Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa các đ/c Đại biểu,
Thưa Đại hội,
Để chuẩn bị báo cáo tình hình trước Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ V, BCH Huyện Đảng bộ đã có dự thảo báo cáo để cán bộ tham gia. Đặc biệt trong phiên họp Đại biểu Đại hội ngày 10 và 11/7/1989, BCH Đảng bộ khóa tư đã tiếp thu ý kiến tham gia của các Đảng bộ và bổ sung vào báo cáo.
Hôm nay, trước Đại hội, tôi xin thay mặt BCH báo cáo những vấn đề lớn để thấy rõ những việc làm được, những việc chưa làm được trong phát triển kinh tế, chăm lo các vấn đề xã hội cũng như công tác xây dựng Đảng theo quan điểm đổi mới mà nghị quyết Đại hội VI đã nêu, từ đó xác định những chủ trương, biện pháp, những mục tiêu phấn đấu trong 2 năm (1989-1990).
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN CỦ CHI NHIỆM KỲ IV
Được sự quan tâm đầu tư của TW,TP và sự giúp đỡ của các đơn vị bạn, hơn 2 năm qua Đảng bộ và nhân dân Củ Chi phấn đấu ra sức thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu mà nghị quyết nhiệm kỳ IV đã nêu.
Nhìn chung qua các mặt kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng, công tác xây dựng Đảng, chính quyền, công tác quần chúng của Huyện trong hai năm qua đã có những chuyển biến tiến bộ bước đầu theo hướng đổi mới, đặc biệt trong mặt trận sản xuất nông nghiệp về diện tích sản lượng cây trồng, con vật nuôi đều tăng. Đời sống nhân dân được cải thiện hơn trước như lương thực, thực phẩm, nhà ở và các điều kiện sinh hoạt phúc lợi khác đều được tăng lên rõ rệt. Những sự phát triển nêu trên đã thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội trong việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt làm được nêu trên cũng còn một số mặt hạn chế, các vấn đề đặt ra thật mới mẽ nhưng điều kiện tổ chức thực hiện còn nhiều khó khăn, phức tạp, trong khi đó nhận thức của cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân chưa chuyển kịp theo tinh thần đổi mới. Đội ngũ cán bộ bước đầu có tìm tòi học hỏi, sáng tạo đổi mới cách nghĩ, cách làm nhưng còn ít, nêu việc vận dụng cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước còn nhiều lúng túng, chưa thật sự sâu sát, nhuần nhuyễn, do đó chưa khai thác hết thế mạnh tiềm năng của các thành phần kinh tế, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình sản xuất, yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Qua những mặt thuận lợi khó khăn nêu trên, tuy có nguyên nhân khách quan chi phối nhưng trước hết cần khẳng định là kiến thức, năng lực, sự nhận thức theo tinh thần đổi mới từ Huyện đến cơ sở của tất cả cán bộ đảng viên và nhân dân chưa nhuần nhuyễn chưa đều, còn hạn chế trong việc vận dụng tổ chức thực hiện nên tình hình kinh tế xã hội của huyện chưa được phát huy một cách tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về đất đai, lao động và cơ sở vật chất kỷ thuật hiện có.
I.- KINH TẾ XÃ HỘI:
1/ Sản xuất nông nghiệp:
Về trồng trọt:
Trong hai năm qua tình hình tranh chấp ruộng đất khá phức tạp, một mặt do biến động ruộng đất chung của Nam bộ đã tác động rật lớn đến phong trào HTH của Huyện, mặt khác do những thiếu sót trong điều chỉnh giao đất trước đây có phần chưa phù hợp. Do vậy, tình hình tranh chấp ruộng đất giữa nội bộ nông dân ngày càng nhiều, đặc biệt từ khi có nghị quyết 10 của BCT đến nay lại diễn ra phức tạp hơn. Từ tình hình trên Huyện đã đặt vấn đề giải quyết ổn định ruộng đất lên nhiệm vụ hàng đầu, với tinh thần chỉ đạo tích cực đến nay Củ Chi đã giải quyết được trên 3.000 vụ tranh chấp ruộng đất, theo kế hoạch 14 của HU, nhưng đây là vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp cần phải có thời gian dài để điều tra, đo đạt cấp giấyphép sử dụng thì mới có thể ổn định được. Đi đôi với việc ổn định tình hình ruộng đất, Huyện vừa tiếp tục chỉ đạo củng cố phong trào HTH và xem xét chuyển hướng hoạt động HTX.SX.NN đến nay đã có trên 20% đơn vị HTX làm dịch vụ sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, Huyện tích cực chỉ đạo đầu tư cho nông nghiệp từ việc xây dựng hệ thống thủy lợi kênh Đông theo công suất thiết kế là 14.017 ha, đến nay đã tới được 8.000 ha, kéo 37 km đường điện trung kế, 75 trạm hạ thế đưa tổng công suất lên 10.933 KVA và một số vật tư chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra cơ chế mới cũng được ban hành đã tạo cho nhân dân phấn khởi và an tâm bỏ vốn ra đầu tư sản xuất nhiều hơn…Những điều kiện trên đã góp phần tích cực cho việc đưa diện tích gieo trồng lên 37.726 ha, tăng 2.517 ha so năm 1986, trong đó có 5.000 ha lúa cao sản, hệ số sử dụng từ 1,2 đến 1,4 lần, năng suất bình quân 3.1 tấn/vụ/ha với sản lượng 76.235 tấn.
Về chăn nuôi:
Huyện vẫn tiếp tục giữ vững và phát triển được cả tổng đàn trâu bò, đàn gia cầm và heo tăng đáng kể. Riêng đàn heo năm 1987 là 32.267 con: năm 1988 lên 34.212 con. Ngoài ra việc nuôi trồng thủy sản cũng được tăng lên nhất là nuôi cá nước ngọt dọc theo tuyến kênh Đông.
Qua chỉ đạo tích cực của Huyện trong mặt trận sản xuất nông nghiệp, tuy chưa hoàn chỉnh nhưng năng lực sản xuất bước đầu được khơi dậy, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế gia đình có phát triển. Nhân tố mới trong sản xuất kinh doanh có hiệu quả xuất hiện ngày càng nhiều. Nông trường quốc doanh tổ chức lại sản xuất, đổi mới công tác quản lý, mang lại hiệu quả rõ rệt góp phần đưa tổng sản lượng lương thực lên 609,45 triệu đồng, tăng 11,2% so với nhiệm kỳ III. Riêng dọc theo tuyến kênh Đông đã tạo điều kiện cho nông dân sản xuất tăng thu trên 3,4 tỷ đồng năm 1988. Về kinh tế gia đình bắt đầu phát huy được năng lực, trí tuệ và tiềm lực vật chất, tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh trên đất nhận khoán có hiệu quả cao so với trước. Đó là nhờ sự lãnh đạo của Đảng và đầu tư cơ bản của nhà nước về điện, thủy lợi, giao thông, vật tư và cơ chế…đã tác động tích cực cho sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được tăng lên một bước. Về nhà ở đã tự xây cất tăng so với năm 1986 từ 75% lên 81% nhà ngói và tole, lương thực tăng 7kg/người so với nhiệm kỳ III, phương tiện đi lại, tư liệu sinh hoạt gia đình cũng như đời sống tinh thần đề cao so với trước.
2/ Sản xuất công nghiệp – TTCN:
Trong 2 năm qua tình hình sản xuất công nghiệp luôn diễn biến phức tạp, khó khăn nhất là nguồn vốn vật tư nguyên liệu, về tổ chức sản xuất, về tiêu thụ sản phẩm…nhưng với sự chỉ đạo tích cực theo tinh thần cơ chế mới quyết định 217 của HĐBT từng bước xóa bỏ bao cấp, xóa tư tưởng trong chờ ỷ lại. Các xí nghiệp đã tìm cách xoay sở trong tạo vốn, trong giải quyết công ăn việc làm, tiêu thụ sản phẩm đã góp phần đưa tổng giá trị sản lượng ngành công nghiệp trong năm 1988 lên 227 triệu đồng, tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 10%, nhưng so với kế hoạch thì mới đạt 50%. Chỉ riêng xí nghiệp thuốc lá và xí nghiệp chế biến thựcphẩm làm ăn có hiệu quả cao chiếm 25% nộp ngân sách.
Tuy nhiên trong sản xuất công nghiệp cũng còn một số hạn chế, ngay lúc thiếu vốn Huyện đã chỉ đạo mở thêm một xí nghiệp và nhiều ngành nghề mới để tạo thêm công ăn việc làm cho nhân dân nhằm tăng nguồn thu ngân sách, nhưng lại không xác định tập trung đầu tư cho ngành mũi nhọn là công nghiệp chế biến. Do vậy, càng diễn ra tình trạng thiếu vốn, thiếu tay nghề, chưa có kinh nghiệm quản lý nên dẫn đến một số xí nghiệp làm ăn hiệu quả không cao, thậm chí có xí nghiệp sản xuất bị thua lỗ.
