Chủ Nhật, ngày 8 tháng 9 năm 2024

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành huyện Đảng bộ khoá VI trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VII (Phần 1)

Nhiệm kỳ 5 năm qua, cả nước có những thời cơ mới, đồng thời những khó khăn, phức tạp rất lớn, vẫn còn diễn ra gay gắt. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần VI, 5 năm qua, toàn huyện đã nỗ lực ra sức phấn đấu, kiên trì sự nghiệp đổi mới, từng bước không ngừng đưa huyện vươn lên theo hướng “Dân giàu nước mạnh – Xã hội công bằng văn minh”.

Đại hội Đại biểu huyện Hóc môn nhiệm kỳ VII lần này có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đại biểu nhiệm kỳ qua, đề ra phương hướng nhiệm vụ 5 năm tới 1996-2000, tạo thêm điều kiện cho huyện bước vào thời kỳ phát triển mới của đất nước ở đầu thế kỷ 21.

PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHIỆM KỲ VI

I. TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ:

Theo quá trình đô thị hoá, 5 năm qua, huyện tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ “Nông công nghiệp” sang “Công nông – thương nghiệp - dịch vụ”. Cùng sự phát triển chung, kinh tế xã hội huyện có những chuyển biến tích cực, đi dần vào ổn định, đạt và vượt một số mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu theo nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần VI.

THÀNH TỰU:

-  Đã xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng đắn, đạt được một số kết quả. Năm 1991: giá trị tổng sản lượng 2 ngành sản xuất chính công – nông nghiệp đạt trên 96 tỉ đồng, trong đó tỉ trọng công nghiệp 53,6%, nông nghiệp 46,4%. Cơ cấu này chuyển dịch theo từng năm. Đến năm 1995: giá trị tổng sản lượng công nghiệp nông nghiệp ước đạt trên 156 tỉ đồng, trong đó công nghiệp đạt 60%, nông nghiệp đạt 40%. Năng lực dịch vụ, xuất nhập khẩu tăng khá nhanh, những năm gần đây, chiếm một tỷ lệ nhất định trong cơ cấu nền kinh tế.

- Đã soát xét, bổ sung qui hoạch tổng thể huyện, xã, thị trấn, trong đó qui hoạch đất dành cho sản xuất công nghiệp tập trung đến năm 2010 khoảng 1.500 ha, đến năm 2000 có khoảng 500 ha đất sản xuất công nghiệp. Theo hướng này, huyện tạo điều kiện kêu gọi đầu tư, hình thành một số khu sản xuất công nghiệp ở khoảng 6/17 xã, trong đó xã Tân Thới Hiệp hiện có trên 40 xí nghiệp các thành phần kinh tế trong, ngoài nước hoạt động, góp phần giải quyết một khối lượng khá lớn lao động cho huyện.

- Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: tăng đều, đạt, vượt kế hoạch từng năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 16,2% (so chỉ tiêu NQ.ĐH Đảng huyện lần VI, tăng từ 6 đến 8%). Giá trị xuất khẩu cũng tăng đều từng năm, chiếm tỉ trọng từ 12% năm 1991, tăng lên 27,6% năm 1995… Một số ngành sản xuất được phát triển khá mạnh, tiêu thụ được trong nước và tham gia xuất khẩu như may mặc, vật liệu xây dựng, sản phẩm hàng tiêu dùng…

Sản xuất ngoài quốc doanh chiếm trên 90% giá trị tổng sản lượng toàn ngành và có số lượng lao động trên 90% so tổng số lao động toàn ngành.

Khu vực quốc doanh có nhiều cố gắng. Sau khi sắp xếp theo NĐ 388/HĐBT, các xí nghiệp quốc doanh của huyện tuy không đủ điều kiện cạnh tranh vượt lên mạnh so các thành phần kinh tế, nhưng một số cơ sở quốc doanh vẫn duy trì sản xuất kinh doanh, tạo ra giá trị tổng sản lượng toàn ngành, một số cơ sở hoạt động khá, tạo được hiệu quả và tham gia giải quyết lao động như xí nghiệp may trực thuộc Công ty Xuất nhập khẩu - Đầu tư huyện, Xí nghiệp may Việt Hưng thuộc Công ty Đông Hưng. Riêng năm 1995, tỉ trọng này còn 5,8%.

- Sản xuất nông nghiệp: Tập trung đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo NQ 5/TW; trong đó đã phát triển chăn nuôi cao hơn trồng trọt từ 10-20% (so nhiệm kỳ trước), cơ giới hoá khâu làm đất khoảng 500 ha với hơn 100 máy cày kéo nhỏ trong nông thôn. Đất nông nghiệp hàng năm giảm khoảng 50 ha nhưng mức tăng bình quân sản xuất nông nghiệp không giảm (tăng trưởng bình quân 4%/năm), do huyện đã đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng, đưa 80% giống mới vào sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng – tín dụng nông nghiệp, tăng cường công tác thuỷ lợi ở một số vùng trọng điểm, từng bước hình thành rõ các vùng chuyên canh: rau, mía, lúa đặc sản, hướng dẫn nông dân sản xuất theo cơ chế thị trường… Đến năm 1995, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng gần 23,4% so năm 1991. Các chỉ tiêu đàn heo, bò sữa, năng suất, sản lượng lúa, rau đều vượt chỉ tiêu NQ.ĐH. Thành tựu nổi bật, huyện đã phát triển đàn bò sữa 7.990 con, chiếm khoảng 60% tổng đàn bò sữa thành phố.

- Khu vực thương mại dịch vụ: Phát triển khá mạnh, định hình nhiều khu vực thương mại trung tâm ở các địa bàn đông dân, tham gia bán buôn, đẩy mạnh bán lẻ hàng hoá tiêu dùng, ăn uống, phục vụ nhân dân.

Hoạt động ngoại thương (Công ty Xuất nhập khẩu - Đầu tư) các năm qua gặp nhiều khó khăn do thị trường xuất nhập bất ổn định, nhưng đã cố gắng đứng vững, từng bước nâng lên chức năng đầu tư, sản xuất gia công may mặc, nhận xuất nhập uỷ thác một số mặt hàng để đảm bảo hiệu quả.

Công tác kiểm tra, quản lý thị trường, chống buôn lậu, chống hàng gian hàng giả được tiến hành thường xuyên, mang lại một số kết quả, phát hiện xử lý một số lượng khá lớn các vụ vi phạm.

Thu thuế công thương nghiệp, nông nghiệp, hàng năm đều phấn đấu đạt vượt chỉ tiêu. Đã giải quyết xong tồn tại các HTX tín dụng.

- Thu chi ngân sách: đảm bảo cân đối, đáp ứng kịp thời các nhu cầu thường xuyên, trên tinh thần tiết kiệm và kịp thời phục vụ nhiệm vụ chính trị của huyện. Ngân hàng nông nghiệp huyện có gắn bó địa phương, phục vụ khá tốt yêu cầu phát triển kinh tế, trong đó nguồn vốn huy động năm 1995, tăng gấp 9 lần so năm 1991, từng bước mở rộng qui mô tín dụng và tăng qui mô cho vay khu vực sản xuất nông nghiệp.

- Công tác kiểm tra, quản lý thị trường: chống buôn bán lậu, chống hàng gian hàng giả được tiến hành thường xuyên, mang lại một số kết quả, phát hiện xử lý một số lượng khá lớn các vụ vi phạm.

- Thu thuế công thương nghiệp, nông nghiệp, hàng năm đều phấn đấu đạt vượt chỉ tiêu. Đã giải quyết xong tồn tại các HTX tín dụng.

- Xây dựng cơ bản: Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm gần 224 tỉ đồng, cao nhất từ trước đến nay, trong đó vốn Nhà nước 47,8%, vốn các thành phần kinh tế 52,2%. Riêng đầu tư lưới điện trên địa bàn huyện bằng nguồn vốn ngành: 42,6 tỉ.

