Thứ Sáu, ngày 29 tháng 3 năm 2024

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ nhất

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ nhất, Đại hội đại biểu Quận 3 họp từ ngày 26/5 đến 3/6/1977 đã thảo luận bản báo cáo tình hình và nhiệm vụ của Ban chấp hành Quận Đảng bộ và nhất trí nhận định:

Bước vào giai đoạn mới, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ, Quận 3 cùng toàn Thành phố tập trung thực hiện những nhiệm vụ công tác cấp bách trước mắt của Thành phố. Nền chuyên chính vô sản được thành lập, tiến hành đấu tranh giai cấp ở buổi đầu và đứng trước vô vàn khó khăn đã diễn ra rất căng thẳng gay go phức tạp hàng ngày hàng giờ. Cuộc đấu tranh phát triển liên tục, đã tạo được chuyển biến cách mạng sâu sắc toàn diện trên các mặt hoạt động cách mạng và đời sống xã hội trong Quận.

TÌNH HÌNH QUẬN 3 HAI NĂM QUA:

1. Những thành quả đã đạt được:

a. Về chính trị, thành lập chính quyền cách mạng, truy quét và cải tạo địch, trấn áp phản cách mạng hiện hành, ổn định và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.

Chính quyền chuyên chính vô sản được xây dựng và không ngừng củng cố từ Quận đến Phường, ngày càng phát huy vai trò quản lý hành chánh, quản lý xã hội. Khối nội chính được hình thành và kiện toàn, màng lưới bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở phát huy tác dụng tích cực.

Truy quét và cải tạo địch, thực hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng, khôi phục quyền công dân 98,3% số cải tạo tại chỗ, đưa về gia đình gần 800 số cải tạo tập trung. Kiên quyết và kịp thời trấn áp bọn phản cách mạng hiện hành, phá vở 25 tổ chức và nhen nhóm phản động, bắt nhiều tên đầu sỏ, đồng thời ta cũng trấn áp bọn tội phạm hình sự, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Kết hợp với Thành, ta đã xoá bỏ 8 tư sản mại bản, trừng trị 3 đại gian, thương hiện hành.

b. Về kinh tế đời sống, tập trung cứu đói, phân bố lại lao động, giải quyết công ăn việc làm, khôi phục và phát triển một bước sản xuất, lưu thông phân phối, từng bước ổn định đời sống quần chúng.

Nạn đói do dịch để lại trở thành công tác bức bách sau ngày giải phóng, ta cứu đói, phát động quần chúng tự cứu đã giải quyết tốt…

Phân bố lại lao động, giải quyết công ăn việc làm, biện pháp lớn nhất và ta làm có kết quả, có nhiều kinh nghiệm là vận động đồng bào hồi hương, giản dân, xây dựng vùng kinh tế mới, Quận đã giảm dân số tuyệt đối 27,8%, góp phần xây dựng 16 xã kinh tế mới, cộng với đưa vào sản xuất, làm việc trong các cơ quan nhà nước. Quận đã giảm số người không công ăn việc làm xuống còn phân nửa.

Sản xuất tiểu thủ ôcng nghiệp trong Quận phát triển, số hộ sản xuất tăng gấp đôi so với trước giải phóng, tổng sản lượng khoảng 12 triệu đồng. Ta đã xây dựng và củng cố 50 tổ hợp sản xuất, tập hợp hơn 1/3 số lao động tiểu thủ công nghiệp, năm 1976 tổng sản lượng chiếm 1/6 tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp.

Khâu lưu thông phân phối quốc doanh và tập thể được xây dựng và phát triển nhanh vào cuối năm 1976, doanh thu bằng 4 lần số vốn. Tổ phục vụ gạo có điều kiện trở thành lực lượng sự nghiệp quốc doanh, HTX tiêu thụ đi vào thực hiện 3 chức năng, giao thông vận tải đã đảm bảo phần lớn việc chuyên chở khách và hàng hoá.

Khu vực kinh tế xã hội chủ nghĩa về sản xuất và kinh doanh chiếm hơn 16% tổng số lao động, gần 5% tổng số vốn, gần 29% tổng số doanh thu trong Quận.

Tài chính đã quản lý được thu chi, bước đầu quản lý tài sản, ngân hàng có tiến bộ trong chức năng nhiệm vụ, thuế đã thây 55-60% số hộ phải đóng thuế.

c. Về tư tưởng và văn hoá đã cải tạo và xây dựng một bước.