3/ Xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, bưu điện, thủy lợi:
Trong lúc tình hình ngân sách luôn gặp nhiều khó khăn nhưng Huyện vẫn quan tâm đầu tư xây dựng để tăng thêm cơ sở vật chất kỷ thuật cho sản xuất thâm canh, các nhu cầu văn hóa và phúc lợi xã hội. Tổng số vốn đầu tư tăng 12,4 lần so với nhiệm kỳ III, trong đó hệ thống thủy lợi kênh Đông trên 40 tỷ đồng, hơn 1 tỷ cho việc hạ thế điện. Ngoài ra bà con nông dân cũng tự bỏ ra hơn 3 tỷ đồng tiền vốn để đầu tư phát triển sản xuất, với sự chỉ đạo tập trung trên, trong 2 năm qua có nhiều công trình được xây dựng và đưa vào sử dụng có hiệu quả kinh tế cao, phần lớn hệ thống thủy lợi kênh Đông được phát huy tác dụng. Hiện nay các xã đều có trạm xá, hệ thống điện phục vụ tiêu dùng và sản xuất, xây dựng mới 170 phòng học, nâng cấp trên 40 km đường đá đỏ, thi công cầu Đức Lập, phà Bến Súc, xây dựng thêm nhiều căn nhà tình nghĩa. Công tác thông tin bưu điện cũng được phát huy tích cực so với trước.
4/ Lưu thông phân phối:
Bước đầu đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giảm bộ máy gián tiếp để tăng cường cho sản xuất, hình thành mô hình sản xuất kinh doanh tổng hợp phục vụ đời sống nhân dân, nét nổi bậc là đã tăng cường liên doanh, liên kết, qua mua bán trao đổi để nhận thêm vật tư hàng hóa phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng làm giảm bớt tình trạng căng thẳng của quan hệ cung cầu, nhất là các mặt hàng vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, đồ dùng sinh hoạt gia đình.
Nhìn chung hoạt động của ngành phân phối lưu thông, qua thực hiện cơ chế hoạch toán kinh tế kinh doanh XHCN từng bước đổi mới phương thức kinh doanh. Một số cơ sở như công ty dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp…đã có những cố gắng trong xoay sở vật tư, nắm nguồn hàng, tạo vốn đã đem lại hiệu quả rõ rệt.
Công tác xuất nhập khẩu, có xác định được sản phẩm chủ yếu của Huyện nhưng do thiếu tiền mặt thu mua không đạt. Công tác tài chánh đã có những cố gắng trong huy động nguồn,chú ý thúc đầy sản xuất, nhưng trong năm 1988 tổng thu ngân sách mới đạt, 1 tỷ 576 triệu đồng, trong khi đó nông dân còn nợ thuế nông nghiệp khoảng 1,2 tỷ đồng, các đơn vị sản xuất kinh doanh bị chiếm dụng vốn 500-600 triệu đồng, các nguồn thu khác như thuế công thương nghiệp…cũng bị thất thu. Ngược lại các yêu cầu chi quá cao, có những khoản chi ngoài dự kiến dẫn đến mất cân đối ngân sách kéo dài.
Ngân hàng, qua thực hệ cơ chế mới, bước đầu ngành đã quản lý vốn, quản lý tiền mặt theo hướng chặt chẽ hơn, có cố gắng tháo gỡ cho một số cơ sở tiếp tục sản xuất, thu mua hàng xuất khẩu và chăm lo đời sống.
Tóm lại, hai năm qua tình hình kinh tế có phát triển. Đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp về diện tích và sản lượng đều được tăng lên, những chuyển biến ấy làm tiền đề cho bước phát triển những năm sau, mở ra hướng làm ăn mới. Do tình hình biến động ruộng đất luôn diễn ra khá phức tạp, sản lượng lương thực có tăng lên nhưng còn thấp so với yêu cầu và khả năng hiện có.
Trong sản xuất công nghiệp – TTCN, hệ thống sản xuất chưa được nghiên cứu, sắp xếp lại một cách hơp lý, mặt hàng còn đơn điệu, số lượng ít, chất lượng sản phẩm còn kém, giá thành cao khó tiêu thụ. Một số mặt hàng xuất khẩu và tiêu dùng từ nguyên liệu địa phương chưa được tổ chức sản xuất một cách có hiệu quả.
Trong xây dựng một số hạn mục công trường thủy lợi còn để kéo dài, hoặc quản lý khai thác chưa tốt. Năng lực vận tải, phương tiện đi lại, giao thông nông thôn, giao thông đồng ruộng phát triển chậm.
Lưu thông phân phối, thương nghiệp XHCN còn dựa vào cơ chế cũ, phương thức kinh doanh chậm đổi mới, chưa làm chủ thị trường, HTX.MB xã hoạt động yếu, làm ăn kém hiệu quả. Hệ thống dịch vụ chưa được tổ chức, sắp xếp lại hợp lý, có chiều hướng tăng dịch vụ ăn uống, chưa quan tâm đúng mức dịch vụ sản xuất và đời sống. Thu mua hàng địa phương không đạt kế hoạch. Công tác xuất nhập khẩu còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa chủ động khai thác, tạo nguồn vốn tự có trong nhân dân để tổ chức sản xuất các mặt hàng xuất khẩu.
Ngân sách nhìn chung còn căn thẳng, nhất là ngân sách xã, hiện nay còn nhiều xã chưa có kinh phí cấp lương cho cán bộ, đời sống của cán bộ còn gặp nhiều khó khăn.
Việc nhận thức, vận dụng thực hiện một số chính sách về kinh tế của Trung ương chưa sâu, chưa kỷ, chưa kịp thời cụ thể hóa nên một số cơ sở kinh tế quốc doanh gặp nhiều khó khăn, biên chế nặng nề, làm không nuôi đủ bộ máy, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh chưa được phát huy đúng mức. Kinh tế tập thể do ảnh hưởng cơ chế cũ khi chuyển sang cơ chế mới còn nhiều lúng túng.
Nói chung tình hình kinh tế của Huyện đang gặp nhiều khó khăn, sức sản xuất hàng hoá còn thấp, năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý điều hành còn hạn chế. Tiềm năng kinh tế (bao gồm đất đai, lao động, nguồn vốn và cơ sở vật chất) chưa được huy động hết và xây dựng có hiệu quả.
II-VĂN HÓA XÃ HỘI:
Hai năm qua, cùng với những bước phát triển kinh tế, chính sách và biện pháp về chăm lo các vấn đề xã hội cũng đã được Đảng bộ nhận thức,từng bước tổ chức có hiệu quả.
Sự nghiệp giáo dục vẫn được duy trì, một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục được thực hiện, nhưng hiện nay chất lượng giáo dục toàn diện có những giảm sút, đặc biệt là chất lượng đạo đức, tình trạng học sinh bỏ học ngày càng nhiều. Cơ sở vật chất còn thiếu thốn khó khăn, sự quan tâm của toàn xã hội chưa được đúng mức.
Các hoạt động văn hoá thông tin, truyền thanh có những cố gắng trong việc bám sát đường lối, quan điểm của Đảng để phục vụ các nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên cũng còn một số hoạt động văn hóa, văn nghệ chưa được kết hợp hài hòa giữa phục vụ và kinh doanh. Việc lựa chọn một số phim ảnh phục vụ trên địa bàn huyện chưa thật sự phù hợp gây tâm lý không tốt trong quần chúng nhân dân.
Hoạt động y tế có nhiều cố gắng trong việc phòng chống dịch và khám trị bệnh, sức khoẻ bà mẹ, trẻ em được quan tâm hơn trước. Qua thực hiệnkế hoạch hóa gia đình đã hạ tỷ lệ phát triển dân số từ 2,1% xuống còn 1,6%. Công tác TDTT có những mặt tiến bộ hơn trước những vẫn chưa thành phong trào sâu rộng trong quần chúng.
Chính sách xã hội luôn được quan tâm tổ chức thực hiện. Trong 2 năm qua Huyện đã phấn đấu xây dựng mới 57 căn nhà tình nghĩa, phân phối 161 khung nhà chính sách, tổ chức trao tặng 20 ngàn huân huy chương các loại cho hơn 10.000 gia đình và cá nhân có thành tích trong 2 thời kỳ kháng chiến. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn một số gia đình chính sách, nhất là những gia đình neo đơn, thiếu sức lao động còn gặp khó khăn, chúng ta vẫn chưa có biện pháp tích cực để huy động sự đóng góp của toàn xã hội để chăm lo hơn đối tượng này.