Đã xây dựng nhiều công trình trọng tâm như tư sửa, mở rộng cầu đường, đã và đang tập trung bê tông hoá cầu khỉ, điện nông thôn, điện khí hoá một số xã (Xuấn Thới Thượng, Đông Thạnh, Thới Tam Thôn), đầu tư cho cơ sở y tế, giáo dục, thông tin liên lạc, trụ sở làm việc, các cơ sở sản xuất, các công trình văn hoá, truyền thống, các công trình trọng điểm chào mừng 20 năm giải phóng… Công tác quản lý xây dựng cơ bản với chủ trương mới đấu thầu, chọn thầu, đã tiết kiệm cho Nhà nước nhiều tỉ đồng. Về nhà ở, đã hoàn thành chỉ tiêu 90 nhà bán trả góp theo NQ.ĐH. Gắn theo quá trình đô thị hoá, huyện đã và đang xây dựng một số khu dân cư đô thị ở Tân Thới Nhứt, Bà Điểm, Thạnh Lộc.

Từ đó, bộ mặt huyện có nhiều thay đổi, đời sống của nhân dân trong huyện được nâng cao và cải thiện, kinh tế có điều kiện phát triển tốt hơn nhiều so 5 năm trước.

- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn huyện chuyển đổi khá nhanh. Thông qua phát huy các thành phần kinh tế, đã từng bước khơi dậy năng lực sản xuất trên địa bàn huyện. Theo NĐ 388/HĐBT, huyện đã sắp xếp cho đăng ký tại 10 đơn vị sản xuất kinh doanh, số còn lại đã xử lý giải thể theo QĐ 315/HĐBT. Hiện có 7/10 doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả, 2/10 đơn vị hiệu quả thấp, 1/10 đơn vị thua lỗ, đã đình chỉ. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển rất mạnh với các hình thức: Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, HTX - Tổ sản xuất. Ngoài 1 HTX nông nghiệp còn giữ được (HTX Xuân Lộc), đã hình thành thêm các hình thức hợp tác mới ở nông thôn như hiệp hội, tổ hợp tác nông nghiệp, góp phần phong phú thêm cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn huyện

Tồn tại, yếu kém:

- Qui mô, năng lực sản xuất CN-TTCN còn nhỏ, trình độ công nghệ, thiếu bị hầu hết lạc hậu. Công nghiệp trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp còn ít (cơ sở chế biến sữa bò mới ở giai đoạn khởi đầu). Thông tin khoa học chậm, kinh tế QD có nhiều yếu kém so ngoài QD. Đội ngũ quản lý giỏi chưa nhiều, lao động kỹ thuật còn thiếu. Chất lượng hàng hoá chưa tốt, giá thành cao, khả năng tiêu thụ sản phẩm chưa mạnh. Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhanh, nhưng do cơ chế phân cấp chưa hoàn thiện, nên công tác quản lý còn lỏng lẻo, nhiều s hở. Do thủ tục quá phức tạp, đến nay, nhiều đề án đầu tư còn kéo dài nhiều năm chưa giải quyết. Một số chủ trương, chính sách về thuế, lãi suất, tín dụng, đất đai… thường thay đổi, chưa thật tác động cho sản xuất phát triển.

- Hiệu quả kinh tế nông nghiệp còn thấp, thị trường, giá cả nông sản thường xuyên biến động, bấp bênh, nhất là con heo, đường mía, rau quả, sữa bò… dẫn đến thu nhập của nông dân còn thấp, một số nông dân cho thuê đất hoặc bán đất, chuyển ngành nghề khác, một số thanh niên trong nông nghiệp đi làm thuê, làm hồ ở nội thành. Kết quả cải tạo vườn tạp còn thấp, giống cây ăn trái trên địa bàn huyện hiệu quả kinh tế chưa cao. Huyện cũng chưa có biện pháp nhân rộng giống mới cây ăn trái. Sản xuất chuối công nghiệp những năm đầu có hiệu quả, về sau, do khó khăn thị trường không tiêu thụ được nên không đạt kết quả, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất khu vực Nhị Xuân. Huyện đã thành lập Công ty cổ phần nông nghiệp, phần còn lại huyện chưa có kế hoạch khai thác để sử dụng có hiệu quả. Hệ thống thuỷ lợi chưa sử dụng hết công suất để tích cực phục vụ sản xuất nông nghiệp. Cơ giới hoá nông nghiệp còn thấp do đất sản xuất manh mún. Do có những chủ trương thay đổi nên tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm. Việc giải quyết tranh chấp ruộng đất trong nông dân còn tồn đọng nhiều.

- Việc quản lý, qui hoạch, định hướng quản lý Nhà nước lĩnh vực thương mại, dịch vụ chưa cao; thương mại, dịch vụ chủ yếu do tư nhân chi phối, thương nghiệp QD, thương nghiệp HTX ngày càng thu hẹp, có đơn vị không hiệu quả. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho các trung tâm thương mại quá cũ kỹ, kém văn hoá, mất vệ sinh. Buôn lậu tăng, đấu tranh ngăn chặn chưa đạt hiệu quả cao.

- Chi phí XDCB lớn nhưng công tác quản lý chưa chặt. Chất lượng nhiều công trình kém, nhiều công trình XDCB thủ tục phức tạp, kéo dài. Giữa các ngành Bưu điện, Điện lực, Cấp thoát nước chưa phối hợp chặt, gây lãng phí trong công trình mở rộng đường. Do trước đây, qui hoạch lộ giới chưa được công bố cụ thể, dẫn đến quản lý xây dựng, quản lý trật tự đô thị gặp nhiều khó khăn. Xây dựng dân cư tự phát, không theo qui hoạch và không chấp hành qui định Nhà nước, nên một số nơi gây ách tắc đường tiêu thoát nước, dễ gây ngập lụt.

- Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế chưa gắn kết chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp. Quốc doanh có biểu hiện ngày càng co hẹp. Mạng lưới HTX mua bán hoạt động kém hiệu quả, đã chuyển về quản lý ngành thành phố. Nội dung hoạt động HTX nông nghiệp chưa rõ, chưa thật phát huy tác dụng. Các hình thức quản lý lãnh vực nông nghiệp còn hạn chế, mức hợp tác còn giai đoạn thấp.

II. VỀ VĂN HOÁ XÃ HỘI:

Năm năm qua, mọi hoạt động lĩnh vực văn hoá xã hội của huyện đều luôn hướng theo mục tiêu duy nhất là phát huy cao nhân tố con người.

Thành tựu:

- Chăm lo đời sống: đạt được những kết quả quan trọng. Theo mục tiêu “cố gắng vượt qua ngưỡng cửa nghèo đói sau năm 2000”, một mặt, huyện đã phát huy mạnh các thành phần kinh tế, mặt khác đã thực hiện khá tốt chương trình XĐGN, trợ vốn cho 100% đối tượng có nhu cầu vốn, hoàn thành mục tiêu xoá hộ đói theo chỉ đạo thành phố trước thời điểm 30/4/1995, số được trợ giúp XĐGN đã có 60% hộ khá hơn (trong đó đã đưa ra khỏi chương trình 8,83% số hộ thật sự ổn định), 30% hộ đủ ăn. Trong 6 tháng cuối năm 1995, huyện tiếp tục điều tra diện mở rộng và đã trợ vốn thêm cho trên 80% hộ đối tượng. Song song, huyện thực hiện nhiều dự án nhỏ về chăn nuôi, phát triển ngành nghề, bằng nguồn vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm , giải quyết thêm lao động tại chỗ. Nhìn chung, qua điều tra điển hình đời sống dân cư huyện thời điểm 15/10/1995, bình quân thu nhập đời sống đầu người/năm là 376 USD, trong đó khu vực sản xuất kinh doanh 402 USD/người/năm, khu vực nông nghiệp 383 USD/người/năm, và hành chánh sự nghiệp 340 USD/người/năm. Về nhà ở nhân dân, có 2% nhà kiên cố, 56,3% nhà bán kiên cố, 54% hộ có máy thu thanh, 48% hộ có tivi, 9,15% hộ có điện thoại. Những con số này biểu hiện đời sống nhân dân có tiến bộ nhiều so nhiệm kỳ trước.

