Thứ Tư, ngày 4 tháng 12 năm 2024

Báo cáo Kiểm điểm giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ Huyện Bình Chánh lần thứ VIII(từ tháng 12/2000 đến tháng 06/2003)

Bình Chánh, ngày 03 tháng 9 năm 2003

Nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện Bình Chánh lần thứ VIII, Huyện ủy đã khẩn trương xây dựng, triển khai và tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện 11 chương trình cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhìn lại quá trình thực hiện, trên cơ sở đối chiếu với một số mục tiêu, nhiệm vụ, chỉ tiêu quan trọng của Nghị quyết Đại hội có thể đánh giá như sau:

Phần thứ nhất

Tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội

----

I/ Về nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quốc phòng an ninh:

1/ Những mặt đạt kết quả tốt:

1.1/ Về phát triển kinh tế:

- Tình hình kinh tế của Huyện tiếp tục phát triển nhanh. Giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu đạt 10.100 tỷ đồng (giá cố định 1994) tăng 2.000 tỷ đồng so với cả thời kỳ 5 năm (1996-2000). Tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp duy trì ở mức cao, bình quân 35,5%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra (từ 20-25%). Lĩnh vực dịch vụ-thương mại cũng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 15,67% vượt 3,56% so với chỉ tiêu Nghị quyết (từ 10-12%). Đã ngăn chặn được thời kỳ giảm sút trong sản xuất nông nghiệp, giá trị sản xuất năm 2002 của ngành nông nghiệp đã tăng 1,09% so với năm 2001.

- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch với tốc độ nhanh, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đúng theo định hướng Nghị quyết. Trong đó, sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng lớn từ 83,09% (năm 2000) đã tăng lên 90% (năm 2002) và giữ vai trò quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung của Huyện. Trong sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu như: nhựa, cao su, thực phẩm, giày xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm trên 60%. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khối quốc doanh do Thành phố, Trung ương quản lý nằm trên địa bàn Huyện cũng phát triển nhanh, giá trị sản xuất năm 2002 tăng 72% so năm 2001. Trong đó, khu vực vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng trên 95% với ngành chủ lực là giày xuất khẩu. Hành lang thương mại-dịch vụ dọc các trục lộ chính như: đường Kinh Dương Vương, Tỉnh lộ 10, quốc lộ 50, ngã tư Gò Mây ngày càng được mở rộng. Qui mô các loại hình dịch vụ về tín dụng ngân hàng, thông tin bưu điện, kho tàng bến bãi, vận tải, dịch vụ lao động, bảo hiểm phát triển nhanh chóng đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển sản xuất và nhu cầu đời sống của nhân dân trong Huyện. Cơ cấu nội bộ sản xuất nông nghiệp cũng có sự chuyển biến tích cực, ngành chăn nuôi tuy vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp hơn so với trồng trọt (27%/61%) nhưng đã có xu hướng nhích dần lên (bình quân tăng 1%/năm). Các dự án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi tiếp tục được triển khai. Đàn bò sữa, vùng rau an toàn có sự hỗ trợ, đầu tư của Huyện, Thành phố giữ được mức độ phát triển và đạt hiệu quả bước đầu. Tổng đàn bò sữa đạt 2.684 con bằng 53,6% chỉ tiêu cuối nhiệm kỳ (5.000 con). Diện tích rau an toàn đạt 18ha tập trung ở 2 xã Tân Quý Tây và Bình Chánh.

- Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước nhằm khai thác thế mạnh của Huyện về đất đai và lao động đạt tốc độ cao. Đến nay các khu công nghiệp tập trung Lê Minh Xuân, Tân Tạo lấp kín 100% diện tích, Khu công nghiệp Vĩnh Lộc lấp kín 90% diện tích, thu hút 549 doanh nghiệp với tổng vốn đầu tư 6.597 tỷ đồng. Các loại hình sản xuất kinh doanh qui mô vừa và nhỏ cũng phát triển nhanh. Có 4.518 doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh mới với tổng vốn ban đầu 2.685 tỷ đồng. Đã hình thành đề án qui hoạch phát triển xây dựng các chợ trên địa bàn đến 2010. Ngoài ra, có 256 dự án đầu tư với qui mô diện tích 776 ha đã được Huyện thuận chủ trương về địa điểm xây dựng. Nhìn chung, thu hút đầu tư thời gian qua đã tạo công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động, tạo sự chuyển động mạnh mẽ trong sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết đề ra.

- Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội có sự tập trung đầu tư. Trong 2 năm (2001-2002), Huyện đã tranh thủ Trung ương, Thành phố đầu tư nhiều công trình lớn về giao thông, thủy lợi, hệ thống điện, thoát nước, cấp nước trị giá hàng ngàn tỷ đồng. Một số công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng và mang lại hiệu quả thiết thực. Huyện còn tranh thủ nguồn vốn tập trung từ ngân sách Thành phố gần 170 tỷ đồng đầu tư nạo vét kênh mương, xây dựng nâng cấp hệ thống y tế, mạng lưới trường lớp từ tiểu học đến Trung học phổ thông phục vụ sự nghiệp y tế, giáo dục. Ngoài ra, bằng các nguồn vốn phân cấp của Thành phố, vốn đầu tư các xã nghèo, vốn ngân sách Huyện địa phương, Huyện đã đầu tư 156 tỷ đồng nâng cấp 66 km đường giao thông, 60 km đê bao thủy lợi, 18 cầu nông thôn, 248 phòng học và nhiều công trình văn hóa, thể dục thể thao. Qua đó, đã góp phần rất lớn thúc đẩy sản xuất phát triển, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.

Hoạt động tài chánh ngân sách thực hiện tốt nhiệm vụ, chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Tăng nguồn thu, đảm bảo cân đối phục vụ các hoạt động thường xuyên, và bố trí nguồn vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Tổng thu ngân sách nhà nước 2 năm rưỡi qua đạt 684 tỷ đồng bằng cả thời kỳ 5 năm (1996-2000). Bình quân tốc độ tăng thu ngân sách nhà nước đạt 36,6% (vượt 26,67% so chỉ tiêu Nghị quyết), tốc độ tăng thu ngân sách Huyện đạt 20% (vượt 10,37% so chỉ tiêu Nghị quyết). Chi ngân sách Huyện tăng bình quân 23%/năm. Kết quả trên cho thấy tốc độ chi ngân sách Huyện cao hơn tốc độ thu ngân sách Huyện 3%, chứng tỏ nguồn thu đã được sử dụng tối đa và có huy động nguồn vốn kết dư của thời kỳ trước, đáp ứng nhu cầu chi cho đầu tư phát triển, chủ yếu là xây dựng mở rộng nâng cấp kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.

1.2/ Về phát triển văn hóa xã hội:

- Cơ sở vật chất ngành giáo dục được Huyện tập trung đầu tư theo mục tiêu Nghị quyết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong Huyện. Đã xây dựng mới 6 trường mẫu giáo đạt chuẩn quốc gia, 01 trường tiểu học, 01 trường trung học phổ thông, nâng cấp 01 trường trung học phổ thông, đang thi công xây dựng 03 trường trung họccơ sở, đầu tư mở rộng 226 phòng học với kinh phí 24 tỷ đồng. Công tác huy động học sinh ra lớp có nhiều tiến bộ, đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở đảm bảo yêu cầu đặt ra. Công tác xã hội hóa giáo dục có chuyển biến rõ rệt với 29 trường tư thục, nhiều nhất là khối nhà trẻ thu hút 11,3% các cháu vào lớp. Với sự nỗ lực khắc phục khó khăn của toàn Đảng bộ, công tác phổ cập giáo dục bậc trung học cơ sở đã hoàn thành đúng tiến độ (năm 2002). Đang tiếp tục triển khai phổ cập giáo dục bậc trung học. Đã hoàn thành cơ bản công tác qui hoạch phát triển trường lớp đến năm 2005.