III.- AN NINH QUỐC PHÒNG:
Đảng bộ đã có chú ý giáo dục chính trị tư tưởng để làm cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân, các lực lượng vũ trang nhận thức được 2 nhiện vụ chiến lược trong giai đoạn mới. Tuy nhiên ở một số cơ sở, sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền trong lĩnh vực này chưa được quan tâm đúng mức, công tác gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm còn gặp nhiều khó khăn năm 1987 chỉ đạt 81%, năm 1988 đạt 100% chỉ tiêu. Công tác an ninh chính trị được giữ vững, riêng tình hình trật tự an toàn xã hội trong thời gian qua có những diễn biến phức tạp, các tội phạm hình sự có tăng so với trước, nhưng các ngành chức năng chưa chủ động đề ra được biện pháp ngăn chặn triệt để.
IV.- XÂY DỰNG ĐẢNG, NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC CHĂM LO CÔNG TÁC QUẦN CHÚNG:
1/ Công tác xây dựng Đảng:
- Công tác chính trị tư tưởng:
Hai năm qua bằng nhiều hình thức, biện pháp về giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đã làm cho cán bộ, đảng viên từng bước nhận thức được các quan điểm của nghị quyết Đại hội VI, các nghị quyết của TW,TP và Huyện. Nhờ vậy, bước đầu đã chuyển đổi được sự nhận thức về CNXH, về sử dụng các thành phần kinh tế, về sản xuất hàng hóa, về hoạch toán kinh doanh.
Qua nhiều đợt sinh hoạt chính trị, nhất là việc quán triệt và thực hiện nghị quyết 4 của Bộ Chính trị, chỉ thị 21 của BBT, thực hiện chủ trương “những việc cần làm ngay” Huyện đã chỉ đạo sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật để tạo ra sự tác động tổng hợp trong việc bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên đã giữ được phẩm chất, thể hiện sự vững vàng, thống nhất về ý chí hành động, ủng hộ cho công cuộc đổi mới.
Đứng trước yêu cầu mới, nhìn chung công tác tư tưởng còn lúng túng chưa có nội dung, phương pháp theo kịp diễn biến của tình hình. Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết một số nơi thiếu chu đáo, sơ xài, những quan điểm mới chưa được thấm sâu và nhuần nhuyễn trong từng cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nhận thức của một số bộ phận đảng viên chưa sâu sắc, còn giản đơn, thiếu nhiệt tình trong công tác, chưa mạnh dạn đấu tranh tự phê và phê bình để bảo vệ chân lý, lẻ phải và phê phán những biểu hiện lệch lạc, tiêu cực. Đặc biệt tư tưởng bảo thủ, trì trệ còn nặng, chưa mạnh dạn đổi mới, hệ thống và đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng từ Huyện đến cơ sở cò hạn chế.
- Về tổ chức cán bộ:
Qua Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhất là kỳ Đại hội vừa qua đã kiện toàn một bước, các Đảng ủy, chi ủy bước đầu thể hiện được tinh thần đổi mới, tuổi đời bình quân so với nhiệm kỳ trước giảm xuống 4,8 tuổi, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ tăng lên, đã thay đổi số cán bộ giữ các chức vụ Bí thư, Chủ tịch xã. Về tổ chức cơ sở Đảng, trong điều kiện chuyển sang cơ chế mới một số nơi vươn lên rõ rệt, đã cố gắng duy trì sinh hoạt, bước đầu có cải tiến nội dung, phương thức. Việc đánh giá sử dụng và bố trí cán bộ cũng trên tinh thần nói thẳng, nói thật. Qua phân tích chất lượng đảng viên năm 1987 kết quả 3.516 đảng viên, có 1.730 phấn đấu tốt, 1.400 đảng viên phấn đấu khá, 316 đảng viên yếu kém. Qua đây chọn được những đảng viên tốt, gương mẫu, đồng thời cũng thấy được số đảng viên yếu kém, để có kế hoạch bồi dưỡng và xử lý nghiêm minh những đ/c vi phạm kỷ luật. Trong nhiệm kỳ đã phát triển được 526 đảng viên, nâng tổng số đảng viên toàn Huyện lên 3.685 đảng viên chiếm 1,76% dân số. Trong nhiệm kỳ qua đã đào tạo, bồi dưỡng công tác Đảng được 2.492 cán bộ các loại ở trường TW,TP và tại chỗ. Đặc biệt Huyện ủy đã phấn đấu mở được 1 lớp lý luận trung cấp tại chức có 196 cán bộ chủ chốt đang theo học. Riêng cán bộ KHKT của Huyện có 3.467, trong đó 801 cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học, 1.619 cán bộ có trình độ trung cấp, và 1.047 cán bộ sơ cấp. Tuy nhiên, công tác tổ chức cũng còn nhiều hạn chế. Công tác cán bộ chưa huy hoạch, việc hiểu con người, bố trí sử dụng cán bộ chất lượng chưa cao. Phân công bố trí cán bộ còn làm theo kiểu cũ, chưa hợp lý, có lúc, có việc còn nặng tính chủ quan. Đối với cán bộ kém năng lực còn chần chừ chưa kiên quyết thay thế, ngược lại cán bộ có triển vọng thì không nâng lên giao nhiệm vụ kịp thời, cho nên công tác cán bộ vừa thừa lại vừa thiếu, theo yêu cầu bố trí lại thì không đáp ứng được. Năng lực trình độ quản lý trong cán bộ chủ chốt Huyện, xã còn yếu, đào tạo cán bộ nhiều nhưng chưa bố trí đúng chỗ, phát huy hiệu quả ít có chú ý xây dựng Đảng bộ các xã và Đảng bộ, chi bộ các đơn vị sản xuất kinh doanh nhưng chưa đủ mạnh, chất lượng kết nạp đảng viên mới còn hạn chế, do chưa giáo dục, rèn luyện thử thách nên đảng viên mới bị kỷ luật nhiều hơn trong nhiệm kỳ qua. Có một số đảng ủy như: Trung Lập Thượng, Phú Mỹ Hưng, An Phú, Hòa Phú, Tân Phú Trung…không theo kịp với yêu cầu đổi mới. Việc thực hiện tự phê bình và phê bình chưa được thường xuyên, bốn nề nếp sinh hoạt Đảng, kỷ cương còn lỏng lẻo, nhiều tổ chức cơ sở Đảng chưa làm tròn vai trò lãnh đạo ở cơ sở.
Công tác kiểm tra: Các cơ sở Đảng có nhiều cố gắng trong việc giữ gìn kỹ cương của Đảng, kịp thời giải quyết những vụ việc xảy ra về tinh thần trách nhiệm, ý thức chấp hành nghị quyết và vi phạm về phẩm chất đạo đức. Trong nhiệm kỳ đã xử lý 169 đảng viên sai phạm, tăng 40,8% so với nhiệm kỳ trước. Tuy nhiên công tác này cũng còn nặng về kiểm tra xử lý kỷ luật, chưa coi trọng biện pháp giáo dục để ngăn ngừa sai phạm.
2/ Chính quyền:
Hệ thống chính quyền từ Huyện đến cơ sở được kiện toàn sắp xếp lại theo mô hình mới. Riêng cơ quan hành chánh Huyện chỉ còn 14 phòng ban, 5 tổ chuyên môn, đã giảm lực lượng gián tiếp 151 người và trực tiếp là 189 người. Hoạt động của HĐND và UBND xã, thị trấn có tiến bộ trong việc tiếp xúc, phản ảnh tâm tư nguyện vọng của cử tri, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền từng bước đã đi vào qui chế.
Bộ máy Nhà nước tuy có tinh giảm, nhưng chưa triệt để, chưa đáp ứng yêu cầu, nên hiệu lực chưa cao, chưa phát huy tốt nhiệm vụ chức năng của mình. Một số UBND xã hiệu lực quản lý pháp luật kém, hoạt động yếu ớt, rời rạt, giờ giấc chưa nghiêm, không giải quyết thích đáng yêu cầu của bà con địa phương, làm cho hiệu lực quản lý hơn hai năm qua thấp đi. HĐND từ Huyện đến xã chưa thật sự đổi mới, vẫn còn mang nặng cơ cấu hình thức, 4 Ban chức năng chưa phát huy vai trò, chưa bán sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan Nhà nước, chưa sâu sát và phản ảnh kịp thời tâm tư nguyện vọng của quần chúng cho các cơ quan chức năng giải quyết.
Chức năng của chuyên chính vô sản chưa được đề cao nên việc chấp hành pháp luật chưa nghiêm, kỷ cương còn lỏng lẽo.