Nền văn hoá mới phát triển và đang đi vào chiều sâu. Phong trào đọc sách báo cách mạng, hệ thống truyền thanh trong Quận, sáng tác và biểu diễn văn nghệ trở thành yêu cầu trong đời sống nhân dân, việc công lập hoá trường tư, vận động xoá mù chữ, bổ túc văn hoá, mở nhà trẻ, trường mẫu giáo có kết quả tốt. Mạng lưới y tế mở rộng đến cơ sở, đã có phong trào vệ sinh phòng bệnh, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, sinh đẻ có kế hoạch; việc điều trị và phân phối thức, sử dụng thuốc nam có tiến bộ. Phong trào thể dục thể thao trên đà phát triển. Công tác xã hội thương binh đi vào thực hiện chính sách, tạo được ảnh hưởng tốt trong quần chúng.

Do tác động của cuộc đầu tranh cải tạo và xây dựng, do kết quả trực tiếp của công tác tư tưởng và văn hoá, nhận thức tư tưởng của công nhân, lao động, thanh thiếu niên, một bộ phận trí thức có những chuyển biến tích cực sâu sắc. 99% cử tri trong quận đi bầu cử quốc hội chung cho cả nước khẳng định cần thống nhất sớm nước nhà và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đông đảo nhân dân xác định được lao động là quyền lợi nghĩa vụ, đã tích cực tham gia phong trào lao động sản xuất và công tác, hàng vạn người vào các xí nghiệp cơ quan nhà nước, hàng vạn người đi lao động xã hội chủ nghĩa, gần 6.000 người đi làm thuỷ lợi ngoại thành vượt mức kế hoạch, hơn 2.600 thanh niên xung phong. Bước đầu quần chúng đã ý thức được và thực sự đã làm chủ trên các mặt về chính trị, bảo vệ an ninh Tổ quốc, phân phối, trên 100.000 người đóng góp trên 1 vạn ý kiến với Đại hội đảng lần thứ 4, Đại hội Đảng bộ Thành phố và Quận, 99,71% cử tri đi bầu cử Hội đồng nhân dân Thành phố và Quận. Quần chúng được phát động giáo dục hưởng ứng và chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

d. Hệ thống chuyên chính vô sản được xây dựng và kiện toàn

Thực lực cách mạng chiếm 53,8% so độ tuổi tổ chức, nơi khá trên 70%, nơi kém 35-40%, có 2.000 cốt cán quần chúng và đoàn viên, trên 800 đảng viên.

Hệ thống chuyên chính vô sản hoàn chỉnh từ Quận đến Phường xuống tận chân rết. Tổ dân phố, tiểu tổ, tiểu đội bám chặt nhân dân lao động các giới, đã làm được nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục, tập hợp lực lượng và hướng dẫn quần chúng tham gia sôi nổi các phong trào cách mạng.

Chính quyền Quận phường đã phát huy vai trò quản lý hành chính, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Các phòng, ban được củng cố tăng cường, từng bước đi vào chức năng nhiệm vụ.

Đảng bộ đã xác lập được quyền lãnh đạo trực tiếp, công khai và toàn diện cơ sở. Chi bộ phường đã biết đề ra nhiệm vụ chính trị, biết biến nghị quyết của chi bộ thành hành động cách mạng của quần chúng qua hệ thống chính quyền, các đoàn thể quần chúng và đảng viên trực tiếp nắm tiểu tổ, tiểu đội.

Tuy do nhiều nguồn đảng viên họp lại, chưa hiểu biết nhau lại chưa hiểu biết quần chúng tại chỗ, nhiệm vụ chính trị mới, phải lao vào giải quyết nhiều công tác bức bách ngày đêm, đảng bộ biết duy trì nguyên tắc làm việc tập thể dân chủ, giữ vững sinh hoạt lệ, tự phê bình phê bình, ngăn chặn một mức thoái hoá về phẩm chất đạo đức cách mạng, tăng cường đoàn kết nội bộ, quan hệ mật thiết với quần chúng để hoàn thành nhiệm vụ.