- Đã tập trung chăm lo cho hơn 7.000 đối tượng diện chính sách, vận động xây tặng 461 nhà tình nghĩa, sửa chữa chống dột cho hàng trăm hộ, tặng nhiều sổ tiết kiệm và cứu trợ hàng trăm triệu đồng, hàng trăm tấn lúa gạo cho diện chính sách, nâng tổng số nhà tình nghĩa của huyện trước nay là 720 căn, giải quyết cơ bản khó khăn về nhà ở diện chính sách. Đặc biệt, qua 3 đợt xét công nhận 156 Bà mẹ Việt Nam anh hùng của huyện, 36 mẹ còn sống, đều được huyện tổ chức cho các đơn vị trong ngoài huyện nhận phụng dưỡng đến cuối đời.

- Dân số và việc làm luôn được quan tâm chỉ đạo. Chương trình Dân số kế hoạch hoá gia đình luôn được đẩy mạnh. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm dần từng năm. Biện pháp giải quyết việc làm có sự thay đổi cơ bản. Qua khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, mở rộng phong trào làm kinh tế gia đình, đưa dân lập nghiệp ở Lâm Đồng, Sông Bé…. Đã giải quyết 5 năm qua trên 27.000 lao động, vượt 9,6% so NQ.ĐH.

- Công tác giáo dục – đào tạo: Luôn được chăm lo, Huyện đã đầu tư ngân sách khá lớn xây dựng, sửa chữa trường lớp, trang thiết bị dạy học và vận động mở rộng “xã hội hoá” công tác giáo dục. Từ đó chất lượng giáo dục – đào tạo từng bước phát triển. Tỷ lệ trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, 6 tuổi vào lớp 1 đạt cao nhất so các nhiệm kỳ qua (94,79%, so 1991 đạt 60%). Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở ngành học mầm non giảm hẳn. Chất lượng ngành học phổ thông cấp 1 – 2 nâng lên năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt, trong năm 1995, huyện được công nhận hoàn thành công tác xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đang thực hiện phổ cập cấp 2 thí điểm ở một số xã đô thị hoá. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được quan tâm, trong đó có học sinh đoạt giải toàn quốc. Giáo viên bỏ việc giảm dần. Nhiều trẻ em nghèo, khó khăn được chăm sóc thường xuyên. Trường nuôi dạy trẻ khuyết tật 2 năm qua hoạt động có hiệu quả. Trung tâm Dạy nghề luôn thực hiện vượt chỉ tiêu tuyển mới và tốt nghiệp, mở rộng ngành nghề đào tạo khá phù hợp theo nhu cầu xã hội và gắn theo phát triển kinh tế của huyện, chủ động giới thiệu giải quyết việc làm cho số lượng khá đông lao động sau học nghề.

- Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, môi sinh, môi trường có tiến bộ. Bệnh viện huyện được trang bị một số máy móc chuyên ngành, qui mô 200 giường đạt tiêu chuẩn. Các trạm y tế xã, Trung tâm dịch vụ dân số kế hoạch hoá gia đình liên xã, Phòng khám khu vực, mỗi nơi đều bố trí bác sĩ phụ trách. Công tác Chữ thập đỏ thu hút khá đông hội viên tham gia. Đã liên tục thúc đẩy công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu, tiêm chủng mở rộng, dập tắt kịp thời nhiều dịch bệnh. Xử lý môi sinh, môi trường, chương trình nước sạch nông thôn, vệ sinh dân cư, xử lý rác, trồng cây xanh làm sạch đẹp môi trường… được chỉ đạo thực hiện có kết quả bước đầu.

- Hoạt động văn hoá xã hội: luôn chuyển mới theo hướng tích cực. Cơ sở vật chất khối văn hoá xã hội được tăng cường. Nhiều hoạt động văn hoá – TDTT khá sôi nổi, phong phú, từng bước đi vào chiều sâu và phục vụ tốt các ngày lễ, tết. Đội thông tin lưu động, Bản tin huyện, Đài truyền thanh huyện, xã có nhiều cố gắng. Công tác bảo tồn bảo tàng, tôn tạo di tích lịch sử có quan tâm hơn. Thể dục thể thao liên tục tổ chức các giải, kích thích được phong trào sống lành mạnh, sống khoẻ trong lực lượng thanh thiếu niên, đạt một số thành tích tốt cấp thành phố, toàn quốc và quốc tế. Phong trào “người tốt, việc tốt”, tiếp tục duy trì và nhân ra. Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được tăng cường. Nhiều loại văn hoá phẩm độc hại được truy quét, tiêu huỷ. Các đối tượng tệ nạn xã hội được thu gom nhiều đợt, đưa đi giáo dục, một số sau giáo dục, đã hoàn lương, trở thành người có ích cho xã hội.

Tồn tại, yếu kém:

- Do tăng dân số cơ học, tỉ lệ phát triển dân số cao 1,8% (so NQ 1,5%), đời sống chung trên địa bàn còn thấp so nội thành. Đời sống khu vực HCSN, giáo dục còn khó khăn. Chương trình XĐGN cần mở chiều rộng, đưa vào chiều sâu hơn. Trên 80% lao động là lao động phổ thông, đã giải quyết được khối lượng laođ ộng lớn, nhưng thu nhập người lao động còn thấp. Ở khu vực ngoài QD, đã xảy ra những vụ đình công, trong đó có những vụ mâu thuẫn khá gay gắt trong mối quan hệ chủ thợ.

- Công tác giáo dục – đào tạo, y tế, VHTT – TDTT cần nâng cao hơn mức hiện nay để cân đối nhịp phát triển kinh tế, trong đó mặt bằng dân trí của huyện vẫn còn thấp. Xây dựng sửa chữa trường lớp nhiều, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu, còn tình trạng học ca 3. Một số nơi còn thiếu phòng học phải dồn học sinh học một phòng số lượng quá đông. Chất lượng giáo dục còn hạn chế, nhất là ở xã vùng xa, sâu như Nhị Bình, Xuân Thới Thượng nhưng chưa được quan tâm thoả đáng. Việc đào tạo học sinh giỏi chưa nhiều.

- Việc phòng chống bệnh AIDS cần được tăng cường biện pháp. Môi trường một số nơi bị ô nhiễm nặng. Chất lượng điều trị, phong cách y bác sĩ bệnh viện huyện tiếp xúc bệnh nhân, việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế, chữa bệnh cho dân nghèo, hoạt động chữ thập đỏ… là những vấn đề cần được quan tâm làm tốt hơn hiện nay.

- Yêu cầu chống và xây lãnh vực VHXH đều còn thấp do nhu cầu phát triển xã hội ngày càng cao. Truy quét, xử lý nhiều nhưng tệ nạn xã hội, văn hoá phẩm độc hại, tệ đánh đề, cờ bạc, mê tín dị đoan… vẫn đang có chiều hướng phát triển. Các công trình di tích lịch sử của huyện còn quá sơ khai, chưa ngang tầm huyện truyền thống. Các tụ điểm sinh hoạt văn hoá TDTT ở cơ sở ngày càng có khuynh hướng thu hẹp, xuống cấp. Xây dựng gia đình văn hoá mới chưa được xem trọng. Lượng thông tin đến dân thông qua Đài truyền thanh các xã - thị trấn còn ít, chưa đều.

III. AN NINH, QUỐC PHÒNG, NỘI CHÍNH:

Thành tựu:

Suốt nhiệm kỳ, toàn huyện luôn đảm bảo giữ vững ANCT, trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống, góp phần giữ vững thế ổn định chính trị, tạo nền tảng kh1 vững chắc cho huyện liên tục phát triển.