Nói chung công tác tổ chức bộ máy được kiện toàn một bước nhưng hiệu quả vẫn còn thấp. Việc giảm biên chế giải quyết người dôi ra đang là một khó khăn. Công tác tổ chức cán bộ chưa đáp ứng theo yêu cầu đổi mới. Việc bố trí, sử dụng, đào tạo, đề bạt, đổi mới cán bộ còn chậm. Năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện ở một số tổ chức cơ sở Đảng còn yếu, các nguyên tắt tổ chức sinh hoạt Đảng có nơi chưa được chấp hành nghiêm túc.
3/ Đoàn thể quần chúng:
Đảng bộ có quan tâm đến công tác đoàn thể quần chúng, từng đoàn thể có tích cực phấn đấu, hướng vào những vấn đề quan tâm nhất của từng giới quần chúng. Có kiện toàn củng cố tổ chức từ Huyện đến cơ sở, có tham gia các mặt công tác lớn như lao động sản xuất, ổn định đời sống, vận động NVQS, mua công trái, ủng hộ tuyến đầu Tổ quốc…góp phần xây dựng Đảng và chính quyền ỏ địa phương. Tuy nhiên nội dung, hình thức hoạt động chưa đổi mới thích hợp, chưa tạo được phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở nhằm khai thác, động viên mọi tiềm năng xã hội đóng góp vào việc phát triển kinh tế - xã hội và phát huy các thành phần kinh tế. Sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở còn yếu, nên tổ chức đoàn thể yếu, chưa đưa được biện pháp, nội dung hoạt động vào quần chúng, chất lượng đoàn viên, hội viên yếu. Do đó việc vận dụng quán triệt các chủ trương chính sách chưa ra dân được, nhân dân ý thức giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mình còn hạn chế.
IV.- NGUYÊN NHÂN ƯU KHUYẾT ĐIỂM:
1/ Ưu điểm:
Đảng bộ có tập trung trí tuệ vận dụng thích hợp các chỉ thị, nghị quyết của trên vào điều kiện cụ thể của Huyện, mạnh dạn tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, ngay từ đầu đã có hướng đi đúng như tập trung xây dựng mạng lưới điện, hệthống thuỷ nông kênh Đông, gắn sản xuất với chế biến và lưu thông phân phối.
Tư tưởng công thần, bao cấp từng bước được khắc phục, trong chỉ đạo có chú ý phát huy tính công khai, dân chủ, biết lấy lực lượng chính sách, nhất là đội ngũ cán bộ hưu trí làm hậu thuẩn, làm chổ dựa vững chắc cho địa phương. Quan tâm đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ (nhất là mở lớp bồi dưỡng Bí thư chi bộ).
Phong cách lãnh đạo sâu sát cơ sở, giải quyết từng vấn đề cụ thể, nhất là mở cơ chế. Phong trào đổi mới lúc đầu chưa chuyển biến, nhưng dần về sau thì thực hiện tích cực, mạnh dạn đưa ra mô hình Nông - Công - Thương - Tín - Dịch vụ, xuất khẩu tạo được một số mặt bước đầu cho sản xuất kinh doanh của Huyện.
2/ Khuyết điểm:
Nhận thức tư tưởng quan liêu bao cấp của Đảng bộ còn rất nặng, tuy mới có chuyển biến chừng mực trong từng lĩnh vực nhưng chưa theo kịp với tình hình nhiệm vụ mới. Chưa làm tốt việc quán triệt các chủ trương, chính sách và cung cấp thông tin hai chiều đến đảng viên và quần chúng, chưa thật sự lấy dân làm gốc. Việc nhận thức sâu sắc, tập trung dân chủ thiểu số phục tùng đa số, tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách theo chức năng còn hạn chế, một số cấp ủy viên từ huyện đến cơ sở chưa đủ mạnh, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm còn yếu, chưa kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái chân lý vì lợi ích chung, còn chần chừ do dự trước khó khăn.
Trong chỉ đạo thiếu tập trung, thiếu liên tục, thiếu hệ thống, chiều sâu, không đến nơi đến chốn, có sự vụ giải quyết kéo dài hàng năm, nhưng đảng viên và quần chúng chưa chấp nhận. Việc sơ, tổng kết rút kinh nghiệm và nhân điển hình tiên tiến còn yếu. Do đó trong cơ chế mới mở ra, nhận thức còn chậm, chưa đồng bộ trong Đảng bộ nên vận dụng lúng túng, nhiều ràng buộc, làm cản trở rất lớn trong công cuộc đổi mới và những tiến bộ mới. Nhìn chung tuy có đổi mới nhưng còn chậm và chưa nhiều, chỉ mới trong nghị quyết BTV, BCH và một số ngành của Huyện, khi xuống cơ sở thực hiện việc đổi mới không đồng bộ và càng chậm hơn.
Việc nắm và hiểu rõ cán bộ chưa sâu, chưa căn cơ, do đó sự đánh giá giáo dục bồi dưỡng, bố trí, quản lý, kiểm tra cán bộ không được thực hiện một cách có kế hoạch và nề nếp. Thiếu kết hợp quy hoạch gắn với đào tạo, chưa tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng bộ, bộ máy Nhà nước từ huyện đến cơ sở cho phù hợp với yêu cầu mới.
Hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên chưa vững mạnh, ý chí chiến đấu của một số đảng viên còn quá thấp nhất là ở cơ sở. Kỹ luật đảng viên chưa được đề cao, sinh hoạt chi bộ lỏng lẻo, chất lượng không đảm bảo, công tác quản lý cán bộ đảng viên thiếu chặt chẽ, phân công giao việc không rõ ràng, việc thực hiện tự phê bình và phê bình chưa thường xuyên, nhất là chi bộ nhỏ bên dưới chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị hiện nay.
Việc kiểm tra về nề nếp, chế độ, chức trách và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng đối với cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên không kịp thời, nhằm bổ sung sửa đổi những cái chưa phù hợp với tình hình mới, đồng thời uốn nắn những lệch lạc trong thực hiện nghị quyết và trong nhiệm vụ cụ thể. Chưa nhanh chống và kiên quyết thay thế những cán bộ kém năng lực, phẩm chất, không thực hiện Nghị quyết của Đảng, tùy tiện, xuyên tạc lẻ phải, không hoàn thành nhiệm vụ theo chức trách.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành nội chính còn thiếu sót, chưa vạch ra được yêu cầu nội dung để lãnh đạo khối nội chính chuyển đổi phương thức hoạt động phù hợp với tinh thần đổi mới, nên có ảnh hưởng nhất định đến mô hình phát triển sản xuất kinh doanh mới.
Phong cách làm việc chậm đổi mới, chưa bám vào quy chế, còn quan liêu giấy tờ, xa rời quần chúng, làm giảm lòng tin trong nhân dân.
V.- NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO:
1/ Cần tập trung đầu tư xây dựng, có trọng điểm cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Khai thác tốt năng lực hiện có của ngành chế biến và tiêu thụ nông sản, tạo thành cơ cấu nông công nghiệp, để thực hiện 3 chương trình kinh tế: sản xuất – lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu của Huyện.
2/ Lãnh đạo bằng nghị quyết, địnhhướng những biện pháp lớn và kiểm tra việc thực hiện. Nhà nước quản lý bằng pháp luật một cách nghiêm minh, để giữ vững nề nếp kỷ cương trật tự kinh tế-xã hội. Các đoàn thể quần chúng phải ra sức vận động nhân dân phát huy hết tiềm lực sẳn có nhằm thực hiện tốt nghị quyết của Đảng.
3/ Nghị quyết của Đảng đối với tư tưởng đổi mới phải được quán triệt, cụ thể hóa và phát triển quan điểm của nghị quyết thông suốt từ trong Đảng ra ngoài quần chúng, xuống tận cơ sở, cùng nói và làm theo nghị quyết. Phải thực sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở đấu tranh thực hiện nghị quyết của Đảng, cho việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất là sinh mệnh và là sức mạnh của Đảng bộ.
4/ Phải làm cho tổ chức cơ sở Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện 4 nề nếp sinh hoạt Đảng, thường xuyên đẩy mạnh tự phê bình và phê bình. Công tác cán bộ phải đi vào quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, hiểu người, hiểu việc bố trí hợp lý nhằm phát huy tốt hiệu quả.
5/ Phải bán sát thực tiễn ở cơ sở và quần chúng để phân tích tình hình thực tế, kịp thời sơ, tổng kết hoạt động thực tiễn và những mô hình làm ăn có hiệu quả, để khái quát được phương hướng, bước đi, cách đi, cơ chế sản xuất kinh doanh cùng với các vấn đề khác phù hợp với tình hình thực tế của Huyện.
