Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Bình Chánh lần thứ XI nhiệm kỳ 2015-2020

Trong nhiệm kỳ qua, với quyết tâm chính trị cao Đảng bộ huyện đã tập trung lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân nỗ lực vượt qua khó khăn, phát huy nguồn nhân lực, khai thác vị trí cửa ngõ phía Tây Nam thành phố và tiềm năng đất đai; thay đổi diện mạo từ huyện nông nghiệp chuyển sang phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại, nông nghiệp đô thị. Góp phần hình thành nhiều khu đô thị mới, hạ tầng kỹ thuật, xã hội được đầu tư, các trục giao thông chính được kết nối[1]; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới cơ bản hoàn thành, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; kinh tế phát triển bền vững, đảm bảo an ninh, chính trị; tạo điều kiện thuận lợi cho huyện Bình Chánh phát triển nhanh theo hướng văn minh, hiện đại và trở thành địa bàn trọng điểm của thành phố Hồ Chí Minh.

PHẦN THỨ NHẤT

KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH CHÁNH LẦN THỨ X NHIỆM KỲ 2010 - 2015

I. KẾT QUẢ

1. Kinh tế huyện tiếp tục phát triển ổn định, chuyển dịch cơ cấu đúng định hướng, quy mô đầu tư xây dựng cơ bản tăng; quy hoạch, quản lý đô thị, nông thôn, bảo vệ môi trường có chuyển biến tích cực

Tình hình kinh tế huyện tiếp tục phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 19%/năm, đạt 96,9% so với chỉ tiêu Nghị quyết (19,6%/năm); công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 20,3%/năm, đạt 95,3% so chỉ tiêu Nghị quyết (21,3%/năm); dịch vụ, thương mại tăng bình quân 17,2%/năm, đạt 101,1% so chỉ tiêu Nghị quyết (17%/năm); sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4,7%/năm, đạt 142% so chỉ tiêu Nghị quyết (3,3%/năm)[2]. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng đề ra, tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng dần và giữ vai trò là động lực tăng trưởng chính[3]; giá trị sản xuất các ngành công nghiệp mũi nhọn có chiều hướng tăng mạnh. Lĩnh vực dịch vụ, thương mại chiếm tỷ trọng 16,5%, đạt 103% chỉ tiêu Nghị quyết, thị trường hàng hóa tiếp tục phát triển, quy mô kinh doanh ngày càng được mở rộng, nhất là hành lang các trục đường chính, các khu đô thị mới, từng bước hình thành một số trung tâm thương mại văn minh, sạch đẹp. Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 6,7% (năm 2010) xuống còn 2,7% (năm 2015) (đạt 110% chỉ tiêu Nghị quyết); tuy tỷ trọng trong cơ cấu giảm nhưng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức 4,7%, cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển biến theo hướng tích cực, các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng tiếp tục được triển khai (hoa lan, cây kiểng, cá kiểng, rau an toàn) mang lại hiệu quả, một số mô hình nổi bật có thu nhập cao từ 200 triệu đồng đến 1,2 tỷ đồng/ha/năm do đáp ứng nhu cầu thị trường, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.

Thị trường hàng hóa phong phú, công tác kiểm tra, kiểm soát được thực hiện thường xuyên, đã phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm kinh doanh hàng cấm, hàng gian, hàng giả,... tổ chức kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy định về niêm yết giá và bán hàng theo giá niêm yết. Việc thực hiện Chương trình bình ổn thị trường gắn với thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã lan tỏa được đồng thuận trong nhân dân. Kinh tế tập thể tiếp tục được củng cố, hoạt động của một số hợp tác xã từng bước có chuyển biến, thoát khỏi khó khăn và làm ăn có hiệu quả[4].

Thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển đạt kết quả nhất định, quan tâm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, duy trì các hoạt động gặp gỡ, đối thoại giữa chính quyền với doanh nghiệp, hộ kinh doanh nhằm hỗ trợ, tháo gỡ các khó khăn. Đã giải quyết thủ tục pháp lý cho gần 2.000 lượt doanh nghiệp, kết nối ngân hàng tạo điều kiện cho 60 doanh nghiệp vay vốn được hỗ trợ lãi suất với tổng số tiền 5.338,16 tỷ đồng. Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ tăng hàng năm[5].

Tốc độ tăng thu ngân sách Nhà nước đạt 6,95%/năm (chỉ tiêu Nghị quyết 25%/năm), trong đó: tốc độ thu tiền sử dụng đất tăng bình quân 2,52%; tốc độ thu trừ tiền sử dụng đất tăng bình quân đạt 9,36%; tốc độ thu thuế công thương nghiệp tăng bình quân đạt 11,42%, vượt chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu phấn đấu. Trong 5 năm đã thu, nộp vào ngân sách nhà nước 4.192 tỷ đồng, gấp 2 lần so với giai đoạn 2005 - 2010. Chi ngân sách đảm bảo phục vụ các hoạt động thường xuyên, đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển, giữ vững quốc phòng an ninh, nghiêm túc thực hiện chủ trương tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.

Đầu tư xây dựng cơ bản được tập trung, tổng nguồn vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật từ ngân sách Nhà nước vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra, gấp 5,5 lần so với giai đoạn 2005 - 2010[6]; đưa vào sử dụng nhiều công trình giao thông quy mô lớn phục vụ dân sinh và phát triển sản xuất kinh doanh như: đường Nguyễn Hữu Trí, bờ Tây kênh An Hạ, Hoàng Phan Thái, Thới Hòa, cầu Tân Quý, cầu Bà Bộ và cầu trên các đường liên ấp...; có 227.000m đường liên xã, trục ấp, đường ngõ xóm, đường nội đồng được nâng cấp, đầu tư đạt chuẩn nhựa hóa, bê tông hóa từ chương trình xây dựng nông thôn mới. Chú trọng huy động nguồn vốn xã hội cho đầu tư, kết quả đã góp phần rất lớn thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân.

Công tác quản lý đô thị, nông thôn, đặc biệt trong quản lý Nhà nước về đất đai, xây dựng được tăng cường chỉ đạo, chấn chỉnh quyết liệt, quản lý địa bàn chặt chẽ, thường xuyên kiểm tra, phát hiện và xử lý kiên quyết các trường hợp vi phạm. Đã phát hiện và xử lý 5.754 trường hợp vi phạm pháp luật về xây dựng nhà không phép, sai phép, sử dụng đất không đúng mục đích.

Triển khai thực hiện Nghị định số 71/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ về quy định quỹ đất dành cho nhà ở xã hội ở các xã Phong Phú, Tân Nhựt, An Phú Tây, cụ thể như dự án nhà ở xã hội xã An Phú Tây với quy mô 35.290m2, với 1.735 căn hộ.

Công tác lập quy hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch có chuyển biến tích cực, hoàn thành đồ án quy hoạch chung xây dựng, quy hoạch sử dụng đất, đồ án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2025, đã phê duyệt 28 đồ án phân khu tỷ lệ 1/2000, với tổng diện tích 4.272ha, phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 làm cơ sở cho chủ đầu tư triển khai dự án và 14/14 đồ án quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Triển khai công tác quản lý Nhà nước, tuyên truyền đến nhân dân về việc quản lý, thực hiện các đồ án quy hoạch đã được phê duyệt. Đã kiến nghị thành phố thu hồi 89 dự án chậm triển khai, trong đó, có 34 dự án có quyết định thu hồi.

Công tác bảo vệ môi trường được triển khai đồng bộ, đã tổ chức 4.506 lượt kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, xử phạt vi phạm hành chính 448 trường hợp. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị đạt 100%, tỷ lệ thu gom rác thải sinh hoạt ở các trục đường chính đạt 98,83% và xử lý chất thải y tế đạt tỷ lệ 100%. Có 80% khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; kéo giảm số tuyến sông, kênh, rạch ô nhiễm từ 55 tuyến (năm 2010) xuống còn 42 tuyến (năm 2015). Đẩy nhanh triển khai chương trình nước sạch, nước hợp vệ sinh cho nhân dân; thực hiện nâng cấp, mở rộng hệ thống cấp nước sạch đô thị và nông thôn tập trung, đến nay tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 100% (đạt 100% chỉ tiêu Nghị quyết), trong đó nước sạch đạt 46,06%.

2. Đời sống văn hóa của người dân được cải thiện, chính sách an sinh xã hội được thực hiện tốt

Công tác giáo dục toàn diện được quan tâm, chất lượng đào tạo từng bước được nâng lên. Có 100% cán bộ quản lý, giáo viên bậc mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đạt chuẩn theo quy định, duy trì và phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Hiệu suất đào tạo các bậc học mỗi năm đều tăng, tỷ lệ học sinh giỏi bậc tiểu học tăng 3,17%, bậc trung học cơ sở tăng 3,47%, số học sinh giỏi cấp thành phố năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông nâng dần qua các năm học (từ 91,9% lên 99,54%) cao hơn mức bình quân chung của thành phố. Đến nay đã có 7 trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia, đang triển khai thực hiện Đề án “Phổ cập và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh cho học sinh phổ thông và chuyên nghiệp”; duy trì, nâng cao chất lượng thực hiện Đề án “Phổ cập mầm non trẻ 5 tuổi”. Hoạt động Trung tâm Giáo dục thường xuyên đi vào nề nếp, ổn định. Đã triển khai và thực hiện Đề án “Xây dựng xã hội học tập”, Đề án “Xóa mù chữ”; các trung tâm học tập cộng đồng hoạt động khá đa dạng, tổ chức nhiều lớp học phổ cập tin học, các lớp tập huấn về ứng dụng khoa học kỹ thuật nông nghiệp, trồng cây cảnh, thu hút nhiều lượt người tham gia, góp phần nâng cao sự hiểu biết, chất lượng sống của người dân trong cộng đồng. Việc trang bị cơ sở vật chất và xây dựng cảnh quan trường học khang trang, sạch đẹp hơn. Trong 5 năm qua, đầu tư xây dựng mới đưa vào sử dụng 25 trường công lập (trong đó có 10 trường mầm non), nâng cấp, mở rộng 19 trường với tổng vốn đầu tư 1.792 tỷ đồng; Công tác xã hội hóa giáo dục tiếp tục phát triển, đã vận động xây dựng 03 trường mầm non công lập với kinh phí 34 tỷ đồng và cấp phép hoạt động 20 trường mầm non và 67 nhóm lớp mầm non, mẫu giáo ngoài công lập.

Chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá hoạt động với nhiều nội dung thiết thực. Các chương trình lồng ghép hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo như: vốn vay tạo việc làm, cho vay đầu tư nước sạch cho hộ nghèo, vệ sinh môi trường, xuất khẩu lao động; tặng thẻ bảo hiểm y tế, tặng học bổng cho học sinh, sinh viên, tặng quà trong các dịp lễ, tết, trợ cấp khó khăn, chăm lo nhà ở. Đến cuối năm 2013, đã hoàn thành mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 3 theo chuẩn hộ nghèo (dưới 12 triệu đồng/người/năm) trước thời hạn 2 năm (tỷ lệ hộ nghèo còn 0,51%); tính đến tháng 6 năm 2015 hoàn thành kế hoạch giảm hộ nghèo giai đoạn 2014 - 2015 (dưới 16 triệu đồng/người/năm), tỷ lệ hộ nghèo còn 1,69%.