2. Khuyết, nhược điểm và tồn tại:

a. Về khách quan, quan hệ sản xuất, tư bản chủ nghĩa và tính tự phát của nền sản xuất nhỏ là những trở ngại lớn. Đồng thời hậu quả của chiến tranh xâm lược và chủ nghĩa thực dân mới còn rất lớn trên các mặt. Giai cấp tư sản và các thế lực phản động chưa từ bỏ âm mưu phá hoại và ngăn cản bước đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta.

b. Về chủ quan, ta có cả khuyết và nhược điểm. Nhận thức về đường lối chính sách chưa sâu, một số chủ trương lớn chưa học tập hết đảng viên, điều tra cơ bản nắm tình hình đã lãnh đạo chỉ đạo đến đầu năm nay Quận mới làm được, các tổ chức cơ sở Đảng chưa nắm được tình hình cơ bản nơi mình phục trách. Cơ cấu tổ chức chưa đàp ứng nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, thực lực trong các cơ sở sản xuất kinh doanh còn ít, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật còn ít, việc phân công phân cấp chưa rõ ràng. Tư tưởng, về mặt chính trị có mơ hồ đối với giai cấp tư sản, còn nhấn mạnh mặt tiêu cực của quần chúng cơ bản; về mặt ý thức là chủ nghĩa cá nhân dưới nhiều màu sắc, một số cán bộ đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, chạy theo sinh hoạt vật chất, một số thoái hoá, một ít biến chất, về phương pháp là chủ nghĩa chủ quan, một chiều, bản vị cục bộ, dùng quyền lực nguyn tắc kiềm chế nội bộ, gây khó khăn cho quần chúng, xâm phạm tài sản tính mạng của nhân dân; về tác phong lề lối làm việc quan liêu, thủ tục giấy tờ phiền phức đã thành tệ, mặt khác phân tán, tản mạn thành thói quen.

3. Nhận xét chung:

a. Với thành quả đạt được trong 2 năm qua, Quận 3 cùng toàn Thành phố hoàn thành giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định một bước đời sống nhân dân. Những thắng lợi đó tạo điều kiện thuận lợi để sắp tới ta chuyển mạnh sang thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

b. Những thắng lợi trên đây bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của TW Đảng, của Thành uỷ và được sự chi viện to lớn về các mặt. Nhưng người trực tiếp tạo nên những biến đổi sâu sắc về nhiều mặt ở Thành phố như trong Quận 3 là nhân dân lao động vừa thoát khỏi cảnh áp bức bóc lột và bước đầu thấy được vai trò của mình trong chế độ mới lại được sự dìu dắt của một Đảng bộ có quyết tâm cao, đầy nhiệt tình và sáng tạo, dám nghĩ dám làm, có tinh thần trách nhiệm trước dân trước Đảng.

Quận uỷ coi trọng điều tra cơ bản nắm tình hình toàn diện trong quận, tập trung củng cố chi bộ cơ sở đặc biệt là chi bộ phường, đi lần vào lãnh đạo kinh tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản ở quận và phường. Đảng bộ đoàn kết thống nhất, gắn bó với quần chúng, tạo mọi điều kiện để không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng bộ đã vừa học vừa làm, vừa làm vừa học, đã không ngừng tiến lên, có sáng kiến và kinh nghiệm phong phú để thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

c. Về nguyên nhân khuyết nhược điểm và tồn tại. Đại hội đại biểu Đảng bộ nhấn mạnh, đối với tồn tại của xã hội ta phải đặt thành nhiệm vụ hàng đầu trong thời gian hai năm tới, phải nỗ lực phi thường trong cuộc đấu tranh giai cấp hết sức gay go quyết liệt phức tạp để xoá xong bóc lột, giành thắng lợi cho công cuộc cải tạo và xây dựng.

Về chủ quan ta có khuyết và nhược điểm nhưng phải đánh giá cho đúng thành tích là chính, ưu điểm là cơ bản đồng thời cũng không thể xem thường khuyết nhược điểm, muốn giải quyết khuyết nhược điểm chủ quan cũng phải theo yêu cầu và gắn liền với đấu tranh giải quyết tồn tại của xã hội. Những tồn tại khách quan tác động vào Đảng bộ, công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa theo kịp yêu cầu, ta có tổn thất một số cán bộ đảng viên và gây ảnh hưởng không tốt trong quần chúng. Sắp tới ta phải nỗ lực vươn lên, phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết nhược điểm, tập trung tấn công vào kẻ thù để cải tạo đồng thời xây dựng mạnh mẽ thì ta càng khắc phục nhanh khuyết nhược điểm, xây dựng nội bộ Đảng càng vững mạnh thì trong đấu tranh càng ít tổn thất và ta cũng đã có kinh nghiệm.