- Công tác xây dựng ấp, khu phố văn hóa nhằm từng bước góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đến nay đã hình thành và đưa vào hoạt động 42 ấp và khu phố văn hóa (chỉ tiêu Nghị quyết: 60), trong đó được Thành Phố công nhận đạt tiêu chuẩn văn hóa 23 ấp, khu phố, tỉ lệ 54%. Đặc biệt trong cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, số hộ được công nhận gia đình văn hóa đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các cơ sở vật chất phục vụ phong trào thể dục thể thao vui chơi giải trí, lịch sử truyền thống được tập trung đầu tư như: hoàn thành xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể dục thể thao Huyện (kinh phí gần 40 tỉ), mở rộng công viên Văn hóa Láng Le, xây dựng Đài tưởng niệm rạch Cầu Già xã Hưng Long. Qua đó đã góp phần thúc đẩy các hoạt động vui khỏe, kỷ niệm truyền thống, giao lưu văn hóa mang tính dân tộc, mang lại ý nghĩa chính trị xã hội to lớn.

- Thực hiện mục tiêu thanh toán bệnh bại liệt và ngăn chặn không để xảy ra dịch bệnh, sốt rét trên địa bàn, Huyện đã tích cực thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng của UNICEP, tổ chức tiêm chủng định kỳ hàng tháng cho trẻ em dưới 01 tuổi, kết hợp với chiến dịch uống vắc xin sabin cho trẻ dưới 5 tuổi (tỉ lệ tiêm chủng đạt 85%), tổ chức lực lượng cán bộ chuyên môn thường xuyên bám sát nắm tình hình dịch tể, đẩy mạnh tuyên truyền tác nhân gây bệnh và triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét ở địa bàn dân cư. Kết quả tình hình bệnh bại liệt đã không còn xảy ra, số trường hợp bệnh sốt rét đã giảm dần và không có trường hợp sốt rét ác tính.

- Các chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đầu tư cho 6 xã nghèo đạt yêu cầu đề ra. Thông qua Trung tâm giới thiệu việc làm, các chương trình hỗ trợ việc làm từ nguồn quỹ quốc gia và Liên đoàn Lao động Huyện đã giải quyết việc làm cho 14.225 lao động đạt tỷ lệ 47,41% so với chỉ tiêu đề ra (2001-2005). Qua đó đã góp phần cải thiện đời sống một bộ phận người dân, giúp cho thanh niên nông thôn có nghề nghiệp ổn định hơn trong điều kiện sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp dần. Mục tiêu giảm hộ nghèo được toàn Đảng bộ Huyện nỗ lực triển khai thực hiện. Bằng các biện pháp như: hỗ trợ vốn, hướng dẫn kỹ thuật, cách thức làm ăn, giải quyết việc làm trong 02 năm 2001-2002 đã có 3.124 hộ nghèo thoát cảnh nghèo, mức thu nhập được nâng lên, cải thiện được cuộc sống. Tỷ lệ hộ nghèo từ 8,1% giảm còn 3,1%. Trong năm 2003, phấn đấu được thêm 2.105 hộ đưa ra khỏi chương trình để giảm tỷ lệ hộ nghèo 0,48% (chỉ tiêu Nghị quyết là 2,6%). Các đề án giảm nghèo cho 6 xã nghèo được ưu tiên triển khai. Hơn 60 công trình cơ sở hạ tầng (cầu đường nông thôn, trường học, trạm y tế, chợ), trên 300 căn nhà tình thương tình nghĩa, 800 suất học bổng và nhiều hiện vật khác trị giá 41 tỷ đồng đã và đang được thực hiện góp phần tạo ra một sự chuyển biến tích cực về đời sống của người dân ở khu vực này, phấn đấu cuối năm 2003 về cơ bản trên địa bàn Huyện không còn xã nghèo.

1.3/ Về nhiệm vụ quốc phòng an ninh:

- Trước diễn biến phức tạp trên thế giới, Huyện đã thường xuyên quán triệt Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị và Thành ủy về an ninh quốc gia trong Đảng bộ và nhân dân nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đối phó với các tình huống xảy ra. Đã phát hiện, ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả một số vụ lưu hành tài liệu phản động, lợi dụng hoạt động tôn giáo gây rối...giữ vững được sự ổn định chính trị trên địa bàn. Bảo vệ an toàn tuyệt đối Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các ngày lễ lớn. Công tác phòng chống tội phạm, thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm có sự tập trung chỉ đạo quyết liệt. Đặc biệt trong đợt cao điểm tấn công tội phạm đã kiềm chế và kéo giảm một số tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội và chuyển hóa được một số địa bàn trọng điểm phức tạp. Tỷ lệ điều tra khám phá trọng án có nâng lên (giết người 73%, hiếp dâm 91%, cướp 44%). Trên lĩnh vực trật tự an toàn giao thông, qua triển khai các biện pháp thực hiện Nghị quyết 13, Nghị định 14,15 của Chính phủ, số vụ tai nạn giao thông đã giảm 30%; không còn xảy ra đua xe trái phép ở các tuyến đường trọng điểm.

- Công tác giải quyết khiếu nại tố cáo công dân được tập trung chấn chỉnh từng bước đi vào nề nếp đạt được nhiều tiến bộ. Số lượng đơn thư giải quyết trực tiếp ở cơ sở được nâng lên; tỷ lệ đơn vượt cấp, dồn lên cấp trên giảm nhiều. Một số quyết định giải quyết khiếu nại tồn đọng, dây dưa có tính phức tạp cơ bản đã được giải quyết rốt ráo. Tình hình khiếu kiện tập thể đông người liên quan đến đền bù giải tỏa của một số dự án trên địa bàn có chiều hướng giảm dần. Tính chất gay gắt, phức tạp của sự việc đã dịu hơn, các nguyện vọng chính đáng của người dân được tập trung xem xét, giải quyết, kiên quyết xử lý một số phần tử xấu lợi dụng kích động. Các vụ đình công, lãn công trong lực lượng công nhân được giải quyết kịp thời đã tác động tích cực đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

- Lực lượng vũ trang địa phương thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên, lực lượng dân quân tự vệ đạt chỉ tiêu được giao. Triển khai xây dựng khu vực phòng thủ, diễn tập chiến thuật phòng chống bão lụt, bạo loạn đạt yêu cầu đề ra. Công tác huấn luyện có nâng lên, tỷ lệ khá giỏi đạt 80%. Công tác tuyển quân hàng năm đạt chỉ tiêu 100% ở cả hai cấp. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, phối hợp các ngành giải quyết việc làm cho 129 bộ đội xuất ngũ.

2/ Những mặt tồn tại và nguyên nhân trên lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh:

2.1/ Những mặt tồn tại:

- Tốc độ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp không đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra do tác động của nhiều yếu tố: Diện tích bị thu hẹp dần do quá trình phát triển đô thị hóa và công nghiệp; chất lượng, sức cạnh tranh sản phẩm còn thấp, khâu tiêu thụ và giá cả đầu ra chưa ổn định trong khi giá vật tư đầu vào tăng; diễn biến thời tiết bất lợi, môi trường thiên nhiên thay đổi. Dẫn đến hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp giảm dần, thậm chí có lúc bị lỗ khiến nhiều hộ nông dân không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất.

- Tốc độ mở rộng các khu công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp còn chậm đã tác động không tốt đến thu hút đầu tư trên địa bàn. Tốc độ di dời các cơ sở sản xuất, xí nghiệp gây ô nhiễm chưa đảm bảo yêu cầu đặt ra do vướng cơ chế, chính sách, mặt bằng, thủ tục, đầu tư xây dựng. Loại hình kinh tế tập thể chậm phát triển, một số hoạt động không hiệu quả. Hoạt động các chợ tự phát lan rộng ở nhiều khu vực gây ảnh hưởng xấu đến trật tự và mỹ quan đô thị.