Đời sống văn hóa của nhân dân được nâng lên, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” ngày càng thực chất, có 72 % ấp - khu phố đạt chuẩn và giữ vững danh hiệu ấp, khu phố văn hóa (chỉ tiêu Nghị quyết 70%) và 89% gia đình đạt chuẩn hộ gia đình văn hóa (chỉ tiêu Nghị quyết 85%); việc thực hiện chính sách xã hội hóa trong các hoạt động văn hóa ngày càng được đẩy mạnh, cơ sở vật chất phục vụ phong trào thể dục thể thao, vui chơi giải trí, giáo dục truyền thống được đầu tư gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới như: công viên văn hóa xã Bình Chánh, các khu vui chơi trẻ em xã Bình Chánh, Phong Phú, Hưng Long, Bình Hưng, công trình xây dựng khu tưởng niệm liệt sỹ Tết Mậu Thân 1968, nâng cấp khu di tích lịch sử Láng Le - Bàu Cò, Đền tưởng niệm căn cứ Hóc Hưu và các công trình Nhà văn hóa xã, Văn phòng ấp kết hợp phục vụ sinh hoạt cộng đồng...; các hoạt động truyền thống kỷ niệm các ngày lễ lớn, tết cổ truyền diễn ra sôi nổi; tổ chức 215 lượt đoàn nghệ thuật thành phố đến phục vụ nhân dân; phong trào rèn luyện thể dục thể thao với các câu lạc bộ dưỡng sinh, các sân chơi được xã hội hóa ngày càng thu hút đông đảo người dân tham gia luyện tập, đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh hoạt, vui chơi, giải trí của Nhân dân.

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu được quan tâm thực hiện, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên; số lượng bệnh nhân đến khám tuyến y tế cơ sở (các trạm y tế xã - thị trấn và Bệnh viện Bình Chánh) bình quân đạt 1,5 triệu lượt người/năm, tăng 500.000 lượt người so với năm 2011. Công tác phòng, chống dịch bệnh được triển khai sâu rộng, khống chế được nhiều bệnh không để lây lan trong cộng đồng như: sốt xuất huyết, tay chân miệng, dịch cúm A/H1N1. Kiểm soát tốc độ gia tăng dân số tự nhiên, tỷ lệ tăng đạt 1,051% (vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra là 1,17%), tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm[7], thường xuyên tổ chức các cuộc kiểm tra về an toàn vệ sinh thực phẩm, hạn chế số vụ ngộ độc thực phẩm; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, trình độ nghiệp vụ y bác sĩ ngày càng được nâng lên đáp ứng yêu cầu khám và điều trị bệnh. 14/16 trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia về cơ sở vật chất và chuyên môn.

Các giải pháp triển khai đảm bảo an sinh xã hội theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ được thực hiện đồng bộ, trong đó chú trọng đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động địa phương như đã nâng cấp trường trung cấp nghề Trần Đại Nghĩa, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm hướng nghiệp của huyện. Trong 05 năm, đã đào tạo nghề cho 7.694 người, giải quyết việc làm cho 28.243 lao động, vượt 5,40% so chỉ tiêu Nghị quyết. Tổ chức chăm lo các đối tượng chính sách, xã hội kịp thời, đúng đối tượng. Thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng sửa đổi năm 2012, Pháp lệnh Quy định danh hiệu vinh dự Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng. Đến nay, có 43 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng được phong tặng và 378 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng được truy tặng; có 117 đối tượng chính sách được công nhận theo Hướng dẫn số 30-HD/BTC của Ban Tổ chức Trung ương; trợ cấp khó khăn đột xuất cho 2.799 hộ nghèo, người có công cách mạng với số tiền hơn 5 tỷ đồng; hỗ trợ cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước có hệ số lương từ 3,00 trở xuống, các hộ dân bị thiệt hại do thiên tai, trợ giá điện cho hộ nghèo, công nhân lao động. Vận động các chủ doanh nghiệp, các chủ nhà trọ, chủ các cơ sở giữ trẻ mầm non dân lập, tư thục, đẩy mạnh phong trào tương trợ, tăng cường hỗ trợ cho công nhân, người lao động. Vận động xây dựng 34 căn nhà tình nghĩa, 682 căn nhà tình thương với tổng số tiền hơn 27 tỷ đồng.

3. Quốc phòng - an ninh được giữ vững

Tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX; công tác xây dựng lực lượng vũ trang được chú trọng, chất lượng chính trị trong lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên được nâng lên. Tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dự bị động viên đạt 10,23% (Nghị quyết 8%), đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ là 19,99% (Nghị quyết 18%) vượt chỉ tiêu đề ra; công tác giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh được thực hiện nghiêm túc, đúng đối tượng, bảo đảm thời gian quy định, đã có 4.612 lượt cán bộ chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, giáo viên, doanh nghiệp, chức sắc, chức việc các tôn giáo tham dự; chất lượng công tác sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương được nâng lên, thường xuyên tổ chức luyện tập, diễn tập các phương án tác chiến trị an, tổ chức diễn tập phòng thủ cấp huyện đạt yêu cầu đề ra, tổ chức diễn tập phòng thủ cấp cơ sở đảm bảo tỷ lệ 30%, nội dung phương án sát với tình hình thực tế, góp phần nâng cao chất lượng vận hành cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp trong xử lý các tình huống; hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân hàng năm về số lượng và chất lượng, trong 5 năm có 965 công dân nhập ngũ, trong đó tỷ lệ đảng viên trẻ đạt 2,32% vượt chỉ tiêu được giao (2%).

Tình hình an ninh chính trị được giữ vững ổn định, các đợt lễ, tết và thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng được đảm bảo an toàn tuyệt đối. Thực hiện có hiệu quả phương án chủ động đối phó các tình huống phức tạp về an ninh chính trị. Chủ động giải quyết kịp thời tranh chấp lao động, tạo điều kiện thuận lợi để các tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, không để xảy ra các điểm nóng về an ninh chính trị. Phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội, thực hiện Chương trình mục tiêu “03 giảm” có chuyển biến tích cực, số vụ phạm pháp hình sự xảy ra 1.300 vụ so giai đoạn 2006 - 2010, giảm 202 vụ (giảm 14,15%) (Nghị quyết kéo giảm từ 5 - 10%). Công tác điều tra, khám phá án cao hơn, tỷ lệ khám phá án đạt 70,06% (Nghị quyết 65 - 70%); công tác đảm bảo an toàn giao thông được tập trung quyết liệt, tình trạng ùn ứ giao thông tại một số tuyến đường chính được khắc phục; số vụ tai nạn giao thông hàng năm giảm. Phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc” được củng cố và nhân rộng; nâng cao chất lượng hoạt động tổ nhân dân, tổ dân phố, nhóm hộ tự quản, các mô hình “Khu phố, ấp phòng chống trộm”, “Tổ dân phòng tự quản”, “Tổ xe ôm tự quản” phát huy hiệu quả, chất lượng hoạt động tại địa bàn dân cư chuyển biến tích cực, có 93,75% xã, 97,17% ấp - khu phố, 78,35% tổ nhân dân, tổ dân phố đạt loại khá. Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, từng bước đi vào nề nếp, tỷ lệ giải quyết đạt 84,59%.

4. Cải cách tư pháp có tiến bộ; công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí được tập trung

Công tác cải cách tư pháp đã đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc, bổ sung thêm 57 cán bộ cho các cơ quan tư pháp, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp được nâng lên về chuyên môn và nhận thức chính trị; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở được tăng cường; chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử nâng lên, tỷ lệ án bị hủy sửa giảm từ 2,5% xuống còn 1,2%, án bị hủy từ 1% xuống còn 0,5%; không để tình trạng truy tố, xét xử oan, sai, hạn chế án tồn, quá hạn; tổ chức rất nhiều phiên tòa xử lưu động ở cơ sở có tác dụng giáo dục pháp luật tốt; thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại tại huyện, bước đầu mang lại kết quả tốt.

Công tác phòng, chống tham nhũng được tập trung, đẩy mạnh tuyên truyền, công khai thủ tục hành chính, phân cấp quản lý; tăng cường kiểm tra, giám sát xử lý sai phạm trong thực thi công vụ; tổ chức 877 buổi tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng chống tham nhũng, với 25.097 lượt người tham dự; thực hiện chuyển đổi vị trí công tác 440 cán bộ, công chức; tổ chức 45 cuộc thanh tra về công tác phòng, chống tham nhũng, qua kết quả thanh tra đã kịp thời phát hiện và xử lý theo qui định 206 trường hợp, trong đó xử lý kỷ luật 4 đảng viên, xử phạt hành chính 15 cá nhân, xem xét trách nhiệm 93 cá nhân, kiểm điểm rút kinh nghiệm 50 tập thể và 44 cá nhân, thu hồi trả lại cho công dân 01 căn nhà diện tích 164m2 và 664,89m2 đất nông nghiệp, thu hồi cho Nhà nước 605m2 đất sông, kênh, rạch và bố trí 6 nền tái định cư cho 6 hộ dân; tiếp tục giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và quản lý chi phí hành chính cho các cơ quan, đơn vị và Ủy ban nhân dân xã - thị trấn; việc kê khai tài sản, thu nhập được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo triển khai công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tổ chức giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức phổ biến, quán triệt và xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện công tác này tại 06 chi, đảng bộ; lãnh đạo triển khai việc thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW của Bộ Chính trị, Thông tri số 30-TT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản đến cán bộ, đảng viên.

5. Công tác xây dựng Đảng được tăng cường; hệ thống chính trị được củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền

5.1. Đảng bộ đã triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nghiêm túc, chặt chẽ, với quyết tâm chính trị cao, tạo nhiều chuyển biến quan trọng[8]

Công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể và cá nhân trong các tổ chức Đảng từ huyện đến cơ sở được thực hiện nghiêm túc. Qua kiểm điểm các cấp ủy đã đề ra các giải pháp khắc phục sát với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị, mỗi giải pháp đều có phân công tổ chức, cá nhân và thời gian thực hiện cụ thể.

Đến nay, hầu hết các nhóm giải pháp đã được triển khai thực hiện và đạt được những kết quả tích cực, đã kịp thời nhận diện và khắc phục một số khuyết điểm về đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, trọng tâm là các giải pháp phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng; chuyên đề “Đổi mới nội dung, phương pháp phổ biến, quán triệt Nghị quyết của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ, đảng viên; chất lượng công tác cán bộ được nâng lên, kịp thời kiện toàn, củng cố ở những nơi thiếu, yếu; công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện chặt chẽ, kịp thời và nề nếp; chất lượng sinh hoạt chi bộ ngày càng nâng cao, quy chế hoạt động của các cấp ủy, cơ quan, đơn vị được rà soát, bổ sung và triển khai thực hiện nghiêm túc; lề lối làm việc khoa học, phát huy dân chủ, sâu sát cơ sở; các vấn đề bức xúc, ảnh hưởng chất lượng cuộc sống người dân được quan tâm lãnh đạo[9].

5.2. Triển khai, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được chỉ đạo xuyên suốt, tạo chuyển biến sâu sắc[10]

Triển khai sâu rộng Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn hệ thống chính trị. Hàng năm có kế hoạch triển khai, quán triệt các chuyên đề, đảm bảo theo quy định, 100% cán bộ, đảng viên đã đăng ký sổ tu dưỡng, trong đó 89,9% cán bộ, đảng viên qua đánh giá đạt khá, tốt theo nội dung đăng ký. Tổ chức các hội thi, biểu diễn nghệ thuật, tổ chức giao lưu điển hình được đông đảo cán bộ, chiến sĩ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và nhân dân tham gia[11]; tổ chức biểu dương, khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh[12]. Kết quả, đã chuyển biến sâu sắc hơn trong nhận thức và rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống, xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân tiêu biểu, nhiều nhân tố tích cực, gương mẫu với những việc làm thiết thực, có ý nghĩa giáo dục, tạo sức lan tỏa trong cộng đồng, xã hội, thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị.