Trong công tác An ninh:

Theo yêu cu thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, huyện đã xây dựng và thực hiện các chuyên đề bảo vệ an ninh nội bộ, an ninh văn hoá tư tưởng, an ninh kinh tế, xây dựng an ninh cơ sở theo nội dung NQ3/TW, NQ6/TU, không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng trong toàn Huyện Đảng bộ. Đã tăng cường công tác nắm tình hình trong các lĩnh vực, các loại đối tượng, kịp thời thu giữ các tài liệu phản động, các loại văn hoá phẩm xấu. Huyện cũng quan tâm thực hiện chính sách tôn giáo, hạn chế dần các hoạt động tôn giáo chưa đúng qui định, quản lý khá tốt về mặt hành chánh diện người nước ngoài đến huyện, có chủ trương giải quyết kịp thời các vụ mâu thuẫn, khiếu kiện, tranh chấp quyền lợi kinh tế trong nhân dân, các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài.

Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc có chuyển biến tốt hơn so nhiệm kỳ trước, kết quả có 59,6% địa bàn vững mạnh. Mạng lưới an ninh cơ sở được củng cố từ 70-80% địa bàn vững mạnh, đạt chỉ tiêu NQ.ĐH. Lực lượng công an được đào tạo bồi dưỡng về chính trị, nghiệp vụ, trang bị khá hơn, có nhiều cố gắng vận dụng các biện pháp trong phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm.

Công tác Quân sự địa phương có nhiều tiến bộ, đảm bảo bảo vệ huyện trong mọi tình huống. Hàng năm, huyện chú trọng xây dựng, bổ sung kế hoạch phòng thủ, tổ chức tốt diễn tập phòng thủ, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa huyện và các đơn vị bạn, không ngừng nâng cao nhận thức, khả năng sẵn sàng chiến đấu. Đã tổ chức các lớp huấn luyện, hội thao, kiểm tra trực sẵn sàng chiến đấu cơ sở. Lực lượng dự bị động viên được biên chế đạt 90,15%, xếp đúng  chuyên nghiệp quân sư 95%. Công tác tuyển quân hàng năm hoàn thành thành tốt.

Hoạt động Nội chính có mặt nâng lên. Cả TT.HU – TT.UB huyện đều giữ đúng lịch họp thường kỳ vđi các ngành khối nội chính để nắm được những vấn đề trọng yếu. Công tác xét xử chú trọng đúng luật, không để có án huỷ, tổ chức xử lú lưu động các loại án điểm để giáo dục răn đe, ngăn ngừa tội phạm. Viện kiểm sát, Phòng Tư pháp, tăng cường giám sát một số lĩnh vực, giúp huyện thực hiện pháp luật chặt chẽ hơn. Riêng mạng lưới tư pháp các xã - thị trấn, đã được kiện toàn và đưa vào hoạt động, giúp dân giải quyết hoà giải những vụ tranh chấp nhỏ tại địa phương. Ngành thanh tra phối hợp các ngành liên quan, tổ chức thanh tra hoàn thành các vụ giúp huyện có cơ sở xử lý những vụ việc tiêu cực. Mạng lưới thanh tra nhân dân ở xã - thị trấn cũng tích cực hoạt động, góp phần giải quyết khiếu nại, tố cáo, hoà giải mâu thuẫn.

Tồn tại, yếu kém:

- Công tác an ninh nắm chưa sâu, chưa toàn diện để giải quyết có trọng điểm. An ninh chính trị giữ vững nhưng trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp; tệ nạn xã hội như mại dâm, đánh đề, vỡ hụi, thanh thiếu niên phạm pháp, hư hỏng… có xu hướng phát triển (phạm pháp hình sự tăng 34,6%, trọng án tuy giảm 27,7% so nhiệm kỳ trước nhưng tính chất tội phạm nghiêm trọng hơn). Công tác phá án có cố gắng đạt 60,6% nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Lực lượng công an cơ sở còn mỏng, yếu. Công an khu vực kinh tế, hình sự chưa sâu sát địa bàn. Công an huyện, xã có nơi chưa phối hợp thống nhất, ảnh hưởng xấu đến yêu cầu cùng quản lý xã hội. Quản lý nhân hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng chưa chặt. Tác dụng ký kết liên tịch giữa Công an, Xã đội, Hội Cựu chiến binh chưa cao. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc một số nơi còn yếu. Một bộ phận lực lượng công an chưa thể hiện tốt tinh thần trách nhiệm, hạn chế kết quả chung.

- Công tác giáo dục quốc phòng toàn dân chưa sâu rộng. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ mới đạt 1,74% so chỉ tiêu qui định là 2%. Việc chỉ đạo giải quyết thanh niên 3 trốn tránh, quân nhân đào bỏ ngũ chưa kiên quyết, chưa kịp thời, tạo nhiều sơ hở trong thực hiện NVQS. Chính sách hậu phương quân đội có thực hiện nhưng mức độ còn hạn chế… tác động tiêu cực một bộ phận nhân dân không chấp hành luật NVQS. Qui định chế độ bồi dưỡng cho lực lượng tự vệ xã không có, không tạo động lực hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, khiếu tố của nhân dân còn chậm. Các ngành Nội chính phối hợp giúp Huyện uỷ chống tham nhũng còn hạn chế. Kết quả thi hành án rất thấp. Tuyên truyền luật pháp chưa sâu rộng đến tận người dân. Từng lúc từng nơi các cấp, các ngành, nhân dân, còn biểu hiện chưa “Sống và làm việc theo pháp luật”.

IV. XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ:

1. Thành tựu:

- Tình hình quần chúng và công tác vận động quần chúng:

Trước những thành tựu chung, tâm trạng nhân dân các giới có nhiều chuyển biến tích cực. Đa số nhân dân đã từng bước thể hiện rõ hơn lòng tin Đảng, tin chế độ, tin sự nghiệp đổi mới, an tâm phấn khởi, sản xuất kinh doanh, tự ổn định cuộc sống. Nhiều chủ trương, chính sách Đảng, Nhà nước được nhân dân hưởng ứng thực hiện như không đốt pháo nổ, thực hiện phong trào sạch và xanh, phong trào không xả rác… Nhiều phong trào quần chúng đã tham gia sôi nổi như phong trào chăm lo đời sống, đền ơn đáp nghĩa, đóng góp các công trình phúc lợi xã hội, đóng góp quỹ chăm lo đội dân phòng, hỗ trợ bão lụt, ủng hộ Cuba, quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc… Nguyện vọng chung của nhân dân hiện nay là mong muốn đất nước giữ vững thế ổn định chính trị, phát triển mạnh kinh tế xã hội, bắt kịp một số nước kinh tế đang phát triển, đời sống các tầng lớp nhân dân nâng lên, mọi người được tự do làm ăn, làm giàu chính đáng, tệ tham nhũng, quan liêu, buôn lậu, nạn trộm cướp cần được đẩy lùi…

- Công tác vận động quần chúng của Đảng có những tiến bộ mới hơn theo tinh thần NQ8B/TW. Nhiều chi, Đảng bộ cơ sở nhất là chi bộ ấp, có phân công đảng viên phụ trách tổ nhân dân hoặc tham dự các cuộc họp đoàn thể. Đặc biệt, các đồng chí đảng viên lão thành, cán bộ hưu trí, rất quan tâm công tác vận động quần chúng. Thực hiện NQ3/TW, TT72/TU, huyện đã tổ chức rộng rãi cho quần chúng nhân dân tham gia đóng góp xây dựng Đảng, chính quyền, tạo được mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Huyện uỷ, Uỷ ban huyện cũng đã thống nhất chủ trương tăng cường chăm lo cơ sở vật chất (kinh phí, xe cộ…) để đoàn thể, Mặt trận toàn huyện hoạt động thuận lợi hơn.

- Công tác vận động quần chúng khối chính quyền cũng có chuyển biến. Yêu cầu tiếp dân theo lịch định kỳ luôn được duy trì. Những nội dung thuộc lĩnh vực nhà đất, hộ khẩu, hộ tịch lao động, thuế… UBND các xã có niêm yết, thông báo công khai về thời gian làm việc, thủ tục, yêu cầu, thời gian giải quyết để nhân dân thực hiện, giảm phiền hà dân. Yêu cầu “Dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân có tốt hơn trước. Một số dự thảo luật mới cũng được tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong dân. Việc tiếp xúc giữa cử tri với đại biểu HĐND, đại biểu Quốc hội tổ chức thường xuyên. Qua các lần tiếp xúc, huyện đã tổng hợp nghiêm túc các ý kiến nhân dân để có chủ trương giải quyết phù hợp.