- Việc thực hiện cơ chế phối hợp, giám sát trên lĩnh vực quản lý quy hoạch đầu tư và sau đầu tư còn nhiều bất cập, còn dàn đều....Qui hoạch chi tiết các phân khu chức năng chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Việc thống kê theo dõi tình hình triển khai các dự án chưa cập nhật kịp thời, thiếu biện pháp xử lý các trường hợp kéo dài khá lâu, gây tâm lý bất ổn trong nhân dân. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng cho các dự án còn nhiều khó khăn. Tập trung ở chính sách giá bồi thường chưa sát thực tế và thiếu nhà tái định cư. Các vi phạm trên lĩnh vực đất đai, xây dựng còn diễn biến phức tạp.

- Tình hình thi công, triển khai các dự án, công trình trọng điểm Trung ương, Thành phố trên địa bàn Huyện nhất là trên lĩnh vực giao thông còn chậm: Tỉnh lộ 10, Hương lộ 8, Hương lộ 2, Hương lộ 80, Hồ Sinh Thái, mở rộng Quốc lộ 1 A, đường 3 xã Cánh Nam...nguyên nhân do thiếu nguồn vốn. Có dự án vốn đền bù quá lớn (chủ yếu bằng nguồn vốn ngân sách), việc nghiên cứu phương án khai thác quỹ đất hoặc xã hội hóa còn lúng túng, chưa cụ thể. Nhiều công trình xây dựng cơ bản của Huyện chưa có nguồn vốn để triển khai thi công. Một số dự án giao thông phải xin Thành Phố điều chỉnh tăng vốn đầu tư vì chi phí đền bù giải tỏa tăng so với phương án đền bù được duyệt hoặc giá trị dự toán duyệt có thay đổi so với dự án (Hương lộ 8, 9).

- Mạng lưới trường lớp ở các xã đô thị hóa nhanh không đáp ứng kịp nhu cầu học tập. Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở bỏ học còn cao (3,1%). Hệ thống dạy nghề và chất lượng đào tạo dạy nghề cho thanh niên phục vụ công nghiệp hóa còn hạn chế. Tình hình ngộ độc thực phẩm có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là trong các xí nghiệp có đông công nhân. Tình hình vi phạm pháp luật trên lĩnh vực văn hóa, dịch vụ văn hóa và các tệ nạn xã hội khác còn diễn biến phức tạp. Chất lượng hoạt động Ban chủ nhiệm các ấp-khu phố văn hóa còn thấp. Việc thực hiện mục tiêu giảm 2.105 hộ chuẩn nghèo trong năm 2003 có khả năng thực hiện..

- Tình hình trật tự an toàn xã hội vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn, số vụ trộm cắp, tai nạn giao thông tăng nhanh. Tỷ lệ điều tra khám phá các vụ thường án còn thấp (39%). Tình trạng khiếu kiện tập thể đông người, đình công, lãn công, tranh chấp trong nội bộ nhân dân vẫn còn xảy ra. Mạng lưới an ninh cơ sở còn thiếu và yếu. ý thức bảo vệ tài sản của một bộ phận người dân chưa cao. Mục tiêu trật tự văn minh đô thị chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, ùn tắc giao thông tại một số giao lộ chính chưa có chuyển biến mạnh mẽ.

2.2/ Nguyên nhân:

Những mặt tồn tại nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:

Về khách quan:

- Quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa diễn ra với tốc độ quá nhanh đã thu hút một lực lượng đông đảo người dân từ các tỉnh đến làm ăn sinh sống với đủ loại ngành nghề, thành phần, độ tuổi khác nhau (bình quân tăng 10.000 người/tháng), đa số không có đăng ký tạm trú. Từ đó đã làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trên các lĩnh vực qui hoạch, hạ tầng kỹ thuật, đất đai, xây dựng, môi trường; các hoạt động văn hóa, giáo dục và trật tự an toàn xã hội; đã tác động đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và dẫn đến sự quá tải trong hệ thống quản lý chính quyền ở cơ sở.

- Những qui định của nhà nước trên các lĩnh vực đất đai, xây dựng, nhà ở, tín dụng, ngân hàng, xử phạt hành chính... còn nhiều vướng mắc chồng chéo, thay đổi, chưa đồng bộ, chưa sát với tình hình thực tế khiến cho việc áp dụng gặp nhiều khó khăn, hiệu quả không cao khiến cho pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm minh.

- Công tác qui hoạch và triển khai các dự án của các cấp có thẩm quyền còn chậm, chính sách thiếu nhất quán không kịp diễn biến của tình hình, chưa đảm bảo hài hòa các lợi ích, đặc biệt là lợi ích của người dân chưa được quan tâm giải quyết thỏa đáng.

Về chủ quan:

- Đội ngũ cán bộ chuyên môn còn đi vào công việc sự vụ, giải quyết các thủ tục hành chính, chưa phát huy cao vai trò tham mưu trong việc nghiên cứu đề ra các chủ trương, chính sách nhằm giải quyết các vấn đề bức thiết trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội.

- Kỷ luật hành chính trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước chưa được chấp hành nghiêm túc. Mối quan hệ làm việc, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa được gắn bó chặt chẽ, thiếu sự thống nhất cao, đặc biệt là đối với những vấn đề có tính chất phức tạp còn bị đọng, lúng túng, né tránh trách nhiệm.

II/ xây dựng hệ thống chính trị:

1/ Những mặt đạt kết quả tốt:

1.1/ Về nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ:

- Công tác giáo dục chính trị-tư tưởng đã tập trung vào việc thực hiện các yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng và địa phương trong từng thời kỳ. Huyện ủy đã tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết đại hội Đảng các cấp, nghị quyết các hội nghị Trung ương (khóa IX) và một số nghị quyết chuyên đề của Bộ chính trị (Nghị quyết 20, Nghị quyết 8) đến cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ. Các lớp nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết đã có 70-80% đảng viên tham dự, góp phần bổ sung nhận thức về các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở đó xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện ở từng địa phương, đơn vị. Đặc biệt, đợt tổ chức nghiên cứu, quán triệt cương lĩnh và điều lệ Đảng trong toàn Đảng bộ đã giúp cho đảng viên nhận thức rõ hơn những quan điểm lý luận cơ bản của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước, tăng cường sự đoàn kết thống nhất về nhận thức, ý chí trong Đảng, đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, sai trái của bọn phản động. Cùng với các hoạt động tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm truyền thống, Huyện còn tổ chức các đợt báo cáo thời sự trong và ngoài nước nhằm định hướng tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong tình hình mới. Nhìn chung, công tác chính trị tư tưởng đã góp phần quan trọng giữ được sự ổn định về tư tưởng trong nội bộ và trong nhân dân; tạo sự nhất trí, đồng tình trong thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế-xã hội trên địa bàn Huyện.