Cuộc đấu tranh giai cấp cũng tác động mạnh vào nhân dân lao động nhất là trong bộ phận quần chúng kém giác ngộ, bộ phận tiểu tư sản trung và trên vì kinh tế và quan hệ sản xuất họ gần với tư sản, phải phân biệt bọn lưu manh sống bám và phá hoại xã hội với nhân dân lao động. Cần đánh giá quần chúng cho đúng, phải dựa vào công nhân, lao động, trí thức xã hội chủ nghĩa, tăng cường tuyên truyền giáo dục quần chúng, hướng dẫn quần chúng tự phê bình và phê bình, dùng tích cực đoàn kết số trung bình và lôi kéo số kém, phát huy ưu điểm thành tích để khắc phục khuyết nhược điểm trong quần chúng.

d. Trên xu thế đi lên của cả nước, của Thành phố, với thành quả đạt được 2 năm qua, với khả năng và triển vọng mới tuy tồn tại còn to lớn, nhất định chúng ta sẽ giành thắng lợi trong công cuộc cải tạo và xây dựng sắp tới.

II. NHIỆM VỤ, MỤC TIÊU, CHỈ TIÊU, BIỆN PHÁP CÔNG TÁC TRONG 2 NĂM 1977-1978

1. Vai trò nhiệm vụ và khả năng đặc điểm quận 3:

a. Về nguyên tắc Thành phố là một thể thống nhất về hành chính và kinh tế theo mọi kế hoạch chung và lãnh đạo chỉ đạo tập trung thống nhất. Nhưng trong thời kỳ quá độ, tình hình chưa ổn định, công cuộc cải tạo và xây dựng to lớn và khẩn trương nên từ Thành xuống Quận và Phường có sự phân công cụ thể để các cấp cùng làm, tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ ngang và sự chỉ đạo của hệ thống dọc, hợp đồng xã hội chủ nghĩa, huy động sức mạnh tổng hợp toàn Thành và từng cấp để cải tạo và xây dựng cho nhanh và vững chắc. Do đó, đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng bộ Thành phố xác nhận quận nội thành là 1 đơn vị  hành chính và có quản lý kinh tế, nhất là tiểu thủ công nghiệp, có phần kinh doanh theo kế hoạch của Thành, có phần ngân sách do Thành phân phối.

b.Trong đặc điểm chung của Thành phố có đặc điểm và khả năng riêng từng Quận.

Quận 3 ở trung tâm Thành phố, có vị trí quan trọng về chính trị và văn hoá vì ở đây là nơi đầu não địch trước kia và có nhiều cơ sở văn hoá lớn, nay cũng là nơi tập trung cơ quan các cấp, có nhiều nơi làm việc và chỗ ở, có đông cán bộ công nhân viên chiến sĩ. Quận phải quản lý hành chính, bảo vệ, phân phối đồng thời Quận Phường biết huy động các lực lượng trên sẽ tăng sức mạnh to lớn.

Quận 3 còn khá quan trọng về kinh tế, có thế mạnh về lao động, về cơ sở sản xuất kinh doanh, về vốn đầu tư, về thiết bị máy móc và cán bộ khoa học kỹ thuật, thợ lành nghề nhất là cơ khí và thủ công mỹ nghệ. Ta phải biết phát huy tiềm năng để đóng góp vào công cuộc cải tạo và xây dựg Thành phố thành một trung tâm công nghiệp, một trung tâm văn hoá, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước.

2. Nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp công tác của Quận trong 2 năm 1977-1978

Từ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chung từ nay đến hết năm 1980 và từ nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể 2 năm 1977-1978 của Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, từ vai trò nhiệm vụ và khả năng đặc điểm Quận 3 là một Quận nội thành. Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng bộ Quận 3 xác nhận 6 nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp công tác của Quận trong 2 năm 1977-1978 như sau:

Công tác thứ nhất: CẢI TẠO QUAN HỆ SẢN XUẤT CŨ, XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT MỚI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ỔN ĐỊNH VÀ TỪNG BƯỚC CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG

Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là công tác có tầm quan trọng hàng đầu trong toàn bộ công tác của Đảng bộ và nhân dân Thành phố. Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa gắn rất chặt với khôi phục và phát triển kinh tế. Đây là một công tác mới, phải có quyết tâm cao, vừa làm vừa học.