- Về đổi mới tổ chức và hoạt động Mặt trận, các đoàn thể:

Gắn nhiệm vụ chính trị huyện, từng đoàn thể, Mặt trận đã chú trọng mở rộng liên tịch các ngành liên quan, tập trung thúc đẩy một số phong trào trọng tâm. Nổi bật, Đoàn thanh niên có phong trào mưu sinh lập nghiệp, về nguồn. Hội nông dân, Hội phụ nữ, có phong trào làm kinh tế gia đình, giúp nhau làm kinh tế gia đình. Hệ thống Công đoàn có phong trào phát huy sáng kiến kinh nghiệm. Mặt trận Tổ quốc ngày càng nâng cao vai trò trung tâm đoàn kết, tổ chức nhiều cuộc vận động lớn và nhiều phong trào được đông đảo nhân dân toàn huyện tự giác tham gia. Về tổ chức, các đoàn thể, Mặt trận đã và đang mở rộng tập hợp quần chúng, theo hướng đa dạng hoá hình thức tập hợp bằng những hình thức đội, nhóm, CLB chuyên ngành, hội nghề nghiệp theo địa bàn dân cư, văn hoá, sở thích… Năm năm qua, ngoài tổ chức Mặt trận và các đoàn thể đã có, năm 91 huyện còn tiến hành thành lập Hội CCB huyện, mở rộng CLB kháng chiến. Năm 94, thành lập Ban liên lạc Cựu tù binh của huyện, CLB Công đoàn hưu trí, tạo thêm lực và sự phong phú sinh hoạt chính trị, trong quần chúng. Qua đẩy mạnh hoạt động, các đoàn thể, Mặt trận đã thu hẹp dần cơ sở yếu kém, từng bước nâng lên cơ sở khá, mạnh. Kết quả kiểm tra chéo hàng năm, tất cả đoàn thể, Mặt trận huyện đều được ngành dọc thành phố đánh giá công nhận loại A, trong đó MTTQ huyện là đơn vị vững mạnh nhiều mặt.

2. Hoạt động quản lý Nhà nước:

Về bộ máy, huyện đã sắp xếp kiện toàn, tinh gọn bộ máy theo QĐ 442/UBND-TP, QĐ 1852/UBND-TP, gắn bầu cử HĐND huyện, xã nhiệm kỳ mới, nhân sự UBND huyện, xã, đã có một bước củng cố. Năm năm qua, hệ thống quản lý Nhà nước của huyện đã đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của địa phương, tăng cường nhiều biện pháp quản lý, tổ chức thực hiện, thúc đẩy kinh tế xã hội huyện phát triển, chăm lo đời sống nhân dân theo NQ Đảng.

3. Về xây dựng Đảng:

Năm năm qua, toàn Huyện Đảng bộ đã tập trung thực hiện NQ3/TW, không ngừng “tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” trên 3 mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Xác định xây dựng Đảng về Chính trị là vấn đề trọng yếu, xuyên suốt 20 năm qua, nhất là trong nhiệm kỳ VI, Huyện Đảng bộ luôn chú trọng xây dựng định hướng đúng đắn, trong đó đã tiếp tục khẳng định cùng cả nước kiên trì sự nghiệp đổi mới, mục tiêu CNXH, tiếp tục chuyển mạnh cơ cấu kinh tế từ nông công nghiệp sang công nông nghiệp (như đã xác định từ Đại hội Đảng bộ huyện lần V).

Xuất phát từ những định hướng đúng đắn, huyện đã từng bước vươn lên, thế đổn định chính trị luôn giữ vững, kinh tế xã hội có bước phát triển khởi sắc hơn so trước.

Công tác Giáo dục chính trị tư tưởng luôn được chú trọng. Thông qua tổ chức quán triệt các nghị quyết chủ trương Đảng khá kịp thời, xem trọng sơ tổng kết, thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, thông tin báo cáo thời sự, sinh hoạt các tài liệu đến cơ sở Đảng… Đồng thời, qua kết quả công cuộc đổi mới của đất nước, tư tưởng chung trong nội bộ Đảng và nhân dân ngày càng ổn định hơn, nhận thức chính trị từng bước được củng cố, nâng lên, hạn chế dần tư tưởng hoang mang, dao động như trước lúc Đông Âu và Liên Xô tan rã. Đại đa số đảng viên tiếp tục củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tin sự nghiệp đổi mới, tin chế độ, cùng kiên trì mục tiêu XHCN, nhận thức sâu hơn những định hướng phát triển đất nước trong tình hình mới. Đa số đảng viên cũng có nhận thức đúng đắn hơn về yêu cầu, phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ ngang tầm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ đảng viên lão thành rất quan tâm công tác giáo dục chính trị trong Đảng, nhất là giáo dục lực lượng cán bộ, đảng viên trẻ, đoàn viên thanh niên.

Về tình hình đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng: Đầu nhiệm kỳ, toàn huyện có 70 cơ sở Đảng, trong đó có 19 Đảng bộ, 51 chi bộ. Đến nay, qua xác nhập, bãi bỏ, thành lập mới, chuyển quản lý ngành một số cơ sở, toàn huyện hiện còn 62 cơ sở Đảng, trong đó có 22 Đảng bộ và 40 chi bộ.

Qua xét chi đảng bộ cơ sở vững mạnh năm 1994 toàn huyện có 35% cơ sở Đảng vững mạnh, 45% cơ sở khá, 13,33% cơ sở trung bình và 6,67% cơ sở yếu. Nhiều chi đảng bộ đã phấn đấu vươn lên, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, trong đó có 3 đơn vị cơ sở phấn đấu vững mạnh toàn diện. Huyện uỷ đã đề nghị và được Thành uỷ khen. Chất lượng đảng viên qua thực hiện NQ3/TW tăng hơn so khi thực hiện NQ11/TU, đảng viên loại 1: 33,23%, loại 2: 61,82%, loại 3: 4,44%, loại 4: 0,49%.

Phát triển Đảng đầu nhiệm kỳ chậm và ít, chỉ hơn 1/3 tổ chức cơ sở Đảng làm nhiệm vụ phát triển Đảng. Qua tập trung lãnh đạo, công tác phát triển Đảng có những tiến bộ mới (đã phát triển 245 đảng viên mới, so nhiệm kỳ trước 149 đảng viên).

Công tác cán bộ của huyện luôn được chú trọng. Huyện đã từng bước củng cố kiện toàn bộ máy nhân sự, điều động, đề bạt, bố trí trên 130 cán bộ, góp phần trẻ hoá đội ngũ, nâng cao năng lực lãnh chỉ đạo chung toàn huyện. Đánh giá chung trong 130 trường hợp bố trí cán bộ, có 80% cán bộ phát huy tốt vai trò, hoàn thành được nhiệm vụ, 20% còn lại phát huy chưa tốt, trong đó, một số do trình độ còn hạn chế so nhiệm vụ được giao, một số có năng lực nhưng trách nhiệm chưa cao, còn bị chi phối bởi lo cuộc sống, một số có năng lực, trình độ nhưng đáng tiếc, phẩm chất đạo đức yếu, lo tư lợi riêng, sa vào sai phạm.

Công tác bồi dưỡng, đào tạo được quan tâm đúng đắn. Huyện đã chi ưu tiên kinh phí đưa trên 2.000 lượt cán bộ học tập, bồi dưỡng các loại lớp. Chính sách cán bộ thực hiện tốt hơn so trước. Huyện uỷ đã cố gắng làm kinh tế Đảng, tuy hiệu quả ít nhưng từng bước có chăm lo trợ cấp thêm cho cán bộ xã, ấp hàng tháng. Huyện đã tổ chức nhiều đợt cho cán bộ tham quan trong nước, tổ chức một số cán bộ tham quan nước ngoài.