5.3. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được tăng cường tạo sự thống nhất trong đảng viên và sự đồng thuận của nhân dân

Công tác triển khai, quán triệt Nghị quyết của Trung ương, Thành ủy, Huyện ủy được chỉ đạo kịp thời, chặt chẽ; nội dung, hình thức học tập được cải tiến; chất lượng, hiệu quả học tập được nâng lên; công tác thông tin, tuyên truyền được tăng cường; thường xuyên cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên qua các hội nghị cán bộ chủ chốt, hội nghị chuyên đề; bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp, tập huấn kỹ năng xử lý tình huống cho cán bộ, đảng viên, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Công tác nắm bắt dư luận xã hội, được triển khai thực hiện đến các chi bộ, đơn vị trực thuộc cơ bản định hướng được dư luận qua từng thời điểm, từng nội dung liên quan. Tổ chức gặp gỡ cấp ủy chi bộ ấp - khu phố, các chi bộ cơ quan, quân sự trực thuộc xã, thị trấn, chi bộ trực thuộc ngành y tế; qua đó tạo sự gần gũi, kịp thời chỉ đạo, giải quyết các kiến nghị, vướng mắc, các vấn đề bức xúc ở cơ sở.

Tập trung đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trong nội bộ Đảng và nhân dân; lãnh đạo, chỉ đạo, kiên trì chấn chỉnh, khắc phục những lệch lạc, biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; triển khai thực hiện kế hoạch phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

5.4. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên được củng cố, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên

Tập huấn nghiệp vụ sinh hoạt chi bộ theo nội dung Chỉ thị số 10-CT/TW và Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW cho cấp ủy các chi, đảng bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phong phú, thiết thực hơn. Đến nay, có 338/345 chi bộ[13] (tỷ lệ 97,9%) đảm bảo sinh hoạt đúng định kỳ (trước tháng 10/2013 là 73,38%), có 188/345 chi bộ[14] (tỷ lệ 54,5%) chi bộ sinh hoạt chuyên đề tốt (trước tháng 10/2013 là 7,3%). Thẩm định chặt chẽ công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên. Kết quả đánh giá chất lượng ngày càng đi vào thực chất, bình quân 5 năm qua có 55,5% cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh; 16,6% cơ sở đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu.

Việc thành lập tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước được quan tâm, đã thành lập 10/10 chi bộ. Đội ngũ đảng viên tăng nhanh về số lượng, chất lượng, trong nhiệm kỳ kết nạp 1.365/1.250 đảng viên, vượt 9,2% chỉ tiêu. Đánh giá chất lượng đảng viên bình quân 05 năm qua có 81,1% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ; trong đó có 8,64% đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tỉ lệ đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ là 1,6%.

5.5. Công tác tổ chức cán bộ được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ

Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm luân chuyển cán bộ được tiến hành chặt chẽ, đúng nguyên tắc, quy trình. Tăng cường bổ sung cán bộ về cơ sở, nhất là cán bộ trẻ. Đã ban hành tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo thuộc diện Huyện ủy quản lý. Kết quả quy hoạch có 345 cán bộ diện Huyện ủy quản lý, 78 cán bộ diện Thành ủy quản lý[15] và 66 cán bộ chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ tuổi, cán bộ quy hoạch đều đảm bảo các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và có triển vọng phát triển. Công tác cán bộ nữ được quan tâm, ngày càng phát huy khả năng, bản lĩnh, khẳng định được vai trò, vị trí trong giai đoạn hiện nay[16].

Công tác đánh giá cán bộ đảm bảo quy trình, công khai dân chủ; bình quân hàng năm có 21,39% cán bộ hoàn thành xuất sắc chức trách nhiệm vụ, 72,24% cán bộ hoàn thành tốt chức trách nhiệm vụ, 3,30% cán bộ hoàn thành chức trách nhiệm vụ và 3,07% cán bộ không hoàn thành chức trách nhiệm vụ. Huyện ủy đã chủ động, đề xuất với các cơ quan thành phố thực hiện công tác đào tạo cán bộ về chuyên môn: 9 thạc sĩ, 34 cử nhân; lý luận chính trị: 34 cao cấp, 990 trung cấp, 564 sơ cấp.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được thực hiện theo đúng Quy định số 57-QĐ/TW và Quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ giữa Ban Tổ chức Huyện ủy với Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Đảng ủy Công an huyện và Đảng ủy Quân sự huyện. Tổ chức thẩm tra, kết luận 1.608 hồ sơ phục vụ kết nạp đảng viên và công tác cán bộ.

5.6. Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên được coi trọng, từng bước đi vào nề nếp

Công tác kiểm tra, giám sát ngày càng đi vào nề nếp, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát nhiệm vụ chính trị và thực tiễn. Hàng năm đều có chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy (thực hiện Điều 30 Điều lệ Đảng) và Ủy ban Kiểm tra (thực hiện Điều 32 Điều lệ Đảng). Trong nhiệm kỳ, Ban Thường vụ Huyện ủy và các cấp ủy cơ sở đã giám sát 166 tổ chức đảng và 59 đảng viên; kiểm tra 272 tổ chức đảng và 71 đảng viên về công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, quy định của Trung ương, Thành ủy, Huyện ủy, trong đó trọng tâm về các giải pháp khắc phục những hạn chế khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, quy chế dân chủ cơ sở, xây dựng nông thôn mới, công tác quản lý đất đai, xây dựng đối với các chi, đảng bộ cơ sở. Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy và Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ sở đã giám sát 135 tổ chức đảng và 58 đảng viên; kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 33 tổ chức đảng và 111 đảng viên; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng 153 tổ chức đảng; kiểm tra tài chính, việc thu, trích nộp và sử dụng đảng phí 184 tổ chức đảng.

Công tác thi hành kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên được thực hiện đúng nguyên tắc, thủ tục theo quy định, đảm bảo tính nghiêm minh, khách quan, dân chủ, mức độ xử lý phù hợp với tính chất, nội dung vi phạm, đã xử lý kỷ luật 15 tổ chức đảng và 168 đảng viên[17], tăng 30 đảng viên so với nhiệm kỳ trước, liên quan đến việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết, thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái, vi phạm về phẩm chất đạo đức lối sống, quản lý sử dụng đất đai, xây dựng. Qua đó, đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trong việc chấp hành Điều lệ và kỷ luật của Đảng.

5.7. Hiệu lực quản lý Nhà nước từng bước được nâng cao, công tác cải cách hành chính được thực hiện tích cực

Bộ máy chính quyền từ huyện đến xã, thị trấn được củng cố, kiện toàn; tăng cường cán bộ có trình độ, có năng lực cho các phòng, ban chuyên môn và các xã, thị trấn; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học trở lên đạt 89,32% (tăng 14% so năm 2010), trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên đạt 50,48%; triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, đào tạo chuyên môn, kỹ năng giao tiếp cho gần 5.000 lượt cán bộ, công chức viên chức.

Cải cách hành chính đạt kết quả tích cực, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Nhà nước; cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” được duy trì, đảm bảo công khai, minh bạch về thủ tục hồ sơ và quy trình giải quyết. Triển khai ứng dụng phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc, ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 góp phần nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý Nhà nước, tăng cường kỷ luật hành chính; tình trạng gây phiền hà, sách nhiễu đối với người dân đã giảm; tỷ lệ hồ sơ trễ hạn giảm còn 1,17%.

6. Tăng cường lãnh đạo công tác dân vận của Đảng; mở rộng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được mở rộng, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tập trung chỉ đạo xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, “về công tác dân tộc”, “về công tác tôn giáo”; xây dựng quy chế thực hiện Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị về quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, Chương trình hành động số 24-CTrHĐ/TU của Thành ủy về công tác vận động nhân dân; các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, 7 (khóa X) về xây dựng giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức, về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, về công tác thanh niên, về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; nhất là lãnh đạo thực hiện Chương trình hành động số 37-CTrHĐ/HU của Huyện ủy về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Thông tri số 29-TT/HU về lãnh đạo thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Quan tâm thực hiện các chủ trương, chính sách chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo môi trường thuận lợi cho nông dân, công nhân lao động, các doanh nghiệp, đội ngũ trí thức lao động sản xuất, cải thiện cuộc sống, qua đó đoàn kết, động viên, phát huy tiềm lực, trí tuệ của các tầng lớp nhân dân đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển chung của huyện. Liên đoàn Lao động quan tâm chăm lo cho lực lượng công nhân, nhiều phong trào thi đua “Lao động giỏi - Lao động sáng tạo”, “Bàn tay vàng” đã giúp cho công nhân có 148 sáng kiến cải tiến kỹ thuật được phát huy mang lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, giúp làm lợi, tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu cho doanh nghiệp trên 06 tỷ đồng. Hội Nông dân đóng góp tích cực trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, phát huy vai trò chủ thể của nông dân xây dựng nông thôn mới[18]. Tiếp tục thực hiện nghị quyết về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh thực hiện phong trào phụ nữ học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, hưởng ứng cuộc vận động người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, tham gia phản biện xã hội, giám sát thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; chất lượng công tác thanh niên được chú trọng nâng cao về chất lượng, số lượng, chủ động, xung kích đi đầu các phong trào hành động, đã thực hiện được 1.604 công trình thanh niên, với tổng trị giá trên 10 tỷ đồng; Hội Cựu chiến binh đã tiến hành đồng bộ các giải pháp xây dựng hội trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tỷ lệ hội viên vào hội đạt 98%, đảng viên đạt 25,7%; hội viên tham gia sinh hoạt thường xuyên; gương mẫu thực hiện tốt các phong trào, nhất là cuộc vận động “chung sức xây dựng nông thôn mới” toàn hội có 77 hộ hiến 8.712m2 đất làm đường giao thông nông thôn trị giá hơn 7 tỷ đồng. Cán bộ Hưu trí dành nhiều thời gian cho giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thanh niên và thế hệ trẻ. Đội ngũ trí thức đã phát huy chuyên môn, tay nghề, đóng góp có hiệu quả trong quá trình phát triển ở các lĩnh vực quản lý nhà nước, khoa học, kỹ thuật, y tế, giáo dục, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa, cải thiện ngày càng tốt hơn đời sống người lao động và nhân dân. Các tổ chức Hội quần chúng, các Câu lạc bộ truyền thống là lực lượng tâm huyết, có nhiều kinh nghiệm tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tổ chức nhiều hoạt động giáo dục truyền thống cách mạng, nêu gương sáng trên địa bàn. Đồng bào các dân tộc, đồng bào có đạo, các chức sắc tôn giáo chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, sống “tốt đời đẹp đạo” có nhiều hoạt động, tích cực cùng với Mặt trận tổ quốc huyện, Hội Chữ thập đỏ huyện tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và nhiều công tác thiện nguyện, nhân đạo ở địa phương, góp phần xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc bền vững.

