khoản lệ phí hành chánh, thời hạn giải quyết… tại công sở.

Tập trung giải quyết đơn thư khiếu nại khiếu tố, đúng chủ trương, pháp luật. Tiếp tục tổ chức tốt và cải tiến yêu cầu tiếp dân theo định kỳ ở cơ quan HĐND huyện, xã - thị trấn, Tổ Nội chính Huyện uỷ, bố trí người tiếp dân phải đủ thẩm quyền giải quyết những yêu cầu hợp lý của dân.

- Tiếp tục thực hiện Quyết định 1852/UBND-TP và Quyết định 442/UBND-TP, gắn với việc tập trung các phòng ban về chung trụ sở UBND huyện, từng bước hiện đại hoá hoạt động, phục vụ tốt hơn nhân dân. Sắp xếp các đơn vị sự nghiệp, tách chức năng quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý sự nghiệp ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước.

- Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tham ô, lãng phí, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ vi phạm ở mọi cấp, mọi nơi, giữ cho bộ máy được trong sách, vững mạnh, xây dựng bộ máy Nhà nước tiêu biểu.

- Tiến hành phân loại cán bộ, công chức hành chánh để đặt yêu cầu đào tạo đúng đắn. Đặc biệt quan tâm bồi dưỡng văn hoá hết cấp 3 cho CB.NV xã - thị trấn. Đối với CB, công chức năng lực quá yếu kém, sau khi bồi dưỡng đào tạo vẫn không tiến bộ thì giải quyết chính sách. Đảm bảo đến năm 2000 trong bộ máy hành chánh huyện là những cán bộ công chức vừa có phẩm chất chính trị, đạo đức, vừa có khả năng chuyên môn, có quan điểm phong cách phục vụ tốt nhân dân.

- Không ngừng nâng lên chất lượng hoạt động HĐND huyện, xã - thị trấn theo luật mới tổ chức HĐND. Tiếp tục củng cố nhân sự thường trực và 2 ban HĐND huyện để có điều kiện hoạt động tốt hơn. HĐND xã - thị trấn tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện nghị quyết HĐND các cấp. Tổ chức thường xuyên định kỳ tiếp xúc giữa cử tri và đại biểu HĐND.

- Hệ thống chính quyền từ huyện đến cơ sở tổ chức định kỳ thường xuyên tự phê bình, phê bình trước dân, không ngừng phát huy dân chủ, sự đóng gópcủa dân đối với nhà nước.

Thông báo