Theo sự phân công giữa Thành phố và các Quận nội thành thì Thành phố cải tạo tư bản tư doanh công thương nghiệp, Quận và phường cải tạo kinh tế cá thể. Các cơ sở sản xuất và kinh doanh đều ở phường nên Quận và phường có trách nhiệm phục vụ và cùng với trên cải tạo tư sản. Giữa Quận và phường thì quận phân công cho phường phụ trách các tổ hợp sản xuất, sản xuất gia đình, sản xuất cá thể, tổ phục vụ gạo, hợp tác xã tiêu thụ, chuyển tiểu thương sang sản xuất những ngành hàng do Nhà nước quản lý, sắp xếp tổ chức hướng dẫn mua bán các tiểu thương những ngành hàng Nhà nước chưa quản lý.

1. Cải tạo và xây dựng tiểu thủ công nghiệp:

a. Cải tạo và xây dựng tiểu thủ công nghiệp là sắp xếp, tổ chức các ngành này đi vào con đường làm ăn tập thể dưới các hình thức: Tổ sản xuất và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hình thành các nhóm sản phẩm, những vệ tinh của các xí nghiệp trung tâm, hoạt động theo qui hoạch của Nhà nước.

b. Yêu cầu chỉ tiêu phấn đấu:

1. Cùng với Thành phố cải tạo 115 hộ tư sản nằm trong Quận.

2. Cải tạo và xây dựng 1.503 hộ tiểu thủ công nghiệp.

Năm 1977 xây dựng 9 HTX từ 16 tổ sản xuất cũ nâng lên, củng cố và phat 1triển 34 tổ sản xuất cũ, xây dựng 50 tổ sản xuất mới, thu hút thêm 4.000 lao động, nâng tổng số lao động trong ngành lên 10.000, đưa vào làm ăn tập thể 70% số lao động. Giá trị tổng sản lượng 8 triệu đồng trong đó xuất khẩu 4,6 triệu đồng. Mỗi phường củng cố 1, 2 tổ sản xuất cũ, phát triển 2 tổ sản xuất mới.

Năm 1978 xây dựng 15 HTX từ 34 tổ sản xuất cũ nâng lên, củng cố và phát triển 50 tổ sản xuất đã có, xây dựng 34 tổ sản xuất mới, thu hút thêm 2.000 lao động, nâng tổng số lao động trong ngành lên 12.000, đưa vào làm ăn tập thể số lao động. Giá trị tổng sản lượng 19 triệu đồng trong đó xuất khẩu 9 triệu đồng.

3. Phục vụ vùng kinh tế mới, củng cố tổ rèn ở xã Trừ Văn Thế, xây dựng 7 tổ rèn cho 7 xã kinh tế mới,  chuyển một phần nghề chế biến nông sản và nghề đan lát về vùng có nguyên liệu (cả cá thể và tổ hợp sản xuất).

c. Biện pháp, kế hoạch thực hiện:

1. Tổ chức và lãnh đạo sản xuất tiểu thủ công nghiệp là một việc rất khó đối với cán bộ đảng viên không phải thành phần, công nhân, cải tạo và xây dựng từ làm ăn cá thể vào làm ăn tập thể lại càng khó khăn. Đảng bộ phải ra sức khắc phục khuyết nhược điểm trên.

2. Phát huy thế mạnh tiểu thủ công nghiệp của địa phương, chú ý tiểu thủ công nghiệp có nhiều thiết bị máy móc hiện đại nhất là cơ khí, trước mắt nguyên vật liệu khó khăn, phải tìm phế liệu, phế thải, thay thế nguyên vật liệu trong nước, quy trình sản xuất vừa giải quyết công ăn việc làm cho công nhân lao động vừa bảo trì máy móc không để hư hỏng, quản lý hcặt không để do sản xuất không được phải bán máy móc. Duy trì và phát triển nghề nghiệp thợ lành nghề, cán bộ kỹ thuật và giải quyết công ăn việc làm vừa làm lợi cho Nhà nước, phát triển nhận gia công đặt hàng để xuất khẩu của ngoại thương. Đồng thời duy trì và phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ không để mai một.