Qui hoạch cán bộ dự bị theo Chỉ thị 19/TU được thực hiện cơ bản, trong đó đã thống nhất lập danh sách cán bộ dự bị cấp huyện cho 13 chức danh trong TV.HU được Thành uỷ duyệt. Sau qui hạoch, huyện tiếp tục đưa số cán bộ qui hoạch dự học các lớp theo kế hoạch. Gắn công tác qui hoạch cán bộ, công tác cán bộ nữ cũng luôn được chú trọng. Đặc biệt từ khi có CT44/BBT về công tác cán bộ nữ, huyện có chủ trương đánh giá lại lực lượng cán bộ nữ để tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, đề bạt cán bộ nữ vào những vị trí quan trọng, tạo điều kiện cho cán bộ nữ đóng góp công sức vào sự nghiệp cách mạng chung. Hiện nay, CBCNV nữ chiếm tỷ lệ 62,08% trong tổng số CBCNV, trong đó cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý, chiếm 19,02% trong tổng số cán bộ lãnh đạo quản lý chung toàn huyện.

Công tác kiểm tra thường xuyên được thực hiện: Để ngăn ngừa đảng viên sai phạm, huyện đã tổ chức kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng gần 3.500 lượt đảng viên và kiểm tra 126 lượt tổ chức cơ sở Đảng. Qua kiểm tra, phát hiện 54 đảng viên vi phạm, phải xử lý kỷ luật. Sau kiểm tra có phân loại rõ đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng mạnh yếu để từng đảng viên và cơ sở Đảng kịp thời phát huy và sửa chữa những mặt chưa tốt. Đã tổ chức kiểm tra thực hiện nghị quyết Đảng ở 13 cơ sở và kiểm tra 2.572 lượt đảng viên và 85 lượt cơ sở đảng về việc chấp hành và thu nộp, đóng đảng phí. Những đơn thư tố cáo được đảng viên kịp thời giải quyết đạt 100% so nhiệm kỳ trước, đơn tố cáo giảm được 5%.

Đã xử lý nghiêm minh các đảng viên sai phạm, được nội bộ Đảng và nhân dân đồng tình, có tác dụng giáo dục trong Đảng. Đã xử lý 73 đảng viên, trong đó đảng viên bị khai trừ chiếm 21,9%, đảng viên nữ bị kỷ luật 16,43%. Nội dung sai phạm chủ yếu bao gồm sai phạm về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, sai phạm về pháp luật Nhà nước, phẩm chất đạo đức. So nhiệm kỳ trước, đảng viên bị kỷ luật giảm 23,2%. Song song xem xét công nhận 47 đảng viên bị kỷ luật, đã sửa chữa khuyết điểm.

Cải tiến đổi mới trong cách lãnh đạo: Có nhiều tiến bộ. Đầu nhiệm kỳ, Huyện uỷ xây dựng qui chế làm việc và phân công BCH thực hiện qui chế, trong đó luôn giữ nghiêm nguyên tắc “Tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Tinh thần đoàn kết thống nhất trong nội bộ BCH trong Đảng bộ huyện, luôn được gìn giữ. Mối quan hệ giữa TT.HU – TT.UB huyện – HĐND huyện, giữa TT.HU với các ban Đảng, các đoàn thể cũng từng bước cải tiến hơn, trong đó đã giữ thường xuyên được lịch làm việc định kỳ để cùng bàn  thống nhất, tập trung chỉ đạo những vấn đề trọng tâm của huyện. Trong chỉ đạo, theo NQ.HU, TV.HU – TT.HU có chú ý sơ tổng kết, hội thảo một số chuyên đề để nắm và chỉ đạo sâu những yêu cầu cần thiết. Việc họp giao ban định kỳ giữa TT.HU và bí thư xã – TT thường xuyên, không buông lỏng. Đối với những kiến nghị thông qua Đại hội cơ sở, Huyện uỷ đã cùng TT.UB huyện thống nhất chỉ đạo giải quyết, giúp cơ sở có thêm điều kiện hoạt động tốt hơn. Hai năm gần đây, Huyện uỷ cùng HĐND huyện – UB huyện chủ trì tổ chức một số cuộc họp mặt cuối năm đối với các đồng chí TV.HU các khoá trước, đảng viên 40-50 năm tuổi Đảng, cán bộ cấp ấp, giáo viên tiêu biểu… tạo thêm sự gắn bó chiều sâu về mặt chính trị. Theo chủ trương huyện uỷ hầu hết các cấp uỷ xã – TT và một số cấp uỷ ban ngành đã xây dựng được qui chế làm việc cả nhiệm kỳ và sau thực hiện NQ3/TW, một số đã xây dựng thêm qui chế hoạt động theo Qui định 50/TW về mô hình sinh hoạt chi đảng bộ nông thôn. Hầu hết các đồng chí lãnh đạo ở cơ sở có tinh thần trách nhiệm cao, về dự họp khá đông đủ trong các cuộc họp Huyện uỷ triệu tập. Những cuộc họp chuyên đề, hội thảo, nhiều đồng chí đào sâu suy nghĩ, chuẩn bị ý kiến phát biểu chất lựng, tham gia tốt vào sự lãnh đạo chung của Huyện Đảng bộ.

Tồn tại, yếu kém:

Công tác dân vận của Đảng vẫn còn nhiều thiếu sót. Hiện còn khoảng 30% cơ sở chưa thực hiện tốt công tác vận động quần chúng. Một bộ phận CBĐV chưa nhận thức sâu 4 quan điểm vận động quần chúng theo NQ8B/TW, làm công tác vận động quần chúng chưa tốt. Huyện uỷ, các cấp uỷ cơ sở còn chậm khảo sát, đi sâu phân tích biến động cơ sở giai cấp xã hội, tình hình quần chúng trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, để có sự lãnh đạo phù hợp. Một số cán bộ viên chức Nhà nước thiếu quan điểm quần chúng, từng lúc từng nơi, chưa thể hiện đầy đủ chính quyền là của dân, vì dân.

So yêu cầu nhiệm vụ mới, tổ chức và hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể chưa ngang tầm (số lượng chưa cao, chất lượng còn thấp), trong đó Đoàn thanh niên, Hội LHTN chỉ mới đưa vào tổ chức 10% thanh niên, Hội nông dân huyện chỉ mới phát triển trên 23% nông dân vào tổ chức, Hội phụ nữ kết nạp hội viên cao nhất cũng chỉ mới trên 40% so tổng số phụ nữ toàn huyện… Hoạt động đoàn thể, Mặt trận ở cơ sở mạnh yếu không đồng đều. Đoàn thanh niên ở ấp nhiều nơi còn yếu. Tổ chức công đoàn ngoài QD chưa mạnh. Công đoàn chưa thật sự là chỗ dựa vững chắc để bảo vệ quyền lợi hợp lý cho người lao động, đa số công nhân ngoài QD chưa nắm luật lao động. Gần đây, các đoàn thể, mặt trận, biểu hiện có lúc năng chăm lo quyền lợi đời sống vật chất, nhẹ giáo dục đoàn viên, hội viên giác ngộ lý tưởng cách mạng, nghĩa vụ công dân… Khâu yếu cơ bản hiện nay của các đoàn thể - mặt trận là nắm quần chúng, nắm thực lực chưa vững chắc, nhất là việc xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt ở ấp, tổ nhân dân, tổ dân phố, trong khu vực đầu tư liên doanh, trong vùng đồng bào có đạo, đồng bào Hoa, trong tầng lớp trí thức, những gia đình có thân nhân nước ngoài… còn nhiều hạn chế.