Song kết quả đạt được vẫn còn thấp so với yêu cầu khả năng và điều kiện hiện có của Huyện, cho nên Đại hội Đảng bộ lần này có nhiệm vụ cần nghiêm túc đánh giá đúng, nhận ra được những thiếu sót, nhược điểm.
Dưới ánh sáng nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nghị quyết 2,3,4,5,6 của Ban Chấp hành TW khóa VI, nghị quyết 10, 16 của BCT và nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IV. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ V lần này xây dựng phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ phù hợp, để đưa Huyện đi lên một cách vững chắc trong 2 năm tới như sau:
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHỮNG
NHIỆM VỤ CHỦ YẾU VÀ BIỆN PHÁP CHÍNH
TRONG NĂM 1989-1990.
- Phương hướng chung: Trên cơ sở quán triệt đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng và kết quả bước đầu trong việc vận dụng thực tiễn ở địa phương, năm 1989-1990 Củ Chi tiếp tục bổ sung kế hoạch kinh tế - xã hội và xác định cơ cấu kinh tế: nông – công – thương nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu.
- Tập trung phát triển nông nghiệp toàn diện trong đó chú ý phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao các mặt hàng nông sản. Sắp xếp bố trí lại lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng dần đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phấn đấu bảo đảm an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, thực hiện quốc phòng toàn dân. Mở rộng dân chủ công khai trên mọi mặt, có lãnh đạo định hướng. Ra sức xây dựng Đảng bộ vững mạnh để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong năm 1989 – 1990.
Tư tưởng chỉ đạo chung: Ra sức lãnh đạo công tác tư tưởng cho toàn Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân, đổi mới cách nghĩ, cách làm đúng hướng, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, phát huy những quan điểm đúng về thời đại để khai thác mọi tiềm năng giải phóng sức sản xuất ở các thành phần kinh tế. Tập trung giải quyết ổn định tình hình ruộng đất cấp giấy phép cho người nông dân an tâm sản xuất. Thực sự trả quyền chủ động để tạo mọi điều kiện cho kinh tế quốc doanh vươn lên phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Tích cực mở rộng liên doanh, liên kết với các đơn vị bạn cũng như kiều bào nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho Huyện, trước nhất là công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác và một số yêu cầu cấp thiết phục vụ đời sống trước mắt.
* Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo tinh thần nghị quyết VI, đổi mới phương thức sản xuất kinh doanh, triệt để xóa bỏ tình trạng quan liêu bao cấp trong kinh tế quốc doanh và tập thể: tích cực nghiên cứu thị trường ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, phấn đấu mua hết nông sản dư thừa của nông dân với giá thỏa thuận thời điểm, khai thác tốt mọi nguồn thu từng bước góp phần cân đối ngân sách.
* Công tác tổ chức cán bộ có ý nghĩa quyết định. Xác định rõ chức năng lãnh đạo và kiểm tra, không tham gia vào việc điều hành và quản lý thực hiện của Nhà nước, nâng cao hơn nữa công tác xây dựng Đảng, chú ý đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ KHKT, kể cả tài năng ngoài quần chúng trong và ngoài huyện, để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội sau đây:
NHỮNG NHIỆM VỤ MỤC TIÊU CỤ THỂ
TRONG NĂM 1989-1990
I. - VỀ KINH TẾ XÃ HỘI, ĐỜI SỐNG.
1) Phát triển sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ theo tinh thần nghị quyết Đại hội thành phố lần thứ IV xác định Củ Chi là vành đai thực phẩm của thành phố, là huyện có cơ cấu kinh tế nông – công – thương nghiệp - dịch vị và xuất khẩu. Nhiệm vụ hàng đầu là phát triển sản xuất nông nghiệp, lấy ngắn nuôi dài. Tập trung sức khai thác hợp lý hệ thống thủy lợi kênh đông, điện để thâm canh tăng vụ đưa năng suất cao ở một số cây: lúa, đậu phọng, thuốc lá sợi vàng, cây thực phẩm, nhất là các loại có giá trị phục vụ cho xuất khẩu và chăn nuôi ( con heo) mức đầu tư vốn ít, có khả năng thu hồi nhanh cho việc tái tạo sản xuất những năm trước mắt và tạo điều kiện cho việc tích lũy vốn để đầu tư những cây con lâu dài như: cao su, tiêu, điều, bò sữa. Đồng thời xây dựng thêm một số xí nghiệp để chuẩn bị điều kiện cho sự phát triển ở những năm sau:
Trồng trọt: Với mục tiêu trên, năm 1989-1990 tiếp tục bổ sung lại quy hoạch theo vùng, ngành, cây, con có năng suất cao. Phấn đấu đến năm 1989 đưa tổng sản lượng lương thực đạt 83.500 tấn, năm 1990 là 87.000 tấn trong đó lúa 84.000 tấn, năng suất bình quân từ 3,2 đến 3,5 tấn/ha/vụ.
Trong nông nghiệp, Huyện xác định việc quy hoạch trồng cây công nghiệp cũng là một mũi nhọn quan trọng để phát triển nông nghiệp toàn diện, để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, tăng nhanh nguồn vốn tích lũy cho nền kinh tế địa phương. Vì vậy, trong năm 1989-1990 phải tạo sự chuyển biến mạnh mẽ việc phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, cây thực phẩm…trên các vùng theo mục tiêu như: cây lúa, đậu phọng, chuối, thuốc lá, điều, tiêu, mía, thơm, rau màu các loại. Tập trung trồng mới từ 500-800 ha cây cao su ở nông trường Phạm Văn Cội, Tân Trung, Quyết Thắng, các HTX.SX.NN và gia đình. Có kế hoạch tiếp nhận, quản lý và khai thác diện tích cao su sở Ba Lăng liên doanh với nông trường An Phú nhằm đưa tổng diện tích cao su của Huyện theo định hình là 5.000 ha, riêng trong năm 1989-1990 là 2.000 – 2.300 ha, liên doanh xây dựng nhà máy chế biến mũ cao su với công suất 1.000 tấn/ năm và chuẩn bị đến 1991-1992 lên 2.000 – 3.000 tấn.
Chăn nuôi: Huyện vẫn xác định con heo là con chủ lực, bằng mọi biện pháp tháo gỡ, khuyến khích trồng cây thức ăn gia súc mở rộng các cơ sở chế biến thức ăn bảo đảm chất lượng theo yêu cầu con nuôi. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết nắm nguồn thức ăn gia súc để đến 1990 lên 13.000 tấn phấn đấu đạt 50.000 con heo và 1,1 triệu gia cầm, giữ vững đàn trâu bò, phát động nuôi bò sữa, tôm, cá.
Để thực hiện được một số chỉ tiêu trên, Huyện tích cực huy động vốn, vật tư đầu tư cho sản xuất nông nghiệp.
Trước nhất là tập trung chỉ đạo khai thác tốt mạch nước ngầm, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi nội đồng,bảo quản và sử dụng tốt hệ thống thủy lợi kênh đông đến năm 1990 chủ động tưới tiêu theo định hướng cho vụ Đông xuân và Hè thu là 14.017 ha ( sẽ có kế hoạch chỉ đạo thống nhất giữa Thành phố, Huyện và Xã trong khai thác sử dụng nước).
Vật tư phải được xác định trên cơ sở chủ động nhằm cân đối kịp thời vụ. Phương thức mua bán phải được thay đổi phù hợp với điều kiện hiện nay là bán thẳng vật tư nông nghiệp cho nông dân để mua lại nông sản theo giá thỏa thuận thời điểm. Trong đầu tư phải xem xét đúng đối tượng những người có khả năng sản xuất để thu hồi được sản phẩm.
Để thực sự giải phóng năng lực sản xuất, trước mắt từ nay đến năm 1990 Huyện tập trung giải quyết ổn định cơ bản tình hình xáo trộn ruộng đất và cấp giấy phép sử dụng đất từ 10-15 năm cho người nông dân an tâm sản xuất. Tiếp tục nghiên cứu tinh thần nghị quyết 10 của BCT để vận dụng đề ra cơ chế quản lý kinh tế mới trong nông nghiệp phù hợp trên địa bàn Huyện. Tập trung cũng cố và nâng cao chất lượng hoạt động đối với một số HTX.SX.NN làm ăn có hiệu qủa, riêng các HTX yếu kém thì xem xét để chuyển cả nội dung lẫn hình thức hoạt động phù hợp với điều kiện thực tế. Các xã, thị trấn cần nghiên cứu tổ chức các dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp phát triểndưới sự quản lý của địa phương. Sắp xếp lại diện tích của các nông trường quốc doanh phù hợp với yêu cầu và khả năng hiện có nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi. Số còn lại phân cấp cho xã quản lý để xem xét giải quyết cho những nông dân thực sự sống bằng nghề nông nghiệp nhưng bị trắng tay. Đi đôi với việc củng cố quan hệ sản xuất, Huyện có chủ trương mời những chuyên gia giỏi về kinh tế, KHKT để bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ KHKT của Huyện, áp dụng các tiến bộ KHKT cho sản xuất nông nghiệp, lai tạo giống kỹ thuật nuôi trồng…thành lập Hội kinh tế vườn, mạnh dạn sử dụng những người có kinh nghiệm sản xuất giỏi trong các thành phần kinh tế để sản xuất nhiều hàng hóa cho xã hội, qua đó khai thác tốt các nguồn thu cho ngân sách.