Huyện ủy đã đề ra nhiều giải pháp phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương đối với công tác dân vận của cả hệ thống chính trị, trong đó quan tâm nhân sự, tổ chức của Mặt trận - đoàn thể, có Nghị quyết về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện “tiêu chuẩn hóa” cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; thường xuyên kiện toàn tổ chức, cơ cấu, củng cố, nâng cao năng lực, trình độ của các ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Ủy viên Ban Chấp hành các đoàn thể chính trị - xã hội đủ số lượng, đảm bảo hoạt động có chất lượng, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, vừa có phẩm chất đạo đức, kỹ năng vận động nhân dân. Bên cạnh đó, đã luân chuyển, bố trí cán bộ công tác Đảng, chính quyền sang công tác Mặt trận - đoàn thể và ngược lại, nhìn chung, hầu hết cán bộ được luân chuyển đều thể hiện tốt năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Lãnh đạo đổi mới phương pháp xây dựng phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của ngành dọc cấp trên và chỉ đạo của Huyện ủy liên quan đến chương trình, chỉ tiêu, thang điểm thi đua, và thực tiễn nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, quần chúng. Đổi mới công tác lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phối hợp với Ủy ban nhân dân huyện, các phòng ban chuyên môn, lực lượng vũ trang, các tổ chức tín dụng, ngân hàng ngày càng hoạt động hiệu quả. Đổi mới công tác tập họp quần chúng và phát huy tính năng động, chủ động của cơ sở, tích cực vận động, phát huy vai trò những người có uy tín trong cộng đồng để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể và các Hội quần chúng có nhiều chuyển biến trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và tập hợp quần chúng theo hướng sát cơ sở, nội dung thiết thực nhiều hoạt động tọa đàm, hội thảo, hội thi, hội thao, tập huấn theo từng cụm xã; thường xuyên tổ chức cán bộ lãnh đạo tiếp xúc, đối thoại với các chi, tổ hội, đoàn viên, hội viên và quần chúng các giới, để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân để kịp thời khắc phục những hạn chế trong quá trình hoạt động, đồng thời có đề xuất với cơ quan thẩm quyền xem xét, giải quyết những bức xúc, kiến nghị của dân; phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước[19]; tích cực bảo vệ, chăm lo đời sống, lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất kinh doanh làm giàu chính đáng. Qua đó, đã tập hợp được lực lượng quần chúng tham gia các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội ngày càng đông hơn, mang lại hiệu quả thiết thực. Trình độ chuyên môn, chính trị của đội ngũ cán bộ Mặt trận, các Đoàn thể so với đầu nhiệm kỳ đã nâng lên và chuyển biến rõ rệt; có 100% Mặt trận - đoàn thể huyện xuất sắc, vững mạnh, trên 90% Mặt trận - đoàn thể xã - thị trấn xuất sắc, vững mạnh đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra. Công tác vận động nhân dân ngày càng đổi mới, nhất là kể từ khi có Quy chế thực hiện công tác dân vận của hệ thống chính trị và Chương trình hành động về công tác vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tinh thần trách nhiệm của của cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi.

7. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng đời sống người dân[20]

Xác định Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một trong những chương trình trọng điểm trong nhiệm kỳ. Huyện chọn xã Tân Nhựt là xã có xuất phát điểm thấp làm điểm triển khai xây dựng nông thôn mới, sau đó tiếp tục triển khai ở 13 xã. Đến nay, có 12/14 xã được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới, riêng xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B hoàn thành 17/19 tiêu chí (trừ tiêu chí Văn hóa và Môi trường). Kết quả đạt được ở mỗi xã tuy có khác nhau, nhưng nhìn chung có chuyển biến tích cực, diện mạo nông thôn mới đã có nhiều khởi sắc, thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư. Các công trình xây dựng cơ bản được tập trung đầu tư, hạ tầng giao thông nông thôn được nâng cấp, kết nối đồng bộ, tạo thuận lợi trong phát triển sản xuất, kinh doanh. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, nhiều mô hình kinh tế có hiệu quả, nâng cao thu nhập và mức sống người dân. Hệ thống chính trị được củng cố, dân chủ cơ sở được phát huy, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Kết quả triển khai các chương trình đào tạo nghề, giảm nghèo tăng hộ khá, hỗ trợ vốn cho nông dân sản xuất đã phát huy tác dụng tạo việc làm cho lao động nông thôn, kéo giảm chênh lệch mức sống giữa dân cư đô thị và nông thôn. Thông qua chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển các tổ hợp tác, hợp tác xã đã từng bước giúp người dân trao đổi kinh nghiệm, hình thành chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ, đảm bảo đầu ra nông sản và nâng cao thu nhập cho người dân. Những thành tựu đó đã góp phần thay đổi toàn diện nông thôn.

8. Các chương trình, công trình trọng điểm được tập trung

Tập trung triển khai, thực hiện 04 chương trình trọng điểm, cụ thể: Chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đến nay tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp tăng bình quân 4,7%, giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân từ 100 triệu đồng/ha (năm 2009) lên 180 triệu đồng/ha (năm 2014). Cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch đúng định hướng, tăng tỷ trọng chăn nuôi, giảm tỷ trọng trồng trọt, trong lĩnh vực trồng trọt giảm dần diện tích lúa, tăng diện tích sản xuất rau an toàn, hoa lan, cây kiểng. Hướng phát triển nông nghiệp đô thị có sự chuyển dịch sang các loại cây trồng, vật nuôi có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao hơn. Triển khai đồng bộ các giải pháp nên tình hình dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi đã được kiểm soát, các ổ dịch được phát hiện, cô lập kịp thời, không có xảy ra dịch bệnh trên diện rộng; Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường mang lại hiệu quả bước đầu, nhận thức của người dân về nước sạch và vệ sinh môi trường ngày càng nâng cao, bỏ dần thói quen sử dụng nước ao hồ, sông rạch bị ô nhiễm góp phần ngăn chặn các dịch bệnh. Đa số người dân đồng thuận hưởng ứng cùng tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường, thực hiện thu gom rác sinh hoạt đúng quy định, xóa bỏ nhà vệ sinh trên sông, kênh rạch, ao; Hoàn thành Chương trình xây dựng nông thôn mới ở 12/14 xã; Chương trình Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai, xây dựng và môi trường trên địa bàn huyện có chuyển biến tích cực[21].

Triển khai thực hiện 08 công trình trọng điểm, cụ thể: Dự án xây dựng Hạ tầng kỹ thuật khu Trung tâm hành chính huyện và Trụ sở Huyện ủy - Ủy ban nhân dân huyện đã hoàn thành và đưa vào sử dụng; Dự án xây dựng Khu tưởng niệm Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đến nay, đã san lắp mặt bằng: Khối lượng thi công đạt 98%[22], đang thi công đầu tư Hạ tầng kỹ thuật hoàn thiện các gói thầu thuộc các hạng mục: khu vui chơi giải trí, tiến độ đạt 98%. Đã khởi công gói thầu xây lắp, đang thi công các hạng mục nhà dịch vụ, sân khấu ngoài trời, chòi nghỉ, nhà vệ sinh, bãi tập kết rác, hàng rào, trồng cây thuộc dự án đầu tư xây dựng kiến trúc cảnh quan; Dự án xây dựng hệ thống thủy lợi Khu B, xã Bình Lợi gồm 03 gói thầu: 02 gói thầu xây lắp và 01 gói thiết bị, gói thầu xây lắp đã khởi công ngày 15/6/2012, đã thi công xong 19/19 hạng mục cống, 02 cầu giao thông TS1 và TS3; Khối lượng đạt 95% (khối lượng còn lại là công tác hoàn thiện). Gói thầu mua sắm thiết bị: đạt 70% khối lượng (30% khối lượng còn lại là thiết bị cửa cống đang̃ tiếp tục thực hiện); Dự án xây dựng Trung tâm Y tế dự phòng huyện đang triển khai, dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng quí 4/2015; Dự án xây dựng Bệnh viện huyện Bình Chánh đã khởi công gói thầu xây lắp, hiện đang thi công ép cọc sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 2016; Dự án xây dựng cầu kênh Xáng Ngang - Bình Lợi đã được Ủy ban nhân dân thành phố bố trí vốn khởi công mới 20 tỷ đồng, đã khởi công phần cầu chính trong tháng 06 năm 2015, thời gian thi công khoảng 360 ngày; Dự án Bồi thường, giải phóng mặt bằng Dự án đầu tư xây dựng đường nối Đại lộ Võ Văn Kiệt với đường ô tô cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương đang triển khai công tác thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; Dự án đầu tư xây dựng Khu tái định cư 12 ha Đa Phước chưa thực hiện do ảnh hưởng thị trường bất động sản nên không kêu gọi được nhà đầu tư vào dự án.

II. HẠN CHẾ, YẾU KÉM

1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong đó các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và thu ngân sách tuy tăng đều qua các năm nhưng không đạt chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội đề ra. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa theo kịp so với yêu cầu phát triển chung của thành phố. Thu hút đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của huyện; đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội chưa đáp ứng kịp sự phát triển nhanh nhu cầu đô thị hóa.

2. Tình trạng mua bán lấn chiếm lòng lề đường, chợ tự phát vào giờ cao điểm còn tồn tại ở nhiều khu vực đông dân cư làm hạn chế giao thông ở một số trục đường; tai nạn giao thông, tệ nạn ma túy, nguy cơ cháy nổ vẫn còn diễn biến phức tạp; việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường trong khu dân cư chưa thực hiện; một số quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường chưa được thực hiện nghiêm túc.

3. Chính sách bồi thường và tái định cư chưa được thực hiện tốt, làm ảnh hưởng đến đời sống của bộ phận người dân. Việc kiến nghị thu hồi các dự án chậm triển khai tuy có quyết liệt nhưng kết quả chưa cao. Công tác Quản lý Nhà nước về đất đai, xây dựng có tập trung và được kéo giảm đáng kể. Tuy nhiên trong nhiệm kỳ vẫn còn những hạn chế nhất định, trong năm 2013, để xảy ra bùng phát xây dựng không phép ở các xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, Tân Kiên, Bình Hưng phải cưỡng chế tháo dỡ làm thiệt hại đến tài sản của Nhân dân và ảnh hưởng uy tín lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền tại địa phương.

4. Trường học, lớp học ở một số xã đô thị hóa chưa đáp ứng kịp số học sinh tăng nhanh. Chất lượng dạy nghề và số lượng tìm được việc làm sau đào tạo nghề còn thấp; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế chưa đáp ứng đủ yêu cầu khám chữa bệnh, số giường bệnh, chỉ tiêu 10 bác sĩ/10 nghìn dân còn thấp so chỉ tiêu Nghị quyết ( đạt 5,1 bác sĩ/10 nghìn dân). Đầu tư thiết chế văn hóa phục vụ vui chơi, giải trí chưa đáp ứng nhu cầu của Nhân dân.

5. Trình độ, nhận thức chính trị của lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên chưa đồng đều, tỷ lệ doanh nghiệp tham gia bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh còn thấp. Tình hình an ninh chính trị phát sinh những vấn đề mới; trật tự an toàn xã hội, phạm pháp hình sự mặc dù đã được kéo giảm nhưng chưa vững chắc; tệ nạn ma túy diễn biến phức tạp. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, điều kiện cơ sở vật chất các cơ quan tư pháp tuy có nâng lên nhưng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Kết quả thi hành án dân sự thấp; công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, công tác hòa giải ở cơ sở chưa đạt hiệu quả cao.

6. Một số tổ chức cơ sở đảng, cơ quan, đơn vị chưa nhận thức sâu sắc tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, có tư tưởng kiểm điểm xong là hoàn tất, chậm triển khai các giải pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm, thụ động trông chờ chỉ đạo của cấp trên.