3. Theo yêu cầu trên nắm lại tình hình, qui hoạch các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp theo hướng dẫn của sở công nghiệp thành phố, xem xét lại từng  ngành, từng tổ hợp đã có để sử dụng các gình thức phù hợp (hợp tác xã sản xuất, tổ hợp sản xuất, sản xuất gia đình và sản xuất cá thể). Có kế hoạch đưa sản xuất vào trường học và lực lượng bán vũ trang tập trung ở phường.

4. Đưa cán bộ, đảng viên, đoàn viên phụ trách sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phát triển thực lực cách mạng và đào tạo cán bộ quần chúng, phát triển đảng viên trong các tổ chức sản xuất. Các tổ hợp sản xuất tiến tới lập tổ đảng, phân đoàn thanh niên và các tiểu tổ đoàn thể khác. Các hợp tác xã trực thuộc quận trở thành đơn vị tổ chức cơ sở.

2. Cải tạo và xây dựng ngành thương nghiệp:

a. Yêu cầu chỉ tiêu phấn đấu:

1. Cùng với thành [hố cải tạo 14 hộ tư sản và 115 hộ bán sĩ nằm trong Quận trong năm 1977.

2. Khẩn trương xây dựng màng lưới thương nghiệp quốc doanh và HTX tiêu thụ theo kịp với yêu cầu cải tạo tư sản thương nghiệp, bảo đảm những mặt hàng thiết yếu đến đời sống sản xuất.

Quốc doanh, từ nay đến cuối năm 1977 củng cố hoàn chỉnh 13 cửa hàng, 115 lao động đã có thành cửa hàng trung tâm vừa bán sĩ cho các HTX tiêu thụ và bán lẻ cho quần chúng trong khu vực, xây dựg 10 cửa hàng trung tâm với 260 lao động, đến tháng 3/1978 xây dựng 10 cửa hàng trung tâm với 260 lao động, đến cuối năm 1978 mỗi cửa hàng trung tâm có 1, 2 quầy hàng bán lẻ. Ngoài ra phòng thương nghiệp còn quản lý các cơ sở chế biến lương thực thực phẩm và phục vụ công cộng.

HTX tiêu thụ, từ nay đến cuối năm 1977 mỗi phường tăng gấp đôi số quầy hàng (4, 5 hàng), tăng gấp đôi số lao động (20-25). Năm 1978 hoàn chỉnh các HTX tiêu thụ, mỗi phường có đủ 5 quầy hàng, trên dưới 40 lao động, làm đầy đủ 3 chức năng qui định cho HTX tiêu thụ.

Kết hợp cải tạo tư sản thương nghiệp, chuyển một bộ phận tiểu thương sang sản xuất, sắp xếp lại chợ, chuyển các cửa hàng quốc doanh và HTX tiêu thụ ra chợ và những nơi thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân trong phường và khu vực.

3. Đến hết năm 1978 chuyển một bộ phận tiểu thương sang sản xuất. Trước hết nhằm những người buôn bán trao tay, chuyên bắt mối đến những trung tiểu thương bán những mặt hàng thuộc diện Nhà nước quản lý. Những tiểu thương được phép tạm thời buôn bán phải đăng ký kinh doanh, được tập hợp lại theo các hình thức thích hợp và hoạt động trong phạm vi luật pháp Nhà nước.

Trung thương, tiểu thương 3.449 hộ, 5.357 lao động và trên 10 ngàn mua gánh bán bưng.

Năm 1977 vận độg trung tiểu thương bán những mặt hàng do Nhà nước quản lý chuyển sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp 500 lao động, đi kinh tế mới 1.200 lao động và 5.000 mua gánh bán bưng.

Năm 1978 vận động sang sản xuất và đi kinh tế mới 2.000 lao động trung tiểu thương, 3.000 lao động và 3.000 mua gánh bán bưng.

Có qui hoạch sắp xếp lại 3 chợ chính Bàn Cờ, Vườn Chuối và Trươg Minh Giản, giải tán các chợ còn lại trong năm 1977.

Số 1/3 còn lại phải đăng ký kinh doanh, chịu sự quản lý, hướng dẫn giá cả, thuế khoá, mặt hàng kinh doanh của Nhà nước.

b. Kế hoạch, biện pháp thực hiện:

1. Yêu cầu cải tạo tư sản thương nghiệp sớm thì phải xây dựng nhanh màng lưới thương nghiệp quốc doanh và HTX tiêu thụ, Quận và phường xây dựng là chính, tập trung tổ chức thực hiện, giải quyết người, cửa hàng, nguồn hàng.