- Về công tác tổ chức cán bộ: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), hằng năm Huyện ủy đã quan tâm chỉ đạo kiểm điểm tập thể và cá nhân gắn với phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên. Qua hai năm rưỡi thực hiện, chất lượng đội ngũ đảng viên có sự chuyển biến rõ nét. Tỷ lệ đảng viên đủ tư cách đạt 97,6% (tăng 1,93% so năm 2000), số đảng viên vi phạm tư cách giảm dần. Tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh đạt tỷ lệ 60,9% (chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội là 60%); không có loại yếu kém (năm 2000: 1,58%). Đã chỉ đạo hoàn thành đại hội Đảng cấp cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005 (trừ đảng bộ xã-thị trấn) đúng theo kế hoạch đề ra, nhân sự mới tham gia cấp ủy đạt tỷ lệ 34,61%. Qua sơ kết chỉ thị 13 và qui định 326 của Thành ủy cho thấy, đảng ủy xã-thị trấn và chi ủy chi bộ ấp-khu phố bước đầu được củng cố kiện toàn; vai trò và trách nhiệm lãnh đạo được nâng lên. Công tác phát triển đảng viên mới có nhiều tiến bộ, kết nạp được 259 đảng viên đạt 51,8% so với chỉ tiêu cả nhiệm kỳ, số đảng viên mới đều đảm bảo về mặt chuẩn chất. Thực hiện Nghị quyết 11 của Bộ chính trị, Huyện ủy đã điều động, đề bạt, luân chuyển, bố trí 112 cán bộ. Tổ chức đưa đi đào tạo, bồi dưỡng trên 100 cán bộ từ trung cấp đến đại học và sau đại học về các chuyên ngành chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ. Đến nay đã có 19/20 xã-thị trấn và 20 cơ quan thực hiện xong công tác qui hoạch cán bộ dự bị, có 50 cán bộ trẻ (dưới 30 tuổi) đang công tác tại xã được xét chọn đưa vào diện qui hoạch dài hạn. Nhìn chung công tác tổ chức, cán bộ đạt được yêu cầu nhiệm vụ nghị quyết đề ra trong việc nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trẻ, tin cậy, có triển vọng, có khả năng đảm đương tốt nhiệm vụ được giao.

- Công tác kiểm tra Đảng: Tập trung tổ chức kiểm tra thực hiện Chỉ thị 04 của Thành ủy về tăng cường lãnh đạo thực hành tiết kiệm, lãng phí; Chỉ thị 06 của Thành ủy về lập lại kỹ cương, chấp hành pháp luật, nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước trên địa bàn Thành phố; Qui định 428 của Thành ủy về trách nhiệm của người có chức vụ quyền hạn ở các cơ quan, tổ chức trong việc phòng chống tham nhũng, quan liêu lãng phí. Đã xây dựng kế hoạch tổ chức kiểm tra có kết quả một số chuyên đề như: kiểm tra thực hiện kế hoạch 01, 02 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kiểm tra thực hiện 19 đìêu đảng viên không được làm theo Qui định 55 của Bộ chính trị (nay là Qui định 19). Đối với kế hoạch 01, 02 qua kiểm tra Huyện ủy đã đề ra các biện pháp chỉ đạo nhằm tập trung giải quyết những mặt còn tồn tại. Kết quả cho thấy tiến độ giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có nhanh hơn, tình trạng gởi đơn thư vượt cấp giảm xuống, một số vụ có tính chất phức tạp dây dưa, kéo dài được tập trung giải quyết cơ bản; nhiều quyết định có hiệu lực đã được tổ chức thi hành. Đã kiểm tra xử lý 71 trường hợp đảng viên vi phạm, trong đó: khiển trách 32 đ/c, cảnh cáo 30 đ/c, cách chức 03 đ/c, khai trừ 05 đ/c. Qua kiểm tra đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng trong việc chấp hành điều lệ và kỷ luật Đảng.

1.2/ Về củng cố kiện toàn bộ máy chính quyền, thực hiện cải cách hành chánh:

- Thực hiện quyết định số 124 của ủy ban nhân dân Thành phố vế sắp xếp lại tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn và đơn vị sự nghiệp trực thuộc ủy ban nhân dân Quận- Huyện. Huyện ủy đã chỉ đạo tiến hành chia tách các phòng ban chuyên môn của Huyện từ 04 phòng lên 09 phòng phù hợp với hệ thống của ngành dọc, đồng thời đáp ứng tình hình quản lý của địa phương. Qua chia tách đã điều động, đề bạt, bố trí lại cán bộ lãnh đạo của các phòng, ban quản lý nhà nước. Bên cạnh đó đã điều động cán bộ trẻ, có năng lực từ Huyện tăng cường bổ sung vào lãnh đạo chính quyền cấp xã; đội ngũ cán bộ chuyên môn cơ sở có liên quan trực tiếp dân cũng được sàng lọc. Đã tiến hành xây dựng quy chế làm việc, chế độ trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị, giữa Huyện và cơ sở trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Các thủ tục hành chánh liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, đến cuộc sống sinh hoạt của người dân được đơn giản hóa và được niêm yết công khai cụ thể. Nhìn chung qua củng cố kiện toàn bộ máy chính quyền gắn với thực hiện cải cách hành chánh, năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước trên địa bàn Huyện có bước nâng lên, kỷ cương xã hội được tăng cường; tình trạng gây phiền hà, sách nhiễu đối với người dân có giảm hơn.

- Hoạt động Hội đồng nhân dân Huyện từng bước phát huy vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước có chuyển biến tốt; chất lượng các kỳ họp được nâng lên, nhiều ý kiến đóng góp của nhân dân về các lĩnh vực đời sống xã hội được tổng hợp, phản ảnh, đề nghị chính quyền Huyện, cơ sở chấn chỉnh giải quyết.

1.3/ Về công tác vận động quần chúng:

Trong nửa nhiệm kỳ qua, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể đã phối hợp thực hiện một số phong trào lớn và đạt được hiệu quả thiết thực. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư được đông đảo nhân dân tham gia; chất lượng được nâng lên, có 44.845 gia đình đạt gia đình văn hóa. Nhiều gương “người tốt, việc tốt” được biểu dương, có 23 khu phố, ấp văn hóa được công nhận. Cuộc vận động “vì người nghèo" được các ngành các cấp, các giới tích cực hưởng ứng; thông qua vận động đã xây dựng 400 căn nhà tình nghĩa tình thương; tặng 4.000 suất học bổng, 300 xe đạp cho học sinh nghèo, trên 2.500 hộ được hỗ trợ vốn gắn điện kế, xây dựng nhà vệ sinh tự hoại, hàng ngàn hộ được hỗ trợ vốn làm ăn, cải thiện cuộc sống. Chương trình mục tiêu 3 giảm tạo được sự đồng tình của người dân. Thông qua các đợt vận động tố giác tội phạm, vận động tội phạm tự thú, cảm hóa giáo dục thanh thiếu niên chậm tiến, vận động đối tượng nghiện hút đi cai nghiện. Mặt trận các đoàn thể còn tham gia giải quyết các khiếu kiện tập thể đông người ở một số dự án; các vụ đình công trong công nhân, các vụ tranh chấp trong tôn giáo. Các phong trào và hoạt động trên đã góp phần không nhỏ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn.

- Mặt trận-đoàn thể đã thường xuyên quan tâm xây dựng lực lượng, phát triển đoàn viên, hội viên; củng cố kiện toàn tổ chức, đổi mới mô hình, nội dung, hình thức sinh hoạt đáp ứng tình hình mới. Liên hiệp công đoàn, Huyện đoàn tập trung xây dựng tổ chức trong các đơn vị kinh tế; Hội Liên hiệp thanh niên thành lập nhiều chi hội thanh niên nhập cư ở các nhà trọ; Hội liên hiệp phụ nữ xây dựng Câu lạc bộ Hội mẹ truyền thống, Câu lạc bộ gia đình hạnh phúc; Hội Nông dân thành lập các tổ chi hội ngành nghề, mô hình liên kết trong sản xuất; Hội Cựu chiến binh thành lập Câu lạc bộ cựu quân nhân, Ban văn nghệ tài tử...Ngoài ra, thông qua nguồn vốn tự có và ủy thác đã hỗ trợ vốn hơn 64 tỷ đồng tạo điều kiện cho đoàn viên, hội viên phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Với những thành tích đạt được, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Liên đoàn lao động, Hội chữ thập đỏ được chính phủ tăng Huân chương lao động hạng 3.