Vẫn còn 8,6% cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa thực hiện tốt sổ đăng ký “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Việc chọn đơn vị điểm ở một số chi bộ trực thuộc chưa thực hiện tốt, chưa sơ kết rút kinh nghiệm kịp thời. Chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa đáp ứng yêu cầu; có chú trọng nâng cao và đổi mới công tác tuyên truyền miệng nhưng chưa đồng đều. Việc đánh giá tác động của công tác tư tưởng, chính trị trong cán bộ, đảng viên và nhân dân có quan tâm thực hiện nhưng chưa sâu, chưa nắm bắt, xử lý kịp thời một số dư luận xã hội trước những diễn biến tình hình mới.

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng tuy có nâng lên nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị; hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo có mặt còn hạn chế. Kết quả đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh chưa đạt chỉ tiêu đề ra[23].

Một số cấp ủy tuy có xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát nhưng còn dàn đều thiếu xác định thời điểm, trọng tâm, trọng điểm nên nội dung kiểm tra, giám sát chưa mang lại hiệu quả cao. Có trường hợp đảng viên có dấu hiệu vi phạm nhưng cấp ủy thiếu lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra nên dẫn đến một số tổ chức đảng, đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật.

7. Công tác vận động nhân dân có đổi mới nhưng chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ và sự phát triển dân số trên địa bàn. Vai trò phản biện của mặt trận và đoàn thể có lúc chưa phát huy đầy đủ. Nội dung đổi mới công tác Mặt trận và đoàn thể có nơi chưa phù hợp, chưa sát thực tế, thiếu tính chủ động, chưa phát huy hết vai trò của lực lượng nòng cốt cơ sở.

8. Một số công trình, chương trình trọng điểm đang triển khai nhưng còn một số hạn chế như: Chương trình tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai, xây dựng và môi trường đạt hiệu quả chưa cao; công trình xây dựng hệ thống thủy lợi Khu B - xã Bình Lợi thực hiện không đúng tiến độ thời gian, vướng công tác bồi thường giải phóng mặt bằng do thay đổi qui định của Luật đất đai năm 2013 và một số chính sách bồi thường; chưa thực hiện công trình xây dựng Khu tái định cư 12ha - xã Đa Phước do ảnh hưởng thị trường bất động sản nên không kêu gọi được nhà đầu tư vào dự án.

Nhìn chung, năm năm qua, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân huyện Bình Chánh tập trung, nỗ lực vượt khó khăn, phát huy nguồn lực, khai thác tiềm năng đất đai, vị trí cửa ngõ phía Tây thành phố. Kinh tế tiếp tục phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng; Đầu tư xây dựng cơ bản được tập trung mạnh mẽ; công tác quy hoạch có nhiều tiến bộ. Hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới. Đời sống vật chất, tinh thần cho người dân được nâng lên, chính sách an sinh xã hội, giáo dục, y tế có bước phát triển tích cực. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục giữ vững; cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chỉ đạo chặt chẽ. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có nhiều kết quả tốt; phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ huyện đề ra.

Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X vẫn còn một số nội dung chưa đạt, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại. Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực quy hoạch, hạ tầng kỹ thuật, đất đai, xây dựng, môi trường, trật tự an toàn xã hội có tập trung nhưng vẫn còn nhiều hạn chế; việc triển khai, thực hiện một số chương trình, công trình trọng điểm còn chậm. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chưa thực hiện tốt. Hoạt động các loại hình ở lĩnh vực văn hóa và dịch vụ văn hóa còn diễn biến phức tạp. Tai nạn giao thông, nguy cơ cháy nổ có chiều hướng gia tăng. Tình trạng mua bán lấn chiếm lòng lề đường, chợ tự phát còn tồn tại. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn nhiều mặt còn hạn chế. Công tác vận động nhân dân có đổi mới nhưng chưa theo kịp yêu cầu, việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mặt trận và đoàn thể có nơi chưa phù hợp, chưa phát huy hết sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

III. NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM

1. Nguyên nhân đạt được

Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Đảng bộ huyện, luôn luôn được sự quan tâm lãnh đạo sâu sát và hỗ trợ của Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, giải quyết các kiến nghị của huyện. Qua đó tạo sự chuyển biến tích cực trong phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, hoàn thành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, góp phần thúc đẩy nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân huyện Bình Chánh.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng bộ huyện luôn bám sát thực tiễn, vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của huyện với tinh thần chủ động, trách nhiệm; phát huy tinh thần đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ, sự lãnh đạo tập trung của các cấp ủy Đảng; sự điều hành đồng bộ và quyết liệt của chính quyền, sự nỗ lực của mặt trận đoàn thể. Đặc biệt là sự đồng thuận và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong triển khai các dự án về hạ tầng kỹ thuật, xã hội của Trung ương, thành phố và huyện, vì mục tiêu chung phát triển huyện Bình Chánh bền vững.

Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo nội dung Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng” đã góp phần làm cho cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, ngăn chặn kịp thời suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức. Khắc phục được nhiều mặt hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng; lãnh đạo giải quyết một số vấn đề nổi cộm, bức xúc làm ảnh hưởng chất lượng cuộc sống người dân. Qua đó đội ngũ cán bộ trưởng thành về nhiều mặt, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao.

2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém

Về chỉ tiêu tốc độ tăng thu ngân sách 25%/năm là khá cao so với tỉ lệ đạt được (6,95%/năm), 10 bác sĩ/10 nghìn dân,... do chưa đánh giá đúng chiều hướng phát triển của huyện, cũng như không dự báo được tình hình lạm phát, suy thoái kinh tế tác động làm thu hẹp sản xuất, kinh doanh bất động sản ngưng trệ làm ảnh hưởng đến nguồn thu.

Nguyên nhân chính của những yếu kém là do sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Ban Thường vụ Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện có lúc, có nơi chưa theo kịp diễn biến thực tiễn. Năng lực lãnh đạo, điều hành của một số cấp ủy, chính quyền chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, thiếu kiên quyết, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị thực hiện nhiệm vụ trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, tình hình quản lý đất đai, xây dựng, đặc biệt ở một số xã chăn nuôi heo tự phát gây ô nhiễm môi trường, giải tỏa mua bán lấn chiếm lề đường... các cơ quan chuyên môn chưa kiên trì phối hợp và hỗ trợ của các sở, ngành thành phố để giải quyết các khó khăn của huyện. Công tác chỉ đạo chế tài, xử lý đối với các vi phạm kỷ luật, kỷ cương hành chính có lúc còn xem nhẹ, tính răn đe, giáo dục chưa cao.

Kỷ luật hành chính trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn hạn chế. Mối quan hệ phối hợp công tác ở một số ngành, chưa gắn bó chặt chẽ, đôi lúc lúng túng trong xử lý, đặc biệt là đối với những vấn đề có tính chất phức tạp còn bị động. Sự phối hợp giữa một số cơ quan chức năng trong tham mưu, đề xuất xử lý công việc chưa hiệu quả, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm; đặc biệt là vẫn còn có sự trì trệ, thụ động về trách nhiệm của một bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ tham mưu thừa hành. Đội ngũ cán bộ chưa phát huy hết vai trò tham mưu, nghiên cứu, đề xuất các biện pháp đột phá nhằm giải quyết các vấn đề bức thiết từ thực tiễn.

Trong chỉ đạo hoạt động của một số cơ quan, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện còn thiếu sự đầu tư, hỗ trợ cho cơ sở. Việc đầu tư giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động của chi đoàn, chi hội ở địa bàn dân cư hiệu quả chưa cao. Chưa có nhiều giải pháp và mô hình mới trong bồi dưỡng, rèn luyện, xây dựng nòng cốt phong trào ở cơ sở, còn hạn chế về kỹ năng tập hợp nhiều lực lượng mới ở địa bàn dân cư.

Công tác tuyên truyền, vận động chưa thực sự sâu, nội dung và hình thức tuyên tuyền chưa sát, hợp với từng loại đối tượng, việc nhân rộng gương điển hình tiên tiến trong các phong trào ở cộng đồng dân cư chưa thường xuyên, chưa kịp thời. Việc đánh giá tổ chức cơ sở đảng, đánh giá kết quả thi đua của các cơ quan, đơn vị đánh giá cán bộ, đảng viên chưa gắn kết chặt chẽ giữa tiêu chí và mô tả kết quả công việc, nên một số chỉ tiêu chưa rõ ràng khó phân định từ đó chưa sát thực tiễn.

3. Một số kinh nghiệm

Thứ nhất, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, truyền thống cách mạng kiên cường, năng động sáng tạo của huyện Bình Chánh anh hùng trong thực hiện nhiệm vụ, đoàn kết, thống nhất tạo được sự tin tưởng và đồng thuận trong nhân dân. Tăng cường công tác xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, triển khai thực hiện tốt các giải pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; tập thể Ban Thường vụ Huyện ủy phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết, tạo sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động trong toàn Đảng bộ huyện. Thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải chú trọng cả hai mặt nâng cao trình độ lý luận và năng lực thực tiễn, đánh giá, bố trí đúng cán bộ.

Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn triển khai các dự án hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Trước tiên cán bộ lãnh đạo quản lý, đảng viên phải gương mẫu trong thực hiện, có uy tín trong vận động quần chúng, thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, vận động nhân dân đồng thuận, tích cực tham gia các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; đồng thời, tạo sự thống nhất trong toàn Đảng bộ về chủ trương, giải pháp để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị.

Thứ ba, kinh nghiệm thực tiễn trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy phải nhạy bén, nắm bắt thực tiễn từ cơ sở và mạnh dạn, kiên trì đề xuất những giải pháp đột phá tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh để tạo động lực cho phát triển ngày càng cao.

Thứ tư, huy động mọi nguồn lực xây dựng nông thôn mới, chăm lo tốt cho an sinh xã hội, chăm lo cho cơ sở; từng bước nâng cao đời sống cho nhân dân; đảm bảo hài hòa lợi ích xã hội gắn với lợi ích thiết thực của người dân.

Thứ năm, tổ chức sơ kết, tổng kết thực tiễn, nhân rộng điển hình, mô hình, kinh nghiệm, cách làm phù hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, kịp thời điều chỉnh, khắc phục những mặt còn hạn chế, thiếu sót, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

***

PHẦN THỨ HAI

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG ĐẢNG BỘ VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2020

Trong 5 năm tới, với vị trí là cửa ngõ phía Tây Nam thành phố, có tốc độ đô thị hóa nhanh, nằm trong xu thế phát triển chung của thành phố, huyện Bình Chánh xác định những thuận lợi như nhiều cơ chế, chính sách vĩ mô được điều chỉnh, bổ sung sát thực tiễn hơn; tiếp tục được sự quan tâm lãnh đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố; sự hỗ trợ tích cực của Mặt trận, đoàn thể và các cơ quan chuyên môn cấp thành phố; Đảng bộ huyện đoàn kết thống nhất, chủ động, sáng tạo, quyết tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực thực tiễn; hệ thống chính quyền được củng cố, kiện toàn; khối đại đoàn kết toàn dân tộc và phong trào quần chúng ngày càng mở rộng. Quỹ đất của huyện còn lớn, các phân khu chức năng được quy hoạch khá hoàn chỉnh là nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển đô thị, thu hút đầu tư; nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội trọng điểm của Trung ương, thành phố được tập trung đầu tư như đường cao tốc Bến Lức - Long Thành, đường song hành Quốc lộ 50, đường nối Võ Văn Kiệt với đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, các dự án về bệnh viện, trường học cùng với hạ tầng nông thôn được kết nối tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội cho huyện.