Thực hiện đồng bộ các chủ trương trên, phấn đấu năm 1989 đưa tổng diện tích gieo trồng là 47.984 ha, hệ số sử dụng 1,74 lần, giá trị tổng sản lượng ngành nông nghiệp 826,418 triệu đồng, trong đó trồng trọt 559,572 triệu đồng chiếm 67,03%, chăn nuôi 266,546 triệu chiếm 32,97%.
Tiếp tục tổ chức lại sản xuất công nghiệp – TTCN phù hợp với cơ chế quản lý mới, phát huy hết năng lực, phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, khai thác tốt tiềm năng nguyên liệu địa phương mở rộng liên doanh, liên kết tạo thêm nguồn vật tư nguyên liệu. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nhằm tác động tích cực và thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thu hút được nhiều lao động để sản xuất ra ngày càng nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Nhưng do cơ sở sản xuất còn nhỏ và phân tán, nên được phát triển theo hướng sau đây:
Tăng cường năng lực thiết bị máy móc, bồi dưỡng và đào tạo tay nghề kỹ thuật cho người lao động, tranh thủ phát huy lực lượng KHKT, cân nhắc cán bộ trẻ, trình độ năng lực để ưu tiên cho các cơ sở quốc doanh, hợp doanh hiện có kể cả xí nghiệp 54. Cho phát triển xí nghiệp tư nhân ( kể cả dân trong nước cũng như ngườinước ngoài), đầu tư xây dựng trên địa bàn Huyện để thu hút thêm lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế quốc doanh, trước nhất là tập trung cho các cơ sở hiện có, làm ăn có hiệu qủa, như xí nghiệp thuốc lá, xí nghiệp chế biến thực phẩm, củng cố xí nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu, liên doanh trang bị mới máy móc, thiết bị cho xí nghiệp chế biến đậu phọng, dầu phọng, hạt điều, xí nghiệp chế biến mũ cao su…Riêng một số xí nghiệp, làm ăn kém hiệu qủa thì nghiên cứu thay đổi phương thức quản lý thích hợp bằng các hình thức như cho đấu thầu, thuê xí nghiệp hoặc bán những tài sản cố định, lạc hậu, nhằm bổ sung nguồn vốn sử dụng có hiệu qủa cao hơn.
Đi đôi với việc tập trung phát triển các khu vực quốc doanh và tập thể hiện có, cần có chánh sách động viên các thành phần kinh tế, khôi phôi phục những cơ sở sản xuất truyền thống, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng. Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở sản xuất công nghiệp của nội thành chuyển về nhằm thu hút một phần lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp.
Về xây dựng: Tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân, trước nhất là tập trung hoàn chỉnh và xây dựng mới một số công trình thủy lợi vừa và nhỏ, hoàn chỉnh các hệ thống cầu, cống trên các tuyến đường được phân cấp, đẩy mạnh phong trào làm thủy lợi nội đồng, triển khai tiếp hệ thống thủy lợi kênh Đông đưa lên phục vụ vùng cao theo tuyến nông trường An Phú xã An Nhơn Tây. Có kế hoạch xây dựng thêm một số trạm và đường điện phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân ở các xã xa như An Phú, Phú Mỹ Hưng. Tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp trong nhân dân để xây dựng trường học, trạm xá, các công trình phúc lợi xã hội…Đặc biệt trong năm 1989-1990 Huyện tích cực vận động từ các nguồn vốn để xây dựng thêm từ 300 – 400 căn nhà tình nghĩa. Nghiên cứu cho góp vốn để đấu thầu xây dựng lại các chợ theo cụm kinh tế như: chợ Phước Thạnh, chợ Trung Lập Hạ, chợ Tân Thông Hội, chợ Tân Quy.
Về giao thông vận tải: Cần chỉ đạo tích cực việc phân cấp cụ thể cho các xã, thị trấn trong việc quản lý sửa các tuyến đường trong thôn xóm, kiến nghị TP xem xét phân cấp một số cầu cống, tuyến đường ở lộ 7, 8, 15 để cấp kinh phí cho Huyện kịp thời sửa chữa và quản lý tốt hơn.
Nghiên cứu cũng cố lại tổ chức phòng giao thông và Liên hiệp xã vận tải thành một đầu mối để nâng cao chất lượng hoạt động phục vụ theo yêu cầu chung của Huyện. Qua tu sửa lại các tuyến đường thành phố tiếp tục đầu tư xây dựng mạng lưới điện trung thế phục vụ cho sản xuất và thấp sáng cho nhân dân theo KH.
Về cơ chế quản lý, ngành cần thực hiện tốt hơn nữa theo quyết định 306 của BCT và 217 của HĐBT, mở rộng quyền dân chủ và thực sự trả quyền chủ động cho cơ sở nhất là việc thực hiện chế độ chủ trương ở các đơn vị sản xuất kinh doanh, đồng thời đề ra cơ chế chánh sách theo tinh thần đổi mới, phát triển tốt các thành phần kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến.
3) Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành PPLT, từng bước ổn định ngành hàng phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu.
Tập trung chỉ đạo chuyển hướng phương thức kinh doanh của thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp, HTX.MB theo tinh thần đổi mới: sắp xếp lại hệ thống thương nghiệp, dịch vụ mở rộng các hình thức đại lý, nâng cao năng lực và hiệu quả kinh doanh của HTX.MB xã, đáp ứng nhu cầu hàng hóa tiêu dùng cho nhân dân. Trong đó xác định công tác xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng từ việc đầu tư cho sản xuất đến việc trao đổi, mua hàng nông sản dư thừa của nông dân sản xuất ra theo giá thỏa thuận. Phấn đấu đến năm 1990 ngành xuất khẩu đạt 5,5 triệu rúp đô la. Kiên quyết xóa bao cấp trong khu vực PPLT, tiếp tục chỉ đạo tốt hơn nữa về công tác quản lý ngân sách, đẩy mạnh công tác thu thuế, thu nợ, nhất là thuế nông nghiệp để phấn đấu năm 1989 đưa tổng nguồn thu lên 3,6 tỷ đồng, đến năm 1990 các xã có khả năng tự lực ngân sách.
II.- GIÁO DỤC VĂN HÓA Y TẾ.
Về giáo dục :
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo xu hướng đổi mới, đặc biệt là quan tâm đến chất lượng dạy và học, nhất là giáo dục đạo đức kết hợp chặt chẻ 3 môi trường giáo dục. Tiêu chuẩn và hợp lý hóa đội ngũ cán bộ công nhân viên ngành giáo dục để chuyển và giảm dần cán bộ công nhân viên không đủ điều kiện năng lực đứng lớp. Lãnh đạo việc đầu tư thích đáng cho ngành giáo dục , nhất là việc xây dựng sửa sang bảo quản trường lớp. Phấn đấu xóa nạn mù chữ, phổ cập cấp 1, phát triển cấp 2, mẫu giáo, nhà trẻ theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Huyện, Đồng thời mở rộng trường hệ B để đến năm 1992-1993 đạt từ 40-50%. Với phương châm trên, đến năm 1990-1991 có thể xóa hẳn các lớp ca 3, có kế hoạch lãnh đạo việc củng cố trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp và trung tâm dạy nghề đi vào hoạt động đúng chức năng.
- Văn hóa thông tin:
Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành VHTT, trước nhất là lãnh đạo đài truyền thanh và tờ tin của Huyện thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị nhằm thông tin 2 chiều để kịp thời phục vụ sự lãnh đạo chung. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa nghệ thuật lành mạnh, tích cực phát triển phong trào văn nghệ quần chúng, xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân. Tăng cường các hoạt động văn hóa nghệ thuật đa dạng, phong phú đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhân dân. Riêng các xã xa, hẻo lánh, công ty quốc doanh chiếu bóng cần có kế hoạch thích hợp với xã tổ chức các điểm chiếu phim, Video cassette phục vụ tốt cho nhân dân dưới sự quản lý của nhà nước, tích cực đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, mê tín dị đoan, các loại văn hóa đồi trụy phản động, nhất là trong lĩnh vực chiếu phim Video cassette .