2/ Những mặt tồn tại và nguyên nhân:

2.1/ Những mặt tồn tại:

Bên cạnh những mặt làm được, so với yêu cầu nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội đặt ra, công tác xây dựng hệ thống chính trị còn những mặt tồn tại sau đây:

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa đi vào chiều sâu; chưa thâm nhập vào quần chúng. Tinh thần, thái độ học tập chính trị của một bộ phận cán bộ đảng viên chưa cao, thiếu nghiên cứu kỹ nội dung, tham dự không đầy đủ thời gian theo qui định (có buổi học tỷ lệ vắng 30%). Chưa nắm bắt kịp tâm trạng, dư luận xã hội trước những diễn biến của tình hình mới. Tâm lý ngán ngại, không muốn làm công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viên còn khá phổ biến.

- Các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên còn hạn chế. Trong sinh hoạt Đảng nhiều cơ sở còn tình trạng nể nang, ngại đấu tranh với những dấu hiệu sai phạm. Công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là cán bộ trẻ còn một số cấp ủy chưa quan tâm. Việc điều động bổ nhiệm còn một cố trường hợp chưa phù hợp với phẩm chất đạo đức, năng lực, lịch sử chính trị của cán bộ; có lúc còn bị động.

- Công tác kiểm tra tuy có kế hoạch thực hiện nhưng thiếu trọng tâm, trọng điểm; chưa đi vào thực chất, chưa bám sát tình hình thực tiễn. Nhiều trường hợp đảng viên có dấu hiệu vi phạm nhưng không được cấp ủy, tổ chức Đảng góp ý, đấu tranh kịp thời, nên đã vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật nhà nước phải xử lý. ở nhiều cấp ủy cơ sở tuy có chuyên trách kiểm tra nhưng do kiêm nhiệm nhiều việc nên không thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.

- Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực qui hoạch, hạ tầng kỹ thuật, đất đai, xây dựng, môi trường, trật tự an toàn xã hội tuy có tập trung chấn chỉnh nhưng vẫn còn bộc lộ những mặt yếu kém, bất cập, đặc biệt là ở các xã đô thị hóa đáp ứng không kịp với yêu cầu phát triển. Việc chấp hành kỷ cương pháp luật; chế độ trách nhiệm chưa cao. Thủ tục hành chính còn chồng chéo, vướng mắc cần phải tập trung tháo gỡ; việc giải quyết đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân nhiều nơi còn kéo dài, hiệu quả giải quyết chưa cao, nhiều vụ việc còn hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm làm cho nhân dân bất bình. Hoạt động Hội đồng nhân dân ở cấp cơ sở còn thụ động, chưa phát huy hết vai trò theo luật định.

- Tình hình nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân có lúc chưa kịp thời. Một số phong trào chưa thật sự đi vào chiều sâu, tâm lý người dân còn ngán ngại nhất là phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc. Trình độ cán bộ đoàn thể ở một số cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Lực lượng chính trị nòng cốt chưa được vững chắc, nhiều khu vực còn mỏng. ở một số địa bàn dân cư (ấp, khu phố) tổ chức Chi, tổ hội Mặt trận-đoàn thể còn yếu nhất là đoàn thanh niên.

2.2/ Nguyên nhân:

Những mặt tồn tại trong công tác xây dựng hệ thống chính trị bắt nguồn từ những nguyên nhân sau đây:

- Năng lực lãnh đạo của cấp ủy Đảng, hiệu lực quản lý của chính quyền, công tác tổ chức vận động của Mặt trận-đoàn thể Huyện và cơ sở có lúc chưa theo kịp với diễn biến của tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa trên địa bàn. Còn lúng túng trong việc đề ra các giải pháp khắc phục có hiệu quả những vấn đề mới, phức tạp phát sinh từ thực tiễn. Thiếu các giải pháp mang tính đột phá.

- Việc triển khai các chương trình cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội tuy có phân công đơn vị theo dõi nhưng thiếu sơ kết đánh giá tình hình rút kinh nghiệm, uốn nắn những mặt lệch lạc, đề ra các biện pháp chấn chỉnh.

- Chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của hệ thống chính trị trong công tác đấu tranh ngăn ngừa, xử lý các tệ nạn tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, xa rời quần chúng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

- Một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phương pháp điều hành giải quyết của chính quyền, hình thức nội dung vận động quần chúng trong thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức thiếu tu dưỡng rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, sa vào lối sống thực dụng, quan liêu, nhũng nhiễu dân...gây bất bình trong quần chúng.

IV/ Đánh giá chung và bài học kinh nghiệm:

1/ Đánh giá chung:

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành, qua hai năm rưỡi thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VIII, toàn Đảng bộ và hệ thống chính trị đã tiếp tục phát huy lợi thế của địa phương; nỗ lực khắc phục khó khăn, thử thách; xây dựng Huyện nhà ngày càng phát triển. Nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng của Nghị quyết Đại hội đã được hoàn thành hoặc vượt yêu cầu đề ra, một số chỉ tiêu đã đạt và vượt cả nhiệm kỳ 5 năm trước. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ. Các khu công nghiệp tập trung với qui mô lớn đã tạo ra một bước đột phá trong thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng vượt bậc, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Nhiều khu dân cư đô thị khang trang, sạch đẹp được xây dựng. Hàng trăm dự án đầu tư trên các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, nông nghiệp, giáo dục, y tế, văn hóa, khu dân cư, hệ thống điện, giếng nước và các công trình phúc lợi xã hội khác đã và đang được triển khai xây dựng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội được nâng cấp, mở rộng đến tận xóm ấp, vùng kháng chiến cũ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Các gia đình có công cách mạng, hộ gia đình khó khăn được quan tâm chăm sóc. Các phong trào hành động cách mạng quần chúng như: xây dựng nếp sống văn hóa mới, tu bổ đường đường sá, trồng cây xanh, nạo vét kênh mương, hỗ trợ nhau sản xuất, kế hoạch hóa gia đình, hiến máu nhân đạo, lớp học tình thương, xóa đói giảm nghèo, hòa giải hôn nhân gia đình, phòng chống tội phạm, mại dâm, ma túy... được đông đảo nhân dân đồng tình hưởng ứng và tích cực tham gia. Đảng bộ huyện Bình Chánh cũng đã trưởng thành và phát triển nhanh về số lượng và chất lượng với 77 chi, đảng bộ và 2.611 đảng viên. Trong số này 60% tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh và 97,98% đảng viên đủ tư cách. Những kết quả đạt được đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội trên địa bàn, làm thay đổi sâu sắc, toàn diện bộ mặt của huyện Bình Chánh trong quá trình xây dựng và phát triển.

Mặt khác, trong quá trình phát triển công nghiệp và đô thị cũng nảy sinh nhiều phức tạp, bức bách cần phải tập trung lãnh đạo giải quyết trong nửa nhiệm kỳ còn lại, đó là: áp lực dân số gia tăng cơ học lớn; quản lý qui hoạch đất đai, xây dựng, môi trường còn nhiều bất cập; hạ tầng kỹ thuật xã hội không đáp ứng kịp yêu cầu phát triển; chênh lệch mức sống giữa nông thôn và các vùng đô thị hóa, giữa các tầng lớp dân cư có chiều hướng gia tăng. Công tác phòng chống, ngăn ngừa tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, quản lý trật tự đô thị đạt kết quả còn thấp. Tình trạng quan liêu, tiêu cực, tham ô, tham nhũng, lãng phí gây nhiền hà cho nhân dân chưa được kiểm tra, ngăn chặn kịp thời. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng còn có mặt hạn chế. Cải cách hành chính chưa đồng bộ, phát huy tác dụng chưa cao. Năng lực, trình độ, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công nhân viên chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

2/ Bài học kinh nghiệm:

Từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong nữa nhiệm kỳ qua, Huyện ủy rút ra 04 bài học kinh nghiệm sau đây:

- Thứ nhất: Tăng cường phát triển kinh tế phải hướng đến mục tiêu bền vững và gắn liền với chăm lo chính sách xã hội. Yêu cầu đặt ra là cần có sự định hướng, quy hoạch, xác định cơ cấu ngành cho phù hợp trước mắt và lâu dài. Thực tế cho thấy các ngành may mặc, da giày, đã góp phần tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động (chủ yếu là lao động các tỉnh), nhưng cũng gây sự gia tăng đột biến về dân số cơ học gây tác động xấu nhiều mặt về xã hội và an ninh trật tự, tạo áp lực nặng nề cho công tác quản lý Nhà nước, đặc biệt là giải quyết các nhu cầu ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh của người dân. Sự hình thành các cơ sở sản xuất công nghệ lạc hậu, các nhà máy hoá chất, phân bón, vật liệu xây dựng xen cài khu dân cư đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng hơn. Việc tổ chức khắc phục những tồn tại trên tốn kém nhiều thời gian, kinh phí, công sức của nhiều ngành, nhiều cấp.