Quản lý nhà nước: Trên một số mặt, một số địa bàn thiếu chặt chẽ. Trong giai đoạn hiện nay, số đông cán bộ chính quyền của huyện chưa được chuyên môn hoá, một số cán bộ tham mưu sai đã dẫn đến trong chỉ đạo, quản lý, có mặt còn sơ hở nhất là về nhà, đất gây hậu quả xấu. Công tác qui hoạch cán bộ hành chánh chậm thực hiện, chưa nề nếp, khoa học. Gần đây, một số phòng ban cử cán bộ đi học không đúng theo yêu cầu, lãng phí tiền của, công sức, ảnh hưởng hiệu quả công việc. Thực hiện kiện toàn sắp xếp bộ máy nhưng lại thiếu ban hành đồng bộ qui định hoạt động nên nhiều lãnh vực quản lý hành chánh còn bị buông lỏng. Việc thực hiện QĐ 1852 có những mặt chưa phù hợp thực tiễn cơ sở.

- Công tác xây dựng Đảng còn nhiều mặt cần quan tâm đúng mức:

- Tuy Đảng đã có chủ trương, định hướng đúng nhưng việc cụ thể hoá NQ Đảng để thực hiện ở cấp huyện và cơ sở chưa đồng bộ, dẫn đến một số mặt đạt kết quả thấp. Ngoài nguyên nhân khách quan, về chủ quan, ý thức chấp hành NQ ở một số CBĐV không nghiêm. Trong chỉ đạo có việc thiếu cụ thể (cả nhiệm kỳ, BCH Huyện Đảng bộ chưa có NQ chuyên đề về kinh tế), thiếu kiểm tra kịp thời. Một vài đơn vị do cục bộ tư lợi địa phương, làm điều sai trái (mua bán đất nhà, phân chia nội bộ…) làm mất cán bộ, ảnh hưởng chủ trương, NQ Đảng, ảnh hưởng lòng tin nhân dân.

Đại bộ phận CBĐV tin vào khả năng thực hiện “Dân giàu nước mạnh”, nhưng còn băn khoăn thực hiện “Xã hội công bằng văn minh”, lo ngại qua phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường, tính giai cấp trong Đảng bị ảnh hưởng, lo trong bước chuyển nền kinh tế thị trường, tồn tại xã hội còn nhiều, ảnh hưởng văn hoá phẩm độc hại dễ làm xoáy mòn nền tảng đạo đức xã hội, làm hư hỏng một bộ phận thanh thiếu niên. Trong băn khoăn này, tư tưởng một bộ phận CBĐV rất lo âu trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay, kinh tế tư nhân phát triển mạnh nhưng Nhà nước không quản lý chặt được, trong khi kinh tế quốc doanh, HTX ngày càng thu hẹp, như vậy, khó bảo đảm phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Một số CBĐV cũng rất quan tâm đến lực lượng kế thừa, lo lớp trẻ chạy theo lối sống thực dụng, quên lý tưởng, đặc biệt lo điều kiện học hành, việc làm… của con em ngoại thành, khi kinh tế đời sống còn nhiều khó khăn…

Gần đây, có biểu hiện một bộ phận đảng viên còn năng về cá nhân hơn phục vụ lợi ích chung, một số cán bộ chính quyền rất ngại chuyển sang công tác Đảng, một bộ phận CBĐV đi làm chỉ vì sinh kế, xem vào Đảng là biện pháp để ổn định công việc lâu dài, một bộ phận đảng viên khối kinh tế ít quan tâm học tập chính trị, ý chí vươn lên vì lý tưởng Đảng chưa thể hiện rõ nét. Đáng quan tâm, tính giai cấp trong một bộ phận CBĐV bị giảm sút do tác động kinh tế, đời sống, chủ nghĩa cá nhân chi phối, thiếu tu dưỡng rèn luyện nên bỏ Đảng, xin ra Đảng hoặc buông mỉnh vào sai phạm, phải bị kỷ luật. Một số ít đảng viên tự ý bỏ hoặc ít tham gia sinh hoạt Đảng, kể cả một vài đảng viên có quá trình tham gia cách mạng khá lâu. Gia đình có truyền thống cách mạng, đời sống kinh tế khá.

- Công tác tổ chức cán bộ  chuyển động chưa đồng đều. Một số đơn vị phát sinh có vấn đề phải mất nhiều thời gian củng cố, kiện toàn. Một số chi bộ yếu, vai trò lãnh đạo lu mờ, hình thức. Tổ chức bộ máy từng bước có củng cố, kiện toàn tinh giảm nhưng một số đơn vị chưa thật phù hợp thực tiễn, hiệu quả thực tế ở một số đơn vị , phòng ban còn kém. Do tiêu chuẩn đặt ra trong phân loại cơ sở Đảng cao hơn các lần trước, nên cơ sở Đảng vững mạnh năm 1994 chỉ đạt 50% (35/70 đơn vị) so chỉ tiêu NQ.ĐH cả nhiệm kỳ.

Công tác cán bộ so nhiệm kỳ trước có tiến bộ hơn nhưng vẫn còn tình trạng bố trí chấp vá, hụt hẫng, một số trường hợp còn chậm. Năng lực hoạt động một số cán bộ chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số cán bộ chưa năng động, chưa toàn tâm toàn ý chăm lo việc hung. Một số bí thư ngành còn hạn chế trình độ, chưa ngang tầm với thủ trưởng đơn vị. Khi đặt vấn đề điều động, bó trí một số cán bộ theo qui hoạch còn khó khăn, còn biểu hiện thích được bố trí công việc theo ý muốn. Việc giải quyết số cán bộ nằm chờ còn chậm.

Phát triển số lượng, chất lượng đảng viên cần quan tâm hơn. Cả nhiệm kỳ, phải xoá tên khỏi Đảng 114 đảng viên do những đảng viên này không còn thiết tha với Đảng và không đủ tư cách đảng viên. Phát triển Đảng trong lực lượng công nhân còn ít.

- Một số cấp uỷ chưa quan tâm lãnh đạo đồng bộ công tác kiểm tra, năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra ở cơ sở chưa đồng đều, kiêm nhiệm, dẫn đến tồn tại trong công tác kiểm tra là kiểm tra ngăn ngừa nhưng chưa mang lại tác dụng giáo dục cao, kiểm tra thực hiện NQ Đảng chưa nhiều, kiểm tra các đơn vị có vấn đề, có vụ còn chậm, ảnh hưởng tính kịp thời giáo dục trong Đảng. Các chi bộ ban ngành trực thuộc Huyện uỷ tổ chức kiểm tra ngăn ngừa đảng viên sai phạm, ít hơn các chi bộ trực thuộc Đảng bộ cơ sở khối xã - thị trấn.

- Công tác bảo vệ chính trị nội bộ có quan tâm từ việc xem xét kết nạp đảng viên, đưa vào cấp uỷ, đào tạo, bố trí cán bộ đều có chú ý làm rõ lịch sử chính trị của CBĐV. Tuy nhiên công tác này chưa quan tâm đúng mức, còn biểu hiện mất cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình của địch.

- Trong phong cách lãnh đạo: giờ giấc nhiều cuộc họp còn bê trễ. Một số cuộc họp dự không đủ, không đúng thành phần nên có việc, có yêu cầu tính đồng bộ trong thực hiện chưa cao. Toàn huyện hội họp còn nhiều, TT.HU chưa dành nhiều thời gian đi vào cơ sở. Việc sơ kết qui chế làm việc BCHHĐB chưa thực hiện được. Một vài chuyên đề, chất lượng tổng kết chưa cao, chưa rút ra về mặt lý luận qua tổng kết. Yêu cầu phân công HUV phụ trách xã chưa thực hiện tốt.

V. NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT – NGUYÊN NHÂN – BÀI HỌC THỰC TIỄN:

Năm năm qua, cùng sự phát triển chung đất nước, huyện Hóc Môn đã có những chuyển biến đáng kể, đạt thêm một số thành tựu mới. Về cơ bản, huyện luôn giữ vững thế ổn định chính trị, từng bước tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Nhu cầu ăn ở, học hành, đi lại trên địa bàn huyện tiến bộ rõ so nhiệm kỳ trước. Nhiều công trình mới xây dựng, làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang phát triển sinh động, trong đó huyện luôn có chủ trương phát huy các thành phần kinh tế để mọi người làm ăn, làm giàu chính đáng, tập trung chăm lo thực hiện chương trình XĐGN, góp phần quan trọng làm giảm bớt khoảng cách giữa giàu – nghèo trong xã hội. Từ đó đời sống xã hội toàn huyện được cải thiện, khởi sắc hẳn lên, tạo thêm được lòng tin của nhân dân Hóc Môn với Đảng, với chế độ.