Tăng cường giáo dục truyền thống ngày càng sâu rộng trong nhân dân, sưu tầm và xây dựng lại các di tích lịch sử, tiểu sử anh hùng vũ trang, liên doanh với công ty du lịch thành phố để mở khu du lịch Bến Đình trở thành nơi giáo dục truyền thống và kinh doanh du lịch; xây dựng trung tâm văn hóa tại thị trấn Củ Chi mở rộng hoạt động văn hóa ở các cụm kinh tế xã hội.
- Y tế thể dục thể thao:
Tiếp tục nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân từ Huyện đến cơ sở có kế hoạch quản lý và sử dụng tốt mạng lưới y tế cộng đồng, sắp xếp quản lý y tế tư nhân. Chú ý tăng cường y, Bác sĩ cho 20 xã và thị trấn nhằm đảm bảo thực hiện tốt việc phòng chống các loại dịch bệnh, làm tốt công tác vệ sinh phòng bệnh, ngăn ngừa các bệnh truyền nhiểm…từng bước thu viện phí ( có chính sách ) xóa dần hiện tượng bao cấp trong ngành y tế. Tiếp tục tranh thủ sự viện trợ của các tổ chức quốc tế của người nước ngoài góp phần chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, bảo vệ bà mẹ trẻ em, vận động tốt công tác sinh đẻ có kế hoạch, đến năm 1990 còn 1,4% dân số.
Nâng cao chất lượng hoạt động của ngành TDTT, nhất là quyết tâm đẩy mạnh phong trào ở cơ sở, trong trường học, cơ quan, xí nghiệp và hướng mọi hoạt động TDTT đi vào phục vụ sức khỏe và tăng cường thể lực cho nhân dân.
- Chánh sách TBXH:
Tập trung lãnh đạo thực hiện nghị định 236 của HĐBT cho các đối tượng chánh sách đồng thời vận động toàn Đảng, toàn dân thực hiện chánh sách TBXH với tinh thần kết nghĩa đở đầu các gia đình neo đơn, nghèo khó, xây dựng nhà tình nghĩa. Phấn đấu đến năm 1990 với phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” và được sự giúp đỡ một phần ngân sách của TW, TP cũng như kiều bào và người nước ngoài, Huyện cố gắng xóa dần các nhà tre dột nát trong diện chánh sách và xây dựng mới 300 căn nhà tình nghĩa, trong 754 căn nhà chánh sách hiện đang gặp khó khăn về nhà ở. Giải quyết tốt công ăn việc làm cho gia đình chánh sách, thường xuyên tổ chức thăm hỏi, giúp đở cho những gia đình neo đơn và diện chánh sách khó khăn. Tiếp tục soátxét lại những trường hợp khai mang để hưởng chánh sách. Sắp xếp tổ chức lại câu lạc bộ hưu trí đi vào hoạt động.
Ngoài việc thực hiện các chế độ chính sách theo quy định chung. Huyện có kế hoạch chỉ đạo cụ thể xóa bao cấp từng phần đối với một số ngành sự nghiệp có thu, đồng thời, có chánh sách để từng bước nâng cao mức sống của cán bộ công nhân viên khu vực nầy.
III. – CÔNG TÁC CHĂM LO ĐỜI SỐNG.
Với khả năng và điều kiện như trên, Huyện Đảng bộ tập trung lãnh đạo tốt các mục tiêu kinh tế xã hội, phấn đấu đến năm 1990:
- Đưa mức sống của nhân dân lao động, cán bộ công nhân viên lên một bước khá hơn hiện nay, trong đó chú ý đẩy mạnh phát triển kinh tế gia đình, tiếp tục điều hòa thu nhập hợp lýgiữa 2 khu vực sản xuất kinh doanh và hành chánh sự nghiệp.
Từng bước lo cho mọi người dân trong tuổi lao động có công ăn việc làm chính đáng, cố gắng xóa những trường hợp nghèo đói.
Về lương thực: Năm 1989 phấn đấu bình quân 400 kg/người, năm 1990 415 kg/người.
- Thịt cá các loại: bình quân 16 kg/ người, năm 1990 18 kg/người.
- Nhà ở phấn đấu đến năm 1990 có 80% nhà ngói, 5% nhà tole, đồng thời có kế hoạch động viên từ mọi nguồn vốn vật tư để tạo mọi điều kiện cho nhân dân sửa chữa lại những nhà tranh tre dột nát.
IV. – AN NINH QUỐC PHÒNG.
Nâng cao cao ý thức cảnh giác cách mạngtrong cán bộ, đảng viên và nhân dân, phát huy tinh thần trách nhiệm và trình độ nghiệp vụ cho lực lượng cảnh sátvà an ninh, lực lượng công an bán chuyên trách ở xã, ấp quán triệt và bảo vệ đường lối chủ trương chánh sách của Đảng, pháp luật nhà nước nhất là quan điểm đổi mới của Đảng hiện nay.
Phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc với tinh thần nhân dân làm chủ xóm ấp nhằm đấu tranh chống các loại tội phạm, bảo vệ tốt an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội, làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ nội bộ tài sản XHCN.
Để làm tốt nhiệm vụ trên, cần phải tiếp tục thực hiện quyết định 140 của HĐBT và chỉ thị 04 của Bộ nội vụ nhằm kiện toàn và nâng cao sức chiến đấu, tinh gọn bộ máy lực lượng chính quy. Nghiên cứu áp dụng các chế độ chánh sách cho lực lượng công an bán chuyên trách.
- Đảng bộ trực tiếp lãnh đạo huy động sức mạnh tổng hợp bộ máy nhà nước cùng các đoàn thể quần chúng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp.
Từng bước bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch phòng thủ khu vực vững chắc trên địa bàn Huyện. Củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng chính trị của dân quân tự vệ ở các cơ sở. Đăng ký quản lý hết nam thanh niên ở độ tuổi sẳn sàng nhập ngũ, hoàn thành chỉ tiêu NVQS cấp trên giao hàng năm. Đăng ký quản lý quân dự bị đúng tiêu chuẩn và chuyên nghiệp quân sự để sẳn sàng động viên theo yêu cầu thời chiến. Kết hợp chặt chẽ với các đơn vị trú quân canh phòng giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng cơ quan dân sự các cấp đủ mạnh làm tham mưu tốt cho cấp ủy, chính quyền địa phương.
Tăng cường giáo dục pháp chế XHCN trong nhân dân “ Sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật ”. Củng cố và phối hợp đồng bộ các cơ quan: Thanh tra, Kiểm tra, Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Tư pháp chuyển hướng hoạt động phục vụ kịp thời cho công tác đổi mới cơ chế quản lý, giải quyết tốt các vụ tồn động và mới phát sinh, nghiêm trị những hành vi làm sai pháp luật. Tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết nhanh các đơn thư tố cáo và khiếu nại, phấn đấu không để tồn động án, các ngành chức năng tăng cường kiểm tra để ngăn chặn các trường hợp làm sai pháp luật.
V. – XÂY DỰNG ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN, ĐOÀN THỂ.
1) Công tác chính trị tư tưởng:
Huyện xác định công tác giáo dục chính trị tư tưởng là một trong những nhiệm vụ quan trọng phải được đi trước một bước để thực hiện các công tác trọng tâm khác nhằm làm chuyển đổi tư tưởng nhận thức cho cán bộ đảng viên và quần chúng theo tinh thần đổi mới, chống những tư tưởng bảo thủ trì trệ làm cản trở đến các hoạt động kinh tế xã hội. Giáo dục nâng cao lập trường giai cấp công nhân thật vững vàng cho cán bộ đảng viên, củng cố hơn nữa lòng tin của quần chúng đối với Đảng. Nâng cao trình độ lý luận, trình độ quản lý, bám sát thực tiển ở cơ sở và phong trào quần chúng. Phấn đấu từ nay đến năm 1990 hoàn thành lớp lý luận chính trị trung cấp cho gần 200 cán bộ chủ chốt của Huyện, bồi dưỡng chương trình lý luận chính trị sơ cấp cho 80% cán bộ, đảng viên và một số cán bộ ngoài Đảng. Bồi dưỡng công tác Đảng ở cơ sở cho Đảng ủy viên, chi ủy viên đang nhiệm và số cán bộ dự bị nhiệm kỳ sau.