Tuy vậy, vẫn còn những khó khăn nhất định, cần tập trung tháo gỡ như các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế của huyện chưa được khai thác triệt để; lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng, trật tự đô thị còn hạn chế; phạm pháp hình sự, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, sản xuất hàng gian, hàng giả, mất an toàn vệ sinh thực phẩm còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp với phương thức, thủ đoạn tinh vi hơn; công tác giảm hộ nghèo tuy đạt nhiều kết quả nhưng nguy cơ tái nghèo vẫn còn; dân số cơ học tiếp tục tăng nhanh, tạo áp lực giải quyết việc làm, nhu cầu nhà ở, nhu cầu học tập, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân rất lớn; là địa bàn thuộc vùng trũng, thấp có nguy cơ cao bị ảnh hưởng do thiên tai, dịch bệnh.

I. MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân, khai thác có hiệu quả các nguồn lực, vị trí cửa ngõ phía Tây Nam thành phố, tăng trưởng kinh tế; nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị, đẩy nhanh đầu tư hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo quy hoạch (hệ thống giao thông, cấp thoát nước, giáo dục, y tế); giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân; tạo động lực thúc đẩy huyện Bình Chánh phát triển nhanh, bền vững.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu

(1) Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành kinh tế bình quân giai đoạn 2015 - 2020 đạt 20%/năm (theo giá so sánh năm 2010), trong đó ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 21%/năm; ngành dịch vụ, thương mại tăng 17,5%/năm, ngành nông nghiệp tăng 5%/năm. Đến năm 2020, tỷ trọng ngành công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp chiếm tỷ lệ 80%, dịch vụ, thương mại 17,5% và nông nghiệp 2,5%.

(2) Phấn đấu giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên 5.000 tỷ đồng.

(3) Tốc độ tăng thu ngân sách Nhà nước bình quân đạt 7%/năm, trong đó tốc độ tăng thu thuế công thương nghiệp đạt 12%/năm.

(4) Đến năm 2020, tổng diện tích nhà ở xây dựng mới đạt 2,568 triệu m2, diện tích nhà ở bình quân đầu người đạt 19,8m2/người.

(5) Phấn đấu giải quyết việc làm tại chỗ ít nhất 30.000 lao động; đến cuối năm 2020 kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp dưới 4%. Tỷ lệ lao động có việc làm đã qua đào tạo nghề đạt 85%.

(6) Đến năm 2020, phấn đấu ít nhất 90% dân số tham gia bảo hiểm y tế và 90% người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; 100% trạm y tế xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia. Tốc độ tăng dân số tự nhiên hàng năm giai đoạn 2016 - 2020 tiếp tục duy trì dưới 1,17%.

(7) Đến năm 2020, nâng thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng 3,5 lần so năm 2011; giảm tỷ lệ hộ nghèo ít nhất từ 3 - 4%/năm.

(8) Trong nhiệm kỳ phấn đấu cung cấp nước sạch cho các hộ dân đạt 100%. Xử lý dứt điểm các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường; di dời các cơ sở sản xuất, các điểm chăn nuôi gây ô nhiễm môi trường xen cài trong khu dân cư. Nước thải sinh hoạt ở các khu dân cư hiện hữu có hệ thống thoát nước đạt 55%, khu dân cư đầu tư mới đạt 100%; các khu, cụm công nghiệp đạt 100%.

(9) Hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân và các tiêu chuẩn giáo dục quốc phòng , an ninh cho đảng viên, hệ thống chính trị, doanh nghiệp, cán bộ và các thành viên ở ấp - khu phố, tổ dân phố, tổ nhân dân; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 0,9% so với tổng dân số; tổ chức diễn tập trị an hàng năm cấp xã - thị trấn đạt chỉ tiêu theo quy định.

(10) Phấn đấu kiềm chế sự gia tăng phạm pháp hình sự và kéo giảm tội phạm hình sự trên số dân. Phấn đấu điều tra khám phá án hình sự đạt 75% trở lên, khám phá án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt trên 90%; kéo giảm tai nạn giao thông 5%/năm trên cả 3 mặt; giải quyết dứt điểm và không để phát sinh các tụ điểm phức tạp về ma túy và tệ nạn xã hội; tất cả người nghiện đều được lập hồ sơ quản lý theo quy định. Phấn đấu xây dựng 100 % xã - thị trấn đạt loại khá về phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; có trên 80% khu dân cư, xã - thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn “an toàn về an ninh trật tự”. Kiềm chế kéo giảm số vụ cháy xảy ra hàng năm, không để xảy ra cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

(11) Trong nhiệm kỳ, phấn đấu xây dựng tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém 2 năm liên tục. Kết nạp ít nhất 1.500 đảng viên, trong đó có 20% đảng viên khu vực doanh nghiệp và địa bàn dân cư. Có từ 98% đảng viên phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ. Thành lập tổ chức đảng trong các doanh nghiệp có 500 lao động trở lên sản xuất kinh doanh ổn định; thành lập ít nhất 12 chi bộ trong các doanh nghiệp có trên 100 lao động; 16 chi bộ trong các doanh nghiệp dưới 100 lao động. Hàng năm các tổ chức Mặt trận, đoàn thể, Hội quần chúng cấp huyện phải có sáng kiến về đổi mới phương thức hoạt động được Hội đồng thi đua huyện công nhận kết quả thi đua hàng năm đều đạt từ xuất sắc trở lên.

3. Các chương trình trọng điểm

(1) Hoàn thiện đề án: Nâng cấp huyện Bình Chánh thành quận hoặc thị xã (Theo kết luận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố tại Thông báo số 417/TB-VP ngày 06 tháng 6 năm 2015) trình cơ quan chức năng phê duyệt và triển khai thực hiện.

(2) Chương trình giảm ô nhiễm môi trường giai đoạn 2015 - 2020.

(3) Chương trình đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm giai đoạn 2015 - 2020.

(4) Chương trình nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng huyện nông thôn mới, trong đó tập trung xây dựng xã Bình Hưng, thị trấn Tân Túc phù hợp với các tiêu chí nông thôn mới.

(5) Chương trình cung cấp nước sạch cho nhân dân.

4. Các công trình trọng điểm

(1) Xây dựng Khu di tích Vườn Thơm, xây dựng mới nhà bia tưởng niệm Tiểu đoàn 6 Bình Tân, xã Bình Lợi, nhà bia Bộ đội An Điền, xã Vĩnh Lộc A.

(2) Hoàn thành các công trình giao thông: Đường Vĩnh Lộc, đường Trần Đại Nghĩa (giai đoạn 2), đường nối Võ Văn Kiệt, thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, cầu Tân Bửu, cầu Rạch Rô (xã Đa Phước).

II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

1. Tập trung phát triển các ngành kinh tế

- Lĩnh vực công nghiệp: chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp có hàm lượng tri thức, công nghệ cao có lợi thế cạnh tranh, thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, công nghiệp phục vụ nông thôn. Chú trọng kêu gọi đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp có giá trị như cơ khí, điện tử và chế biến lương thực, thực phẩm. Rà soát, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh và đầu tư cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Huy động các nguồn lực tài chính của các thành phần kinh tế phục vụ cho phát triển sản xuất kinh doanh và hoàn thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu. Kêu gọi đầu tư chương trình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp đến năm 2020. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và tăng năng suất lao động. Phấn đấu đến năm 2020, các cơ sở sản xuất, kinh doanh áp dụng các biện pháp quản lý, xử lý chất thải đạt chuẩn về môi trường; 80% doanh nghiệp sử dụng máy móc thiết bị công nghệ tiên tiến trong khu vực đầu tư mới, đơn giản các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển.

- Lĩnh vực dịch vụ: Phát triển các nhóm ngành dịch vụ chủ yếu có tiềm năng và là thế mạnh của huyện như: tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; thương mại; dịch vụ vận tải; bưu chính, viễn thông; y tế; giáo dục - đào tạo;… đẩy mạnh hệ thống phân phối bán sỉ, lẻ phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Đa dạng hóa mô hình, phương thức kinh doanh theo hướng hiện đại, có kế hoạch đầu tư nâng cấp các chợ truyền thống. Phát huy hiệu quả chương trình bình ổn thị trường các mặt hàng thiết yếu gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đẩy mạnh các chương trình “Phiên chợ hàng Việt” tại các khu dân cư, khu công nghiệp. Kết nối doanh nghiệp và hệ thống phân phối hàng hóa Việt. Kiểm tra, kiểm soát thị trường không để xảy ra tình trạng biến động giá, đầu cơ, tăng giá bất hợp lý.

- Lĩnh vực nông nghiệp: Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị; chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng nông nghiệp sạch, tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học; thúc đẩy việc liên kết, hợp tác trong sản xuất nông nghiệp, phát triển các vùng sản xuất chuyên canh, sản xuất hàng hóa. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất sản xuất nông nghiệp phù hợp; triển khai cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi. Kiểm tra, kiểm soát, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm có nguồn gốc động vật, thực vật, thủy sản, công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng, chống cháy rừng, bảo vệ động vật hoang dã.

- Đảm bảo cân đối các khoản thu - chi ngân sách, thực hiện tốt công tác bồi dưỡng nguồn thu, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả đầu tư công: Kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế của các tổ chức, cá nhân, chống thất thu, hạn chế nợ đọng. Công khai minh bạch thu, chi ngân sách Nhà nước, đầu tư công, nhất là đầu tư từ ngân sách Nhà nước, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí ngay từ dự toán ngân sách của đơn vị. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, thu hút các nguồn vốn, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Đảm bảo duy trì và nâng cao nguồn thu thuế công thương nghiệp, khai thác nguồn thu từ việc sắp xếp bán đấu giá nhà, đất theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ.

Đẩy mạnh giám sát cộng đồng từ quá trình chuẩn bị, tổ chức thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công để đảm bảo công khai, minh bạch, chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng.

2. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị, nông thôn bền vững gắn với đẩy mạnh thực hiện các Chương trình đột phá của thành phố về hạ tầng đô thị. Nâng cao chất lượng quản lý đô thị, quy hoạch và thực hiện theo quy hoạch

Tiếp tục thực hiện Chương trình hành động số 27-CTrHĐ/TU của Thành ủy về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ trên địa bàn thành phố; ưu tiên các chương trình chống ngập nước, chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, các công trình y tế, văn hóa trọng điểm,... Kiểm soát chặt chẽ phạm vi, quy mô của từng dự án đầu tư theo đúng mục tiêu, lĩnh vực, chương trình đã phê duyệt, đảm bảo có đủ nguồn vốn.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đô thị và qui hoạch. Tiếp tục kiến nghị hủy bỏ các quyết định, các dự án chậm triển khai, thu hồi các diện tích mặt đất, mặt nước đã giao cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả để tạo nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng khai thác, sử dụng có hiệu quả.

Thực hiện tốt chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để giải phóng mặt bằng, thu hồi đất theo qui định; chủ động tạo quỹ nền tái định cư và căn hộ, bảo đảm quyền lợi của người bị thu hồi đất.

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhằm đảm bảo phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 tầm nhìn 2025. Triển khai thực hiện quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu, các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết. Quản lý nhà nước theo quy hoạch, chú trọng giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện quy hoạch và xử lý nghiêm các vi phạm.