- Thứ hai: Phải bám sát và phải nắm chắc diễn biến tình hình thực tiễn để đề ra các giải pháp, biện pháp, chủ trương, chính sách phù hợp trong từng thời kỳ, từng địa phương. Nếu không sẽ khó đạt yêu cầu nhiệm vụ đề ra. Thực tế cho thấy trên địc bàn Huyện Bình Chánh so với đầu nhiệm kỳ đã có nhiều thay đổi, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch nhanh chóng, cơ cấu thành phần dân cư cũng có sự chuyển biến, dân số gia tăng, tình hình đất đai biến động, nhu cầu hưởng thụ về vật chất tinh thần của người dân tăng lên; hàng trăm dự án được triển khai, nhiều vấn đề phức tạp trên các lĩnh vực qui hoạch, đất đai, xây dựng, môi trường đặt ra phải giải quyết. Yêu cầu đặt ra đối với lãnh đạo là giảm hội họp, tăng cường đi cơ sở kiểm tra nắm bắt tình hình thực tế, sơ tổng kết đánh giá tình hình, đề ra chủ trương, biện pháp khả thi nhằm giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn.

- Thứ ba: Đội ngũ cán bộ đảng viên có vai trò hết sức quan trọng trong tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy, song song với công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ trẻ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn cao để tạo nguồn kế thừa thì yêu cầu bức thiết hiện nay là cần đánh giá đúng cán bộ, tránh tư tưởng nể nang, tình cảm, thành kiến; để từ đó có sự bố trí phù hợp với sở trường, khả năng của từng đồng chí thì hiệu quả công việc mới được nâng lên.

- Thứ tư: Nhân dân Huyện Bình Chánh có truyền thống cách mạng kiên cường trong hai thời kỳ kháng chiến. Đây là vốn quí cần trân trọng, gìn giữ và phát huy trong thời kỳ xây dựng Huyện nhà tiến lên công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Thời gian qua nhiều phong trào trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã được đông đảo nhân dân tham gia, tích cực góp phần rất lớn vào thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Do vậy, trong lãnh đạo cần tăng cường hơn nữa công tác vận động quần chúng tạo mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Để làm được điều đó thì công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục để người dân thông suốt chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước cần tiến hành thường xuyên liên tục; đổi mới nội dung, hình thức vận động; đồng thời quan tâm giải quyết kịp thời các lợi ích chính đáng của người dân.

Phần thứ 2

Một số giải pháp cần tập trung lãnh đạo

thực hiện từ nay đến năm 2005

---

I/ Nhận định tình hình:

Thực hiện nhiệm vụ còn lại của nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VIII, Huyện Bình Chánh có nhiều cơ hội và thách thức đang xen với nhau, thể hiện trên các mặt sau đây:

1/ Về cơ hội:

- Là Huyện nằm trên hành lang cửa ngõ của Thành phố và các tỉnh Miền Tây, được Trung ương, Thành phố đầu tư nhiều công trình trọng điểm qui mô lớn về hạ tầng kỹ thuật và xã hội tạo tiền đề thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển trên địa bàn.

- Hàng trăm dự án trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang được tiếp tục triển khai: Khu công nghiệp, khu đô thị, cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế...sẽ góp phần thu hút đầu tư, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân, tạo ra sự thay đổi căn bản về chất của lực lượng sản xuất phù hợp tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn.

- Thông qua bồi thường các dự án và thu hút đầu tư, nguồn vốn trong nhân dân, các doanh nghiệp rất lớn, nếu được hướng dẫn và có những chính sách phù hợp sẽ thu hút, tạo nguồn lực đáp ứng các nhu cầu đầu tư phục vụ phát triển sản xuất và mở rộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng đang gặp khó khăn về vốn.

- Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước có liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế-xã hội như: qui hoạch, đầu tư, xây dựng, bồi thường...được bổ sung, sửa đổi tạo thêm động lực mới cho đầu tư phát triển cả nước, trong đó có Huyện Bình Chánh.

- Việc chia tách địa giới hành chánh khi được triển khai sẽ góp phần khắc phục một số hạn chế trong chỉ đạo và tổ chức điều hành thực hiện các nhiêm vụ quản lý các mặt kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương.

2/ Những thách thức:

- Sản xuất nông nghiệp còn bấp bênh, hiệu quả thấp, giá cả và tiêu thụ sản phẩm không ổn định, còn lệ thuộc vào thiên nhiên, thiếu định hướng và những giải pháp căn cơ.

- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội không đáp ứng kịp yêu cầu phát triển. Một số trục đường chính chưa được nâng cấp mở rộng, thường xuyên gây ách tắc giao thông; nhiều khu vực đường sá, hệ thống thoát nước hư hỏng; nguồn điện chưa được ổn định, thiếu cáp điện thoại, thiếu trường lớp cho học sinh. Yêu cầu đặt ra rất bức bách, kinh phí đầu tư xây dựng, sửa chữa rất lớn trong khi nguồn vốn ngân sách có hạn.

- Môi trường xã hội đặt ra nhiều vấn đề mang tính phức tạp, cấp bách ảnh hưởng đến dân sinh, gây ra tâm lý bất ổn trong cuộc sống người dân. Nhiều khu dân cư tự phát không đảm bảo vệ sinh, môi trường, hạ tầng kỹ thuật đã hình thành đòi hỏi phải đầu tư chỉnh trang. Tình trạng nhà trọ cho công nhân thuê phát triển tự phát xung quanh các khu công nghiệp thiếu sự quản lý của nhà nước. Tai nạn giao thông, tội phạm hình sự (trộm cắp) ngày càng gia tăng. Mức độ ô nhiễm môi trường nặng nề hơn, về phạm vi ô nhiễm có chiều hướng lan rộng.

- Đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với tình hình nhiệm vụ mới. Năng lực lãnh đạo của cấp ủy đặc biệt là ở cơ sở chưa được phát huy cao. Thiếu sự chủ động, sáng tạo. Cải cách hành chính còn chậm, quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực còn yếu kém, hiệu quả chưa cao. Thu hút nguồn nhân lực, nhân tài phục vụ cho xây dựng và phát triển còn hạn chế.

II/ Một số giải pháp:

Nhằm hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VIII, cần lãnh đạo tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:

1/ Tập trung công tác lập qui hoạch, quản lý qui hoạch gắn đầu tư hạ tầng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đô thị:

- Tiến hành điều chỉnh qui hoạch tổng mặt bằng qui hoạch kinh tế-xã hội, qui hoạch ngành, gắn với cơ cấu ngành nghề đầu tư đòi hỏi có kỹ thuật tay nghề cao và qui hoạch chi tiết 20 xã-thị trấn để quản lý và kêu gọi đầu tư. Giải quyết dứt điểm các trường hợp qui hoạch “treo”. Kiểm tra và đề nghị xử lý kiên quyết đối với các dự án kéo dài quá lâu, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân. Thực hiện công bố rộng rãi cho nhân dân biết sau khi qui hoạch được duyệt.