2. Thương nghiệp quốc doanh phải có kế hoạch, chế độ cụ thể hỗ trợ HTX tiêu thụ làm tốt 3 chức năng, làm trợ thủ đắc lực cho thương nghiệp quốc doanh để hoàn thành chức năng nhiệm vụ kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Không được chèn ép HTX tiêu thụ, tạo nguồn hàng dồi dào cho HTX tiêu thụ bán lẻ, khi thật cần thiết mới mở quầy hàng bán lẻ của của hàng trung tâm.

3. Tăng cường tổ chức và chỉ đạo chặt hoạt động của phòng thương nghiệp quận làm được chức năng, nhiệm vụ, hình thành sớm các tổ chức chuyên trách hành chính, cải tạo, kinh doanh và quản lí HTX tiêu thụ. Các cơ sở chế biến và phục vụ công cộng đều chịu sự quản lý thống nhất của phòng Thương nghiệp. Chấn chỉnh tổ chức Đảng phù hợp tổ chức chuyên môn. HTX tiêu thụ ở phường có đủ đảng viên lập tổ đảng, đủ đoàn viên lập phân đoàn và lập các tiểu tổ đoàn thể khác.

3. Cải tạo và xây dựng một số ngành kinh tế khác:

a. Giao thông vận tải và bưu điện:

1. Cùng với thành phố cải tạo 481 hộ do sự phân công của thành và quận gồm 86 hộ tư sản, các hộ có xe vận tải lớn, ½ xe lam, toàn bộ xe taxi, xe lô và vận tải đường sông.

2. Quận cải tạo và xây dựng 815 hộ vận tải nhỏ và 47 cơ sở sửa chữa trong năm 1977 và hoàn chỉnh nâng lên trong năm 1978.

Lập 1 HTX xe lam 70 chiếc, 1 HTX xe ba gác máy 130 chiếc, 1 HTX xe cyclo máy 105 chiếc, lập 2 tổ hợp xe ba gác đạp và cyclo đạp 500 chiếc; bảo đảm vận tải hàng hoá và khách trong quận; có thể chiết một phần vận tải thô sơ cho vùng kinh tế mới; có kế hoạch hợp đồng với trên để đưa đồng bào đi vùng kinh tế mới, làm thuỷ lợi, vận tải gạo và hàng hoá từ các công ty về quận. Quản lý giá cước của từn gloại xe, xăng dầu theo định mức từng loại xe.

Cải tạo và xây dựng 2 HTX sửa chữa xe hơi và xe 2 bánh gắn máy, bố trí các cơ sở sửa chữa theo lộ trình trong quận.

3. Bảo dưỡng thường xuyên các tuyến đường đo Quận phụ trách, nhất là ở các khu lao động.

4. Xây dựng mạng lưới thông tin bưu chính đến phường, đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, nhanh chóng, bí mật, an toàn.

b. Xây dựng cơ bản:

1. Cùng với thành phố cải tạo 17 hộ tư sản thấu xây dựng.

2. Tổ chức HTX xây dựng 24 nha 2thầu nhỏ.

Có kế hoạch sử dụng 127 người có trình độ đại học, 186 người có trình độ trung cấp, 173 người có tay nghề giỏi vào việc thiết kế xây dựng Nhà nước.

Khuyến khích tư nhân bỏ vốn, kỹ thuật đầu tư phục vụ khôi phục và phát triển sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân.

c. Quản lý nhà đất:

1. Cùng với thành phố cải tạo 6 công ty, một hiệp hội, 293 tư nhân kinh doanh nhà đất gồm nhà ở, cửa hàng, bệnh viện, trường học, rạp hát, khách sạn…

2. Quận và phường nắm tình hình và thực hiện chính sách của Nhà nước để tịch thu hoặc tạm thời quản lý đối với nhà của tư sản mại bản, nguỵ quân, nguỵ quyền đầu sỏ ác ôn, vơ vét bóc lột nhân dân mà có, các tổ chức phản động do đế quốc Mỹ và chư hầu đặt ra dưới bắt cứ hình thức gì để tiếp tay xâm lược.