Thực hiện các đồ án quy hoạch về phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ, có hiệu quả; khẩn trương xác định cốt nền xây dựng, mép bờ cao, hành lang lộ giới đường giao thông và sông, kênh, rạch, quy hoạch công trình ngầm. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền và cung cấp đầy đủ thông tin về quy hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật tạo sự đồng thuận, hưởng ứng tham gia thực hiện và giám sát của Nhân dân.

Đẩy nhanh tiến độ phát triển các dự án nhà ở; tập trung hoàn thành các công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, nhà ở tại các dự án đã được phê duyệt; tăng cường công tác kiểm tra giám sát các chủ đầu tư trong thực hiện dự án. Khảo sát thống kê các dự án có san lấp sông, kênh, rạch và đề xuất các giải pháp phòng chống ngập úng, biến đổi khí hậu.

3. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện, đảm bảo mục tiêu đào tạo con người, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội huyện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Tiếp tục duy trì tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi ra lớp đạt 100%; trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%; hoàn thành chương trình cấp học vào lớp 6 đạt trên 99%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở vào lớp 10 công lập, giáo dục thường xuyên, trung cấp nghề, trung học chuyên nghiệp trên 95%; duy trì và nâng cao kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục năm sau cao hơn năm trước; phân luồng học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở 30%.

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục, tiếp tục thực hiện Đề án “phổ cập và nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh cho học sinh phổ thông và chuyên nghiệp thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015”. Phấn đấu đến năm 2020 có học sinh học 2 buổi/ngày theo quy định: mầm non: 100%; tiểu học: 60%; trung học cơ sở: 65%.

Huyện tiếp tục việc khuyến khích, động viên tinh thần cho các thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục về tư tưởng chính trị, đạo đức, trình độ đào tạo và năng lực nghề nghiệp. Phấn đấu trong nhiệm kỳ, các thầy cô giáo đều đủ trình độ sử dụng công nghệ thông tin, đảm bảo trình độ giáo viên trên chuẩn ở các bậc học, cấp học: mầm non 65%, tiểu học: 95%; trung học cơ sở: 90%. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học theo hướng tiêu chuẩn hóa, đảm bảo đủ phòng học và điều kiện thiết yếu cho giáo viên và học sinh.

Tiếp tục triển khai chương trình xã hội hóa giáo dục, tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của mỗi công dân, kêu gọi, khuyến khích thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, xây dựng trường học; nâng cao vai trò quản lý Nhà nước, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho người dân. Đẩy mạnh việc thực hiện đề án “xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020”; Đề án “xóa mù chữ, giai đoạn 2014 - 2020”; đa dạng hóa các hình thực học tập, tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận giáo dục, khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm không đúng quy định; hỗ trợ học sinh nghèo đều được đến trường.

Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, tăng số lượng tuyển sinh, nâng hiệu quả đào tạo, đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, bổ sung và đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến, gắn đào tạo với giải quyết việc làm. Đa dạng hóa phương thức chương trình đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên dạy nghề. Triển khai có hiệu quả đề án dạy nghề lao động nông thôn.

4. Tiếp tục nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, xây dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh, nếp sống văn minh đô thị, tôn trọng pháp luật, kỷ cương. Đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao nhân dân, chú trọng đầu tư nâng chất thể thao thành tích cao; nâng cao ý thức và hành động trong thực hiện nếp sống văn minh đô thị

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Hướng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng công sở, từng gia đình, từng người dân. Đến năm 2020, giữ vững và nâng cao tỷ lệ gia đình đạt chuẩn gia đình văn hóa trên 90%; tỷ lệ khu phố văn hóa, ấp văn hóa trên 72%; tỷ lệ xã - thị trấn có nhà văn hóa, thư viện 50%, phấn đấu xây dựng 50% xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới. Tiếp tục tuyên tuyền việc cưới, việc tang, lễ hội theo hướng văn minh, tiết kiệm, chống phô trương, xa hoa, lãng phí. Xây dựng ý thức giữ gìn môi trường và văn minh nơi công cộng, đấu tranh, bài trừ hủ tục, mê tín, dị đoan. Huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa và các công trình di tích lịch sử, nhằm phục vụ đời sống văn hóa tinh thần, giáo dục truyền thống cho Nhân dân.

5. Chú trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân; thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu y tế quốc gia và các chương trình sức khỏe của thành phố. Khống chế kịp thời các dịch bệnh nguy hiểm trên người, phát triển mạng lưới giám sát dịch bệnh

Tiếp tục tuyên truyền, vận động và giáo dục về dân số, kế hoạch hóa gia đình, nhất là với thanh niên và người dân ở vùng nông thôn. Phát triển mô hình khoa vệ tinh, phòng khám vệ tinh; duy trì và nâng chất cơ sở vật chất các Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; triển khai mô hình bác sĩ gia đình; tăng cường công tác xã hội hóa y tế, phát triển mạng lưới y tế tư nhân; thực hiện tốt chính sách khám chữa bệnh và chính sách bảo hiểm y tế toàn dân.

Triển khai đề án Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở vật chất ngành y tế thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020; tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống y tế chuyên sâu. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh (chuẩn hóa các phác đồ điều trị, hệ thống xét nghiệm đạt chuẩn nội và ngoại kiểm, công tác kiểm soát nhiễm khuẩn); hoàn chỉnh và khai thác Bệnh viện huyện, trong đó, tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực cho ngành y tế, lực lượng cán bộ quản lý, lực lượng y, bác sĩ chuyên khoa, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu.

Dự phòng toàn diện và có trọng điểm, ưu tiên phòng chống các bệnh gây dịch nguy hiểm, đặc biệt là các bệnh mới phát sinh, trang bị đầy đủ thiết bị, cơ sở vật chất và nhân lực trong công tác dự phòng. Thực hiện tốt các Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Chủ động phòng, chống các bệnh mãn tính không lây. Tiếp tục thực hiện các mục tiêu an toàn thực phẩm theo đề án an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2025, quản lý thức ăn đường phố. Tăng cường hoạt động về truyền thông giáo dục sức khỏe; giám sát và xử lý các chất thải y tế. Xã hội hóa công tác phòng chống các bệnh truyền nhiễm.

6. Bảo đảm tốt an sinh xã hội, quan tâm giải quyết việc làm; thực hiện tốt Chương trình mục tiêu giảm nghèo, tăng hộ khá; cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân

Tổ chức thu thập và cung cấp thông tin thị trường lao động cho người lao động và người sử dụng lao động. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách hỗ trợ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, chính sách hỗ trợ đào tạo lao động; các giải pháp giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội cho người nghèo. Tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở,…). Rà soát, kiểm tra việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi. Tăng cường vận động nguồn lực để đảm bảo thực hiện các chương trình an sinh xã hội cho trẻ em đến năm 2020.

Đẩy mạnh đào tạo nghề chất lượng cao phục vụ nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng quy mô đào tạo. Nâng cao năng lực quản lý nguồn lao động tại các xã - thị trấn. Chú trọng dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ, người nghèo, người sau cai nghiện; đặc biệt dạy nghề cho nông dân, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, vùng chuyển đổi cơ cấu kinh tế để góp phần chuyển dịch lao động.

7. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng

Thực hiện nghiêm túc Kết luận số 86-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về “Tăng cường công tác lãnh đạo đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới”. Quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22 tháng 9 năm 2008 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới” và Chương trình hành động số 49-CTr/TU của Thành ủy về thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Tổ chức diễn tập phòng chống biểu tình, diễn tập khu vực phòng thủ theo định kỳ. Hoàn thành tốt công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, đảm bảo hoàn thành số lượng và chất lượng. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên bảo đảm chất lượng. Thực hiện tốt công tác giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng theo quy định.

Đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW của Bộ Chính trị thực hiện chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm ma túy đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Chương trình hành động số 09-CTr/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới; tập trung thực hiện tốt công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội theo chương trình mục tiêu 03 giảm; thí điểm lắp đặt hệ thống camera ở các khu vực trọng điểm để phòng chống tội phạm theo phương thức xã hội hóa. Phát động sâu rộng phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ giữ vững an ninh quốc gia với thực hiện nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại; nâng cao ý thức cảnh giác trong nhân dân, nhận thức về bảo vệ an ninh trật tự. Phối hợp công tác giữa Công an các tỉnh giáp ranh và các quận - huyện trong việc giữ vững an ninh trật tự.

Thực hiện nghiêm Chương trình hành động số 26-CTr/TU ngày 20 tháng 6 năm 2012 của Ban Thường vụ Thành ủy và Kế hoạch số 3852/KH-UBNDTP ngày 03 tháng 8 năm 2012 của Ủy ban nhân dân thành phố thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới”. Chú trọng công tác phòng ngừa và ngăn chặn các hình thức phạm tội mới, lợi dụng công nghệ cao để phạm tội. Tăng cường công tác quản lý cư trú, quản lý người nước ngoài, ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, quản lý vũ khí vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ an ninh trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông. Đảm bảo trật tự an toàn giao thông, kéo giảm tai nạn giao thông trên cả 3 mặt, giảm đến mức thấp nhất tình trạng ùn tắc giao thông; giải quyết cơ bản tình hình tụ tập đua xe trái phép gây mất trật tự công cộng.

Tập trung thực hiện Chỉ thị số 31-CT/TU ngày 27 tháng 5 năm 2015 của Ban Thường vụ Thành ủy về tăng cường lãnh đạo công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Tập trung tuyên tuyền, giám sát thực hiện có hiệu quả công tác phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; mỗi khu phố, ấp phải có lực lượng và phương tiện chữa cháy đủ mạnh để chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ kịp thời. Xử lý nghiêm các vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy. Thành lập 02 đội chữa cháy khu vực thuộc Phòng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy huyện.

8. Thực hiện có hiệu quả chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí

Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; phối hợp chặt chẽ cơ quan ngành dọc để củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong giải quyết án tạm đình chỉ, công tác thi hành án dân sự, không để quá hạn theo luật định.

Thực hiện tốt Luật phòng, chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, đảm bảo công khai, minh bạch khi thực thi chính sách pháp luật. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, phối hợp tốt giữa các cơ quan chuyên môn và vai trò nhân dân tập trung các lĩnh vực: quản lý đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý vốn, tài sản Nhà nước. Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức theo Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03 tháng 01 năm 2014 của Bộ Chính trị. Phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực , xử lý đúng người, đúng tội, đủ sức răn đe. Thực hiện tốt công tác xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm; ngăn chặn kịp thời các dấu hiệu tham nhũng.

9. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng hệ thống chính trị và tổ chức đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức

Tiếp tục thực hiện các giải pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đẩy mạnh rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện Đề án 02-ĐA/TU ngày 24 tháng 3 năm 2014 của Ban Thường vụ Thành ủy về phòng, chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ thành phố và phản bác các quan điểm sai trái. Nâng cao chất lượng việc học tập chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Cải tiến nội dung, hình thức tuyên truyền, giáo dục chính trị, thông tin thời sự. Nghiên cứu nắm bắt, giải quyết kịp thời tình hình tư tưởng, dư luận xã hội liên quan đến vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng.

Nâng cao chất lượng thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương. Chỉ đạo chặt chẽ công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực hiện có hiệu quả Kết luận hội nghị Trung ương 9, khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ đến năm 2020, tập trung đổi mới đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ.

Chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra, giám sát từ huyện đến cơ sở, bám sát thực tiễn; ngăn chặn và xử lý kịp thời các sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát vai trò người đứng đầu trong thực hiện chức trách nhiệm vụ, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo đúng quy trình thời gian; xử lý nhanh, chính xác các trường hợp vi phạm chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Củng cố bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, vận động quần chúng nhân dân, từ huyện đến cơ sở đảm bảo chất lượng.