Mục tiêu và một số chỉ tiêu trọng tâm đặt ra trong NQ.ĐH Đảng huyện lần VI, có bổ sung, điều chỉnh ở hội nghị giữa nhiệm kỳ như các chỉ tiêu về sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, giải quyết lao động, thuế, NVQS, phấn đấu đạt tốt, có chỉ tiêu đạt vượt. Sau thực hiện NQ3/TW, NQ8B/TW, sức chiến đấu toàn Huyện Đảng bộ từng bước nâng lên. An ninh quốc phòng luôn giữ vững trong mọi tình huống. Công tác nội chính, hoạt động văn hoá xã hội, hoạt động các đoàn thể, MTTQ, hộ thống chính quyền, đều có chuyển động về chất, góp phần quan trọng cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị huyện cả nhiệm kỳ. Cuối năm 1994, xét quá trình xây dựng huyện 20 năm gắn quá trình chiến đấu 2 thời kỳ, huyện được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Huyện anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân” và có 156 bà mẹ Hóc Môn được phong tặng “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, 2 xã Bà Điểm, Tân Xuân được phong tặng “xã anh hùng”. Đây là một trong những thành tựu vô giá, góp phần tô đậm thêm độ dày truyền thống huyện.

Tuy nhiên, huyện cũng còn không ít khó khăn, yếu kém: nét chung là kinh tế xã hội huyện tuy từng bước ổn định, phát triển, nhưng tốc độ vẫn còn chậm so tầm vóc một huyện có độ dày truyền thống, mọi mặt kinh tế, đời sống xã hội của huyện còn thấp so nội thành. Huyện cũng chưa khai thác tốt tiềm năng và chưa tạo được 1-2 công trình kinh tế - xã hội mũi nhọn để tạo đà cho kinh tế - xã hội huyện vượt trội hẳn lên. Cả sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, sản xuất nông nghiệp đều chưa tạo được sản phẩm chủ lực, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Các thành phần kinh tế phát triển mạnh nhưng quản lý Nhà nước khu vực kinh tế ngoài QD chưa chặt. Khối quốc doanh hoạt động rất khó khăn, thu hẹp dần. Chương trình XĐGN, chăm sóc diện chính sách có tốt hơn nhiều so nhiệm kỳ trước nhưng sự phân hoá giai cấp vẫn diễn ra có mặt gay gắt. Đời sống một bộ phận nhân dân, CBCNV/HCSN còn thấp. Sức chiến đấu toàn Huyện Đảng bộ có mặt chưa đồng bộ, một vài đơn vị sa vào sai phạm, phải kiểm tra xử lý, giải quyết tồn tại đến nay chưa xong, ảnh hưởng sự vươn lên đồng bộ chung của huyện. Chỉ tiêu xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh chưa đạt. An ninh quốc phòng, nội chính, còn những vấn đề tồn tại, cần được tiếp tục tập trung chỉ đạo. Việc phát huy cả hệ thống chính trị cần được đầu tư thêm, trong đó Đảng, chính quyền, đoàn thể - Mặt trận, đều phải được tiếp tục củng cố kiện toàn, đổi mới, để bắt kịp tình hình nhiệm vụ mới.

Từ những thành tựu, tồn tại cả nhiệm kỳ, huyện rút ra những nguyên nhân cũng là bài học kinh nghiệm thực tiễn là:

1. Trong bước phát triển quá độ lên CNXH hiện nay, việc đầu tiên mang tính quyết định đến sự phát triển chung của huyện là phải xem trọng việc đề ra định hướng đúng đắn. Cả nhiệm kỳ, nhờ nắm chắc đường lối chung, những định hướng lớn của NQ.ĐH VII, NQ hội nghị giữa nhiệm kỳ toàn quốc, thành phố, Huyện Đảng bộ Hóc Môn đã vận dụng, vạch những định hướng cho huyện phát triển phù hợp, trong đó đã quyết định tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông công nghiệp sang công nông nghiệp phù hợp với bước phát triển của một huyện đang có tốc độ đô thị hoá cao. Từ đó, tạo ra những tiền đề, điều kiện cho huyện không ngừng phát triển vươn lên vững mạnh.

2. Có chủ trương chiến lược đúng vẫn chưa đủ, cần phải có những giải pháp tương ứng để nghị quyết Đảng luôn mang tính khả thi. Suốt nhiệm kỳ, thực hiện định hướng chung, giải pháp cơ bản bao trùm nhất là huyện luôn đặt yêu cầu phát triển kinh tế ở vị trí trung tâm và xem việc xây dựng cả hệ thống  chính trị - xây dựng Đảng là yêu cầu then chốt (để từ thế ổn định chính trị sẽ phát triển mạnh kinh tế và từ phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo nền tảng giữ vững thế ổn định chính trị). Việc đầu tư lãnh đạo cũng phải đúng trọng tâm trọng điểm, có nghị quyết chuyên đề, không tản mạn, tràn lan. Phải nắm bắt được lượng thông tin nhiều chiều để có giải pháp phù hợp. Thường xuyên sơ tổng kết chuyên đề để trong bước quá độ nền kinh tế thị trường, qua tổn gkết thực tiễn, sẽ ngày càng nâng lý luận gắn thực tiễn, nắm chắc thực tế, bổ sung yêu cầu lãnh đạo. Suốt nhiệm kỳ, Huyện Đảng bộ chú trọng thực hiện khá tốt những giải pháp cơ bản nêu trên, nên tình hình huyện đã phát triển khá, có mặt đi vào chiều sâu.

3. Phải luôn xem trọng công tác vận động quần chúng. Xác định “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân” để từ quan điểm này, cả tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể phải luôn phát huy cao vai trò, sức đóng góp của nhân dân. Năm năm qua, huyện đã thực hiện khá tốt NQ8B/TW, từng bước mở rộng xã hội hoá nhiều phong trào, từ đó đã liên tục tạo được những động lực xã hội, đại bộ phận nhân dân Hóc Môn có điều kiện phát huy lòng yêu nước, tin Đảng, cùng đóng góp công sức rất lớn của mình cùng đưa huyện ngày càng đi lên.

4. Phải luôn giữ gìn sự đoàn kết thống nhất, đấu tranh xây dựng nội bộ, không xen động cơ cá nhân, tất cả vì lợi ích chung. Trong nhiệm kỳ qua, nhất là từ khi hội nghị giữa nhiệm kỳ huyện đến nay, BCH.HĐB luôn chú trọng giữ gìn được tinh thần đoàn kết, thống nhất. Từ cơ sở này, BCH đã xây dựng được sự đoàn kết thống nhất trong toàn Huyện Đảng bộ, cùng vượt qua được khó khăn, thực hiện tốt một số nhiệm vụ chung.

5. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Công tác cán bộ cần phải được xem trọng đúng mức trong mọi thời điểm. Thực tiễn đã cho thấy, một số nơi đạt vững mạnh do nơi đó có đội ngũ cán bộ tốt. Một số cơ sở có vấn đề, do đội ngũ cán bộ nơi đó không phấn đấu giữ gìn phẩm chất. Hiện nay, công tác cán bộ của huyện tuy đã từng bước được qui hoạch, sắp xếp bố trí, kiện toàn một số đơn vị, nhưng đội ngũ cán bộ huyện vẫn còn chấp vá, hụt hẫng, một số cán bộ trình độ, năng lực chưa ngang tầm, một số đơn vị cần kiện toàn. Huyện cần tiếp tục tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ, bồi dưỡng cán bộ đức tài song song, để cả bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể, mặt trận đủ sức thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Mặt khác, cần đẩy mạnh công tác kiểm tra trong Đảng, chính quyền, xử lý nghiêm công khai những đảng viên sai phạm để giáo dục chung trong Đảng bộ.

Thông báo