2) Công tác tổ chức:
Ra sức củng cố kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo, làm rỏ vai trò của Đảng và chức năng quản lý của nhà nước. Do vậy phải đổi mới cán bộ, xây dựng cán bộ lãnh đạo từ Huyện đến cơ sở có trình độ phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu đổi mới, đảm bảo đủ sức thực hiện các nghị quyết của Đảng, chủ trương chánh sách của nhà nước. Gắn việc củng cố tổ chức cơ sở Đảng với việc củng cố chánh quyền, làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, đào tạo cán bộ kế cận, nhất là cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ KHKT, cán bộ nữ, trẻ, để bố trí hợp lý số cán bộ được đào tạo qua trường lớp, chống tư tưởng trẻ hóa hoặc cơ cấu theo hình thức. Tiếp tục đổi mới công tác phát triển Đảng, trước nhất là phải chú trọng trình độ về mọi mặt không nên chạy theo số lượng. Công tác tổ chức cán bộ là điều kiện quyết định trong việc lãnh đạo tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Do vậy, trong những năm tới cần phải tập trung nâng cao năng lực đảm bảo cho các cấp ủy Đảng vững mạnh thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, sức mạnh đoàn kết và năng lực lãnh đạo của cán bộ, phải chú ý tăng cường cán bộ tốt, có trình độ năng lực cho khu vực sản xuất kinh doanh. Trong xây dựng Đảng cần quan tâm lãnh đạo cho tất cả cán bộ đảng viên đều sống theo hiến pháp và làm việc theo pháp luật.
3) Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra:
Lãnh đạo có kiểm tra là một trong những chức năng chủ yếu của công tác xây dựng Đảng, phải thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra một cách có hiệu quả, trước nhất là kiểm tra vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Kiểm tra vai trò của Đảng viên chấp hành điều lệ Đảng, phẩm chất, năng lực công tác và thực hiện tốt pháp luật nhà nước, đồng thời xây dựng 4 nề nếp sinh hoạt Đảng ở các tổ chức cơ sở.
4) Công tác đoàn thể quần chúng:
Phải làm cho toàn Đảng quán triệt sâu sắc về quan điểm quần chúng của Đảng. Tăng cường công tác vận động quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
- Trước nhất cần phải đánh giá đúng vai trò của Đoàn thanh niên thật sự là cánh tay đắc lực của Đảng, tập hợp hầu hết thanh niên vào tổ chức góp phần thực hiện tốt 3 chương trình kinh tế lớn. Qua đó, giới thiệu cho Đảng những nhân tố tích cực.
- Củng cố tổ chức phụ nữ, nâng cao chất lượng hội viên, thu hút ngày càng đông đảo chị em vào tổ chức hội, xây dựng và phát huy vai trò của các chi hội. Tích cực bồi dưỡng và đào tạo cán bộ hội nhằm tham gia vào các phong trào chung của Huyện, xứng đáng là người phụ nữ mới.
- Hội nông dân cần phát huy hơn nữa trong việc tham gia giải quyết tranh chấp ruộng đất nhằm ổn định và phát triển sản xuất ngày càng tăng, gương mẫu và vận động nông dân thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước.
Mặt trận tổ quốc: tập hợp các tầng lớp nhân dân vào các tổ chức, động viên mọi người tham gia và thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế xã hội, làm tốt công tác tôn giáo và công tác dân tộc của Đảng.
Các đoàn thể quần chúng cần quan tâm hơn nữa việc làm tham mưu cho cấp ủy, đồng thời chú trọng công tác chăm sóc, bảo vệ thiếu niên nhi đồng, đặc biệt là diện trẻ em nghèo, gia đình chánh sách neo đơn.
Các tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước cần thật sự quan tâm đến công tác vận động quần chúng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, không khoán trắng cho các đoàn thể quần chúng, cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa các đoàn thể quần chúng với các tổ chức chính quyền cùng cấp trong việc xây dựng phương hướng nhiệm vụ, chương trình hành động cụ thể của từng ngành về công tác tổ chức quần chúng trong từng thời gian thích hợp.
5) Tăng cường hiệu lực quản lý điều hành bộ máy của nhà nước:
Xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước, tăng cường củng cố HĐND làm đầy đủ chức năng là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước địa phương. Do vậy đòi hỏi mỗi thành viên HĐND có tiêu chuẩn cơ bản: phải là người có phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý Nhà nước, quản lý sản xuất kinh doanh giỏi và có kinh nghiệm sản xuất giỏi mới có thể góp phần nâng cao quyền lực của HĐND trên các mặt kinh tế, văn hóa an ninh quốc phòng và đời sống.
UBND cần thực hiện tốt hơn nữa chức năng quản lý nhà nước đối với tất cả các hoạt động kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn Huyện, theo sự phân công của Nhà nước. Tổ chức và quản lý các đơn vị kinh tế của Huyện theo chánh sách, chế độ quy chế của nhà nước đã ban hành. Tránh những hiện tượng can thiệp quá sâu vào sự việc cụ thể của cơ sở làm ảnh hưởng đến quyền hạn lãnh đạo sản xuất kinh doanh.
Kiện toàn và nâng cao các hoạt động của các phòng ban thuộc UBND theo quyết định 30 của TU và quyết định 90 của UBND.TP. Huyện tiếp tục sắp xếp lại đội ngũ cán bộ chủ chốt của các ngành công ty xí nghiệp và bộ máy của xã.
Xã, thị trấn, cần nghiên cứu tiến hành kiện toàn tổ chức bộ máy tinh giảm biên chế cũng trên cơ sở xem xét chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng ban ngành, đoàn thể trực thuộc phải sắp xếp bố trí hợp lý. Chú ý củng cố lại Ban nhân dân ấp, tổ nhân dân, tổ dân phố đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Trên cơ sở đó Huyện cùng các ngành chức năng nghiên cứu tạo mọi điều kiện cho xã phấn đấu năm 1989 có 2/3 xã tự lực ngân sách, đến năm 1990 các xã đều chủ động tự cân đối ngân sách.
Trên đây là những quan điểm cơ bản về công tác xây dựng Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng, những tư tưởng chỉ đạo cụ thể đã được nêu trong báo cáo chi tiết về công tác xây dựng Đảng.
BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng đề ra trong 2 năm 1989 – 1990 trong xu hướng đổi mới, BCH Huyện Đảng bộ cần nâng cao hơn nữa về trình độ năng lực lãnh đạo theo hướng sau đây:
Đảm bảo lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành công việc đúng theo nguyên tắc, sau Đại hội BCH mới phải đề ra một quy chế làm việc với tinh thần đổi mới mang đầy đủ tính dân chủ nhằm tập trung được trí tuệ để phục vụ trong công tác chỉ đạo chung.
Trong sinh hoạt từng đ/c UV.BCH phải thực hiện tốt quy chế làm việc, cần thể hiện đầy đủ tính năng động sáng tạo để phát biểu ý kiến việc lãnh đạo, chỉ đạo và những đề xuất ở đơn vị, ngành mình cũng như việc chung theo xu hướng đổi mới để góp trí tuệ lãnh đạo tập thể của BCH có hiệu quả cao hơn. Riêng những vấn đề khó, mang tính tháo gỡ vượt khỏi quyền hạn thì đưa ra BCH bàn và quyết nghị từng vấn đề một để cùng chịu trách nhiệm cho cơ sở tổ chức thực hiện. Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện, công tác tổ chức cán bộ có ý nghĩa quyết định do vậy trong nhiệm kỳ V công tác tổ chức cán bộ phải được xem là một trong những vấn đề cấp bách để sắp xếp bố trí theo hướng đổi mới, tiếp tục kiện toàn và tinh giảm bộ máy theo quyết định 30 của Thành ủy và quyết định 90 của UBND.TP. Đi đôi với công tác tổ chức cán bộ, BCH cần quan tâm đúng mức đề ra kế hoạch chỉ đạo, lãnh đạo cụ thể trong từng thời gian có biện pháp kiểm tra việc tổ chức thực hiện giúp cho công tác sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời uốn nắn những mặt lệch lạc bổ sung những điểm cần thiết và nhân điển hình những mô hình mới rộng rãi ở cơ sở.
Trên đây là những quan điểm, nguyên tắc cơ bản của Đảng trong quá trình tổ chức thực hiện, qua thực tế sẽ tiếp thu những tinh thần chỉ đạo theo xu hướng đổi mới, đồng thời nghiêm túc lắng nghe những ý kiến của cơ sở để nghiên cứu vận dụng vào điều kiện thực tế của Huyện với sự quan tâm của TP, sự lãnh đạo nhạy bén của Đảng bộ và nhiệt tình của cán bộ đảng viên, quần chúng và các tầng lớp nhân dân, tin chắt rằng Đảng bộ chúng ta sẽ phấn đấu vượt qua những khó khăn ban đầu để chỉ đạo thực hiện thắng lợi những mục tiêu Đại biểu Đại hội Đảng đề ra.
HUYỆN CỦ CHI.