Đổi mới phương pháp, lề lối làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy, phát huy dân chủ, thực hiện nghiêm túc kỷ cương, nguyên tắc của Đảng; nâng cao chất lượng hội nghị, giảm hội họp, tăng cường đi cơ sở.

10. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Kiện toàn, sắp xếp hợp lý tổ chức bộ máy Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã - thị trấn; tiếp tục thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính tạo động lực cho cán bộ, công chức an tâm công tác. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ có trình độ, năng lực cho hệ thống chính trị. Có kế hoạch luân chuyển cán bộ. Kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy hành chính những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, tiêu cực, tham nhũng, phiền hà dân. Công khai, minh bạch công tác tuyển dụng công chức.

Đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức; chú trọng kỹ năng quản lý điều hành, thực hiện công vụ và giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị. Hướng tới tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức với số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, cơ cấu hợp lý, có trình độ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ.

Hiện đại hóa nền hành chính, kiện toàn phương thức điều hành, ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008. Cải cách hành chính theo hướng minh bạch, thường xuyên khảo sát chỉ số hài lòng của người dân để điều chỉnh cho phù hợp.

11. Phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ với phương thức lãnh đạo phù hợp

Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25 tháng 2 năm 2010 của Bộ Chính trị và Quyết định số 489-QĐ/TU ngày 16 tháng 7 năm 2011 của Ban Thường vụ Thành ủy về quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; các Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị và Thông tri số 31-TT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về lãnh đạo thực hiện Quy chế giám sát phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.

Phát huy vai trò của mặt trận, đoàn thể trong công tác tuyên truyền vận động Nhân dân, thi đua yêu nước bằng nhiều mô hình sinh động, phong phú. Gắn các phong trào hành động cách mạng với vận động quần chúng tích cực thực hiện nếp sống văn minh đô thị, chương trình mục tiêu “3 giảm”, cuộc vận động vì người nghèo; phong trào sản xuất kinh doanh giỏi, nâng cao chất lượng cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, gắn mục tiêu tập hợp nhiều quần chúng, nâng cao chất lượng hoạt động của chi, tổ hội quần chúng ở địa bàn dân cư. Đẩy mạnh các hoạt động thiết thực chăm lo các đối tượng chính sách, hộ nghèo, người khuyết tật, neo đơn, công nhân, nông dân, sinh viên và lực lượng vũ trang có thu nhập thấp. Tăng cường công tác giám sát cộng đồng, thường xuyên đối thoại giữa chính quyền với doanh nghiệp. Thực hiện tốt việc giải quyết khiếu nại, trực tiếp đối thoại, tiếp công dân.

Chủ động phối hợp với chính quyền để triển khai, thực hiện giám sát các hoạt động liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân; nâng cao hiệu quả các chương trình liên tịch giữa mặt trận, đoàn thể, lực lượng vũ trang, các hội quần chúng, góp phần xây dựng tốt khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao chất lượng hoạt động, phát huy vai trò người có uy tín trong cộng đồng, tri thức tiêu biểu, chức sắc tôn giáo, người cao tuổi, doanh nhân… làm nòng cốt trong các phong trào do mặt trận, đoàn thể phát động.

Thực hiện nghiêm Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, tổng kết kinh nghiệm, giải pháp thực hiện quy chế dân chủ cơ quan. Gắn thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền. Tiếp tục chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng mặt trận, đoàn thể vững mạnh.

12. Xây dựng Đoàn thanh niên vững mạnh

Hàng năm có nghị quyết lãnh đạo công tác thanh niên của huyện phát triển toàn diện, lành mạnh, nhất là giáo dục, đào tạo, giải quyết việc làm, vui chơi, giải trí, hỗ trợ các nguồn vốn để giúp thanh niên khởi nghiệp, phát triển kinh tế. Tạo điều kiện tốt hơn về cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động Đoàn, Hội, Đội. Quan tâm giao nhiệm vụ cho cán bộ đoàn, đoàn viên và thanh niên tham gia thực hiện nhiều công trình thanh niên góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; tuyên dương các gương thanh niên sống đẹp, sống có ích, phát huy điển hình thanh niên tiên tiến trên mọi lĩnh vực, từ đó lựa chọn bồi dưỡng đoàn viên ưu tú để tạo nguồn kết nạp Đảng. Chăm lo cho công tác xây dựng thế hệ thanh niên vừa hồng vừa chuyên, lực lượng đoàn viên nồng cốt trong các hoạt động, xây dựng hệ thống chi đoàn vững mạnh, đặc biệt là đẩy mạnh việc xây dựng tổ chức Đoàn, Hội ngoài khu vực nhà nước và các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.

Nhận thức trách nhiệm sâu sắc đối với nhân dân, nhằm phát huy truyền thống đoàn kết, chủ động, sáng tạo, Đảng bộ huyện Bình Chánh quyết tâm huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, thống nhất hành động, phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI nhiệm kỳ 2015 - 2020.

T/M BAN CHẤP HÀNH

Bí thư Nguyễn Văn Phụng


[1] Tính đến năm 2015, Khu dân cư mới: Trung Sơn, Him Lam ở xã Bình Hưng, Conic xã Phong Phú, khu tái định cư Vĩnh Lộc B; các trục đường giao thông quan trọng: Nguyễn Văn Linh nối dài, đoạn nối đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, nâng cấp Quốc lộ 50, Tỉnh lộ 10, Nguyễn Hữu Trí, Trung tâm hành chính huyện; hạ tầng xã hội: Bệnh viện Nhi Đồng, Trung tâm Y tế dự phòng, Bệnh viện Bình Chánh; khu tưởng niệm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại xã Tân Nhựt.

[2] Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2010 - 2015 đề ra chỉ tiêu tính giá cố định năm 1994 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 27%/năm; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 30%/năm; dịch vụ, thương mại tăng bình quân 22%/năm; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 5%/năm. Hiện nay do thành phố quy định tính giá cố định năm 2010, có thấp hơn: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 19,60%/năm; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 21,30%/năm; dịch vụ, thương mại tăng bình quân 17%/năm; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,30%/năm.

[3] Năm 2010 là 74,46% đến năm 2015 tăng lên 80,8% (chỉ tiêu Nghị quyết 81%).

[4] Hợp tác xã Phước An, Phước Bình.

[5] Nhiệm kỳ qua đã thành lập mới 3.700 và giải thể 893 công ty, hộ cá thể.

[6] Các dự án giao thông, y tế, giáo dục ở 14 xã nông thôn mới, cụm 3 trường ở thị trấn Tân Túc, trường Trung cấp nghề Trần Đại Nghĩa, trường THPT Vĩnh Lộc B, trường Tiểu học Tân Kiên, các trục đường chính do Trung ương, Thành phố triển khai và đưa vào sử dụng như nút giao thông Bình Thuận, Trần Văn Giàu, Nguyễn Hữu Trí.

[7] Năm 2010, có 151 trường hợp sinh con thứ 3, năm 2014 còn 143 trường hợp, giảm 08 trường hợp.

[8] Kèm theo Báo cáo chuyên đề về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

[9] Đã tổ chức các chuyên đề “thực trạng và giải pháp chăm lo đời sống của những hộ dân bị giải tỏa ở các dự án”; chuyên đề “giải pháp kiềm chế tai nạn giao thông”,... tìm giải pháp thực hiện sâu sát, phù hợp với nguyện vọng nhân dân. Ban Thường vụ Huyện ủy đề ra 78 giải pháp. Đến nay đã triển khai, thực hiện 75/78 giải pháp (96,15%). Trong đó: về đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên: 22 giải pháp; về xây dựng đội ngũ cán bộ: 17 giải pháp; về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng: 14 giải pháp; về lãnh đạo giải quyết một số vấn đề nổi cộm, bức xúc ảnh hưởng chất lượng cuộc sống người dân trên địa bàn: 22 giải pháp.

[10] Kèm báo cáo chuyên đề về kết quả thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

[11] Đã tổ chức giao lưu với 01 tập thể và 10 cá nhân; 116 tập thể và 489 cá nhân được khen thưởng cấp huyện; 08 tập thể và 13 cá nhân được khen thưởng cấp Thành phố; 263 tập thể và 1.470 cá nhân được tuyên dương, khen thưởng cấp cơ sở; 383 gương điển hình thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác cấp chi đoàn và đoàn cơ sở.

[12] Đã biểu dương, khen thưởng 390 cá nhân có thành tích trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cấp huyện từ năm 2011 đến 2015, có 35 đồng chí là cán bộ lãnh đạo các phòng, ban của huyện và lãnh đạo chủ chốt xã - thị trấn.

[13] Có 314/321 chi bộ trực thuộc và 24/24 chi bộ cơ sở

[14] Có 177/321 chi bộ trực thuộc và 11/24 chi bộ cơ sở

[15] Trong đó có 26 cán bộ nữ quy hoạch Ban Thường vụ và 25 cán bộ quy hoạch chức danh khác.

[16] Trong quy hoạch cán bộ, tỷ lệ cán bộ nữ chiếm trên 37%; đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo ở các cơ quan chuyên môn thuộc huyện và các xã - thị trấn ngày càng tăng (năm 2011 tỷ lệ 36,8% và đến nay đạt tỷ lệ 55,56%), đào tạo, bồi dưỡng chiếm tỷ lệ 48,52%. Tham gia cấp ủy chi, đảng bộ cơ sở nhiệm kỳ 2015 - 2020, 133 đồng chí tỷ lệ (33,76%). Tổng số cán bộ nữ các chức danh diện huyện ủy quản lý hiện nay 84/271 đồng chí, chiếm tỷ lệ 31%.

[17] Trong đó có 05 Huyện ủy viên, 28 Đảng ủy viên, 35 Chi ủy viên

[18] Có 2.719 hộ đã hiến 318.000m2 diện tích đất, với trị giá trên 232 tỷ đồng, cùng hàng ngàn ngày công lao động trực tiếp để nâng cấp, mở rộng và làm mới trên 130 tuyến đường chính và nhiều tuyến hẻm được bê tông hóa; đã hỗ trợ vay vốn trên 76 tỷ đồng cho nông dân chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng đô thị, thành lập 14 hợp tác xã, 49 tổ hợp tác với 35 mô hình sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần giải quyết 7.023 người có việc làm ổn định, đời sống nông dân ngày càng được nâng lên.

[19] Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phong trào hiến đất làm đường, cuộc vận động vì người nghèo, chương trình an sinh xã hội, giảm nghèo tăng hộ khá, xây dựng nông thôn mới…

[20] Báo cáo chuyên đề về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

[21] Có báo cáo chuyên đề về kết quả thực hiện Kết luận 04-KL/HU ngày 09 tháng 01 năm 2012 của Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ 8 về tăng cường lãnh đạo công tác quản lý đất đai, xây dựng trên địa bàn huyện trong thời kỳ công nghiệp hóa và phát triển đô thị.

[22] Diện tích là 109.591,1m2 trên tổng số 109.691,5m2

[23] Tỷ lệ cơ sở đảng trong sạch vững mạnh năm 2011 đạt 52,27%, năm 2012 đạt 64,44%, năm 2013 đạt 62,22%, năm 2014 đạt 48,93% do thực hiện theo Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW tỉ lệ cơ sở đảng trong sạch vững mạnh không vượt quá 50% (Chỉ tiêu Nghị quyết 75%).

Thông báo