- Chủ động huy động nhiều nguồn vốn, với nhiều hình thức: đấu giá (quyền sử dụng đất, khai thác quỹ đất...) kết hợp tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương, Thành phố để mở rộng nâng cấp một số tuyến đường và cầu quan trọng, trọng điểm ở các xã, đặc biệt các xã nghèo. Trước mắt tập trung: Tỉnh lộ 10, quốc lộ 50, đường 3 xã Cánh Nam. Các hương lộ: 2, 4, 5, 6, 8, 9, 11, 13, 80, cầu ngã 3 Lý Văn Mạnh và hệ thống trục đường quan trọng ở Vĩnh Lộc A-B, Tân Nhựt, Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông.

- Cùng với Thành phố tiến hành xây dựng đường ống cấp nước dọc Tỉnh lộ 10, đường ống cấp nước Tây Nam, cải tạo đường ống cấp nước cư xá Phú Lâm C. Tiếp tục đầu tư xây dựng mới giếng nước công nghiệp tại các xã và chương trình nước sinh hoạt nông thôn (Unicep) phục vụ sản xuất và sinh hoạt.

- Phấn đấu đến năm 2005 hoàn thiện bổ sung lưới điện sau điện khí hóa trên địa bàn Huyện. Tiếp tục đầu tư nâng công suất các trạm điện phục vụ các khu công nghiệp và khu dân cư tập trung.

- Hỗ trợ các khu công nghiệp Vĩnh Lộc, Tân Tạo, Lê Minh Xuân tiếp tục đầu tư mở rộng diện tích, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật để thu hút các doanh nghiệp vào làm ăn. Hình thành khu tiểu thủ công nghiệp An Hạ, khu công nghiệp Phong Phú.

- Tập trung giải quyết tốt việc thoát nước trên các tuyến đừơng quốc lộ 1A, Tỉnh lộ 10, khu cư xá Phú Lâm C. Qui hoạch và triển khai chương trình thoát nước tại thị trấn An Lạc, xã Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông, Bình Chánh, Tân Tạo, Tân Kiên, thường xuyên nạo vét hệ thống các kênh rạch. Tranh thủ Thành phố sớm triển khai xây dựng Hồ Sinh học, kết hợp thoát nước cải thiện môi trường tại xã Bình Hưng Hòa.

- Triển khai một số khu dân cư tự phát, khu dân cư hiện hữu ở các xã: Bình Trị Đông, Vĩnh Lộc, B, Bình Hưng Hòa, thị trấn An Lạc theo tinh thần Nghị quyết 04/HU.

- Hoàn thành hồ sơ pháp lý triển khai thi công đầu tư cơ sở vật chất cho ngành giáo dục, y tế, trụ sở hành chánh phục vụ đào tạo nguồn nhân lực và chia tách địa giới hành chánh.

2/ Vận dụng và triển khai đồng bộ các chính sách của Đảng và nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh:

- Đẩy mạnh triển khai các dự án chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp với quá trình đô thị hóa. Xây dựng định hướng phát triển các loại cây con cho từng khu vực. Xây dựng chính sách khuyến khích loại hình sản xuất nông nghiệp nhà vườn, gắn với vui chơi giải trí, gắn với chế biến. Tăng cường hỗ trợ vốn kể cả nguồn vốn vay ưu đãi cho một số dự án sản xuất nông nghiệp có qui mô lớn; tạo các điều kiện để một số loại hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp phát triển nhanh (bò sữa, rau an toàn).

- Tập trung duy trì hoạt động các ngành chủ lực trước đây như: nhựa-cao su, may mặc, giày da, kết hợp kêu gọi đầu tư ưu tiên phát triển các ngành có hàm lượng khoa học cao, sử dụng công nghệ hiện đại: sản xuất vật liệu mới, công nghệ sinh học, điện tử, chế biến nông sản, những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

- Thực hiện tốt xúc tiến đầu tư, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp. Đặc biệt là vào các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp ở các xã theo qui hoạch.

- Đẩy mạnh thực hiện chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp hiện đại hóa với chi phí thấp, tạo thế cạnh tranh tổng hợp và đẩy mạnh xuất khẩu, chuẩn bị tốt các điều kiện hội nhập AFTA và WTO.

- Phát triển sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp kết hợp với giải quyết các vấn đề về môi trường. Tập trung thực hiện công tác di dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm môi trường hoàn thành cơ bản năm 2004. Kiên quyết không giải quyết các cơ sở sản xuất công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp thuộc 14 ngành, nghề ô nhiễm theo quyết định 78 của ủy ban nhân dân Thành phố trong khu dân cư tập trung.

- Phát triển các loại dịch vụ đáp ứng nhu cầu của Thành phố, của Huyện và lao động nhập cư: trung chuyển hàng hoá, vui chơi giải trí, tín dụng, bưu chính-viễn thông, dịch vụ hỗ trợ các khu công nghiệp trên địa bàn Huyện, dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục.

- Từng bước hoàn thiện chợ bán buôn, bán lẻ, Trung tâm thương mại, siêu thị, chợ nông thôn. Điều chỉnh, bổ sung qui hoạch chợ trên địa bàn Huyện đến năm 2010. Kêu gọi các thành phần kinh tế, tham gia đầu tư, khai thác chợ theo Nghị định 02 của Chính phủ, từng bước tư nhân hóa quản lý chợ.

- Tăng cường công tác chống buôn lậu, sản xuất hàng gian, hàng giả, gian lận thương mại, quản lý một số ngành kinh doanh nhạy cảm, dịch vụ nhà cho công nhân thuê.

3/ Đẩy mạnh chương trình xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, chương trình mục tiêu 3 giảm góp phần cải thiện đời sống nhân dân; lành mạnh môi trường xã hội, giữ vững sự ổn định an ninh chính trị:

- Triển khai các biện pháp đồng bộ như: hỗ trợ vốn, hướng dẫn kỹ thuật cách thức làm ăn, giúp nhau làm kinh tế tạo điều kiện cho các hộ nghèo nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống. Tập trung vốn hoàn thành các công trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các xã nghèo. Phấn đấu đến cuối năm không còn xã nghèo và giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống còn 0,48%.

- Phát động ngày toàn dân đưa trẻ đến trường, huy động trẻ 5 tuổi ra lớp đạt tỷ lệ trên 98%, trẻ 6 tuổi ra lớp đạt tỷ lệ 100%. Nâng cao phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập Trung học cơ sở. Phấn đấu đến năm 2005 hoàn thành phổ cập bậc Trung học ở 5 xã (thị trấn An Lạc, Bình Chánh, Tân Kiên, Tân Túc, Tân Tạo). Tập trung đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ giáo viên cho Trung tâm dạy nghề để nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người lao động nhất là thanh niên.Triển khai thí điểm các mô hình đào tạo nghề giữa các doanh nghiệp và Trung tâm dạy nghề. Đẩy mạnh hơn nữa phong trào xã hội hóa giáo dục.

- Tiếp tục thực hiện các biện pháp mạnh trong công tác phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, mại dâm, tiếp tục đấu tranh phòng ngừa kéo giảm các loại tội phạm nguy hiểm, hoạt động có tổ chức theo kiểu xã hội đen, các đối tượng giết cướp và cướp của, trộm cắp, giựt dọc, mua bán tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy, tổ chức mại dâm, tạo chuyển biến quan trọng về mặt giao thông, trật tự đô thị và tệ nạn xã hội. Nhân rộng các mô hình tốt trong phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc.

- Xây dựng và triển khai diễn tập các phương án phòng thủ theo kế hoạch ở 02 cấp Huyện và xã-thị trấn. Bổ sung hoàn thiện phương án phòng chống biểu tình, bạo loạn. Tăng cường chỉ đạo xây dựng chính trị nồng cốt ở cơ sở, chủ động giải quyết các tình huống phức tạp. Đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, tạo chuyển biến mạnh mẽ sâu sắc về nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ tổ quốc. Hoàn thành tốt chỉ tiêu tuyển quân hàng năm nhất là tỷ lệ đảng viên trẻ gia nhập quân đội. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với quân dự bị động viên và dân quân tự vệ, phấn đấu nâng dần tỷ lệ đảng viên, đoàn viên trong hai lực lượng này đáp ứng chỉ tiêu, kế hoạch được giao.

4/ Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng:

- Tổ chức triển khai quán triệt kịp thời, nghiêm túc Nghị quyết của Đảng các cấp sâu rộng trong cán bộ đảng viên và nhân dân nhằm tạo sự nhận thức đúng đắn, sự nhất trí cao về quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển Huyện nhà theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ VIII đề ra. Cải tiến nội dung, hình thức học tập, phổ biến tuyên truyền, giáo dục chính trị, thông tin thời sự phù hợp với từng loại đối tượng nhất là ở các tổ nhân dân giúp người dân hiểu và thực hiện tốt các Nghị quyết, chủ trương của Đảng, pháp luật nhà nước.

- Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VII về xây dựng chỉnh đốn Đảng theo chỉ thị 03-CT/TW của Bộ chính trị đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả thiết thực. Chỉ đạo phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên hằng năm phản ảnh đúng thực chất. Tạo sự chuyển biến mạnh trong công tác cán bộ bảo đảm cho yêu cầu chia tách Huyện và kế hoạch dài hạn. Thực hiện tốt công tác đánh giá, phân loại cán bộ; qui hoạch và luân chuyển cán bộ. Đổi mới phương pháp, lề lối làm việc của Ban chấp hành, Ban Thường vụ theo hướng phát huy dân chủ, thực hiện nghiêm túc kỷ cương, nguyên tắc của Đảng; giảm hội họp, tăng cường cho cơ sở. Hằng năm chỉ đạo sơ kết chỉ thị 13 và qui định 326 của Thành ủy đối với cấp ủy xã-thị trấn, có kế hoạch thực hiện hiệu quả Chỉ thị 11/TU về đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Đảng, Đoàn thể và phát triển đảng viên, đoàn viên trong doanh nghiệp tư nhân.

- Chủ động tổ chức kiểm tra nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các sai phạm của Tổ chức Đảng và đảng viên. Định kỳ hàng quí, 6 tháng tổ chức kiểm tra thực hiện kế hoạch 01,02 của Ban Bí thư về giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân và thực hiện 19 điều đảng viên không được làm. Chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện chỉ thị 06-CT/TU của Thành ủy về việc lập lại kỷ cương, chấp hành pháp luật, nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước trên địa bàn Thành phố; qui định 428-QĐ/TU của Thành ủy về trách nhiệm của ngành có chức vụ, quyền hạn ở cơ quan, tổ chức trong việc phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãnh phí.

5/ Chấn chỉnh, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trên địa bàn:

- Xây dựng đề án thực hiện quyết định số 136 ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình tổng thể cải cách hành chánh nhà nước (giai đoạn 2001-2010) và chương trình cải cách hành chánh và đề án tin học hóa hoạt động quản lý nhà nước của Thành phố giai đoạn 2001-2005. Kiện toàn tổ chức hoạt động bộ máy hành chính theo cơ chế "một cửa, một dấu", tiếp tục công tác khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chánh theo quyết định của Chính phủ. Rà soát, điều chỉnh, sữa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ các phòng ban chuyên môn của Huyện, nghiên cứu phân cấp một số nội dung quản lý nhà nước cho cơ sở. Tăng cường, bổ sung đội ngũ cán bộ trẻ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn cao, nhiệt tình; trang bị thêm các phương tiện trang thiết bị phục vụ công tác cho các phòng ban tham mưu của Huyện và chính quyền cơ sở. Hướng dẫn ủy ban nhân dân 20 xã-thị trấn xây dựng qui chế làm việc. Tiến hành chia tách các tổ nhân dân, tổ dân phố có số hộ quá đông.

- Chỉ đạo triển khai và kiểm tra thực hiện các quyết định số 104, 105, 106, 107 ngày 27/6/2003 của Thành phố về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng, trật tự an toàn giao thông, vệ sinh môi trường và quản lý người lang thang xin ăn sinh sống nơi công cộng nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà trên các lĩnh vực này. Tập trung công tác kiểm tra sau đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn.

- Thành lập Trung tâm dịch vụ và tư vấn đầu tư nhằm thu nhập và cung cấp thông tin cũng như dịch vụ hành chính cùng hỗ trợ cho nhân dân và các doanh nghiệp trong quá trình đẩy mạnh đầu tư, xây dựng nhà ở và hoạt động sản xuất kinh doanh đảm bảo tốt hơn yêu cầu và định hướng quản lý nhà nước.

6/ Phát huy mạnh mẽ các phong trào hành động cách mạng của quần chúng, thực hiện tốt dân chủ cơ sở:

- Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền các chủ trương chính sách, Nghị quyết Đảng, pháp luật Nhà nước trong nhân dân. Tăng cường nắm tình hình dư luận xã hội, kịp thời giải quyết các bức xúc của dân, hạn chế thấp nhất các điểm nóng xảy ra. Tổ chức triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh để phát huy nguồn lực của các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

- Gắn các phong trào hành động cách mạng với vận động quần chúng tích cực tham gia các chương trình, mục tiêu 3 giảm, Năm trật tự kỷ cương văn minh đô thị, chương trình vì người nghèo; cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, làm giàu chính đáng, phối hợp cùng chính quyền giải quyết các vụ khiếu kiện góp phần an dân, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn.

- Tiến hành tổ chức tổng kết 5 năm thực hiện qui chế dân chủ cơ sở, rút ra bài học kinh nghiệm, đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện qui chế dân chủ cơ sở ở từng địa phương. Gắn việc thực hiện qui chế dân chủ cơ sở với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh.

- Chọn địa bàn dân cư ấp, khu phố tiến hành củng cố, kiện toàn các tổ chức Mặt trận-Đoàn thể nhằm củng cố hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

III/ Một số định hướng cần chỉ đạo khi chia tách Huyện:

Nhằm tạo điều kiện cho các cấp ủy mới có cơ sở lãnh đạo các nhiệm vụ chính trị khi chia tách địa giới hành chánh. Căn cứ đặc điểm tình hình và vị trí địa lý của từng Quận-Huyện; Huyện ủy cần xác định một số định hướng trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội, an ninh quốc phong như sau:

1/ Đối với Quận Bình Tân:

- Cơ cấu kinh tế:

Công nghiệp -Tiểu thủ công nghiệp-Dịch vụ-Thương mại-Nông nghiệp:

- Một số nhiệm vụ trọng tâm trước mắt:

+ Tăng cường công tác quản lý đất đai, xây dựng

+ Chỉnh trang đô thị và trật tự đô thị

+ Giải quyết thoát nước và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường

+ Đấu tranh ngăn chặn tội phạm hình sự

+ Giải quyết nhà ở cho người thu nhập thấp, tăng cường quản lý Nhà nước đối với nhà trọ.

2/ Đối với Huyện Bình Chánh:

- Cơ cấu kinh tế:

Nông nghiệp-Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp-Dịch vụ-Thương mại.

- Một số nhiệm vụ trọng tâm trước mắt:

+ Đẩy nhanh công tác quy hoạch về quản lý quy hoạch, triển khai các dự án đầu tư.

+ Tập trung chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nông nghiệp

+ Tăng cường công tác quản lý đất đai, xây dựng

+ Quan tâm chương trình xoá đói giảm nghèo

+ Đầu tư hạ tầng kỷ thuật đô thị - xã hội

Nơi nhận:

T/M Ban Chấp hành Đảng bộ huyện

- TTTU, VPTU                                                                                               Q. Bí thư

- Các đ/c HUV

- Các chi, đảng bộ cơ sở

- Lưu                                                                                                          Phan Văn Nhiệm

Thông báo