Quận 3 có khoảng 4.000 hộ, tập trung ở 3 phường Hiền Vương, Trương Minh Giản, Trần Quang Diệu cũ. Phòng nhà đất chỉ đạo điểm ở phường Hiền Vương cũ.

3. Điều chỉnh chỗ ăn ở, làm việc của các cơ quan, đơn vị, bố trí lại nhà ở cho cán bộ, công nhân viên chức theo tiêu chuẩn, chế độ thống nhất. Sắp xếp sử dụng hợp lý số nhà trong diện cải tạo, mua lại nhà của nhân dân đi vùng kinh tế mới, sửa chữa các nhà hư hỏng, hoàn thành các nhà đang xây dựng dở dang để giải quyết cho công nhân, lao động chưa có nhà ở, từng bước giải quyết triệt để các khu nhà ổ chuột và ven kênh rạch.

d. Tài chính, thuế, ngân hàng, giá cả, tiết kiệm:

1. Đưa công tác quản lý tài chính vào nề nếp và chế độ thống nhất.

Tài chính phải bảo đảm tốt nguồn vốn cho các cơ sở quốc doanh, guồng máy chuyên chính vô sản hoạt động có hiệu lực, làm tốt vai trò kiểm tra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành các cấp, quản lý chặt chẽ tài sản và ngân sách, tăng thu giảm chi hợp lý, tận dụng thành quả công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Sắp tới tài chính quận có quản lý một số phần ngân sách do Thành phố phân công, có dự trù một phần chi phí bất thường cho quận. Củng cố ban tài chính phường và hướng dẫn quản lý được ngân sách phường.

2. Tiến hành thâu đúng, thâu đủ các thứ thuế phân công cho địa phương. Tăng cường cán bộ nhân viên phòng thuế. Theo ngân sách của phường, giao một số tạp thu để phòng tài chính quận đang thâu cho phường.

3. Ngân hàng có biện pháp mạnh mẽ quản lý tiền mặt, bảo đảm vốn tín dụng cho các ngành sản xuất, lưu thông phân phối, xây dựng phát triển theo phương hướng cải tạo và xây dựng của quận, đẩy mạnh hơn nữa phong trào quần chúng gởi tiền tiết kiệm, thanh toán kịp thời, phát huy chức năng giám sát của ngần hàng qua công tác quản lý tiền tệ.

4. Cùng với thành phố phấn đấu kéo giá xuống đối với các mặt hàng chủ yếu cho đời sống hàng ngày của nhân dân lao động trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất và cải tiến lưu thông phân phối, quản lý thị trường.

5. Ra sức cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, khai thác mọi tiềm năng hiện có, sử dụng tiết kiệm sức lao động, vật tư, tiền vốn. Kiên quyết chống mọi biểu hiện tham ô lãng phí, xử lý nghiêm khắc sai phạm.

Công tác thứ hai: BỐ TRÍ  LẠI LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG, TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT NẠN THẤT NGHIỆP, VẬN ĐỘNG ĐỒNG BÀO ĐI XÂY DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI

a. Vấn đề đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới có ý nghĩa quyết định trong việc phân bố lại lực lượng lao động xã hội, vừa là yêu cầu bức bách của quận trong việc ổn định vững chắc đời sống nhân dân laođ ộng, vừa là yêu cầu bức bách trong việc xây dựng thành phố sau chiến tranh. Công tác này phải được tiến hành bằng một cuộc vận động sâu rộng trong mọi tầng lớp quần chúng trong quận.

b. Yêu cầu chỉ tiêu phấn đấu:

1. Từ nay đến đầu năm 1979, quận 3 phải vận động hồi hương, giản dân, đi kinh tế mới khoảng 50.000 người gồm những người sống bấp bênh, không công ăn việc làm, thuộc tầng lớp buôn bán phải chuyển sang sản xuất. Đồng thời đưa khoảng 15.000 lao động vào các công trình thuỷ lợi, xây dựng kinh tế mới và các công trình khác, các xí nghiệp và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và ngành phục vụ quốc doanh tập thể.

2. Hồi hương 15.000, giản dân 3.000, kinh tế mới 32.000 dân, phường 2 đi 420 hộ, 2.100 dân, phường 3, 4, 5, 6 mỗi phường đi 360 hộ, 1800 dân, phường 7, 8 mỗi phường đi 400 hộ, 2.000 dân, phường 9 đí 380 hộ 1.900 dân, phường 10, 11 mỗi phường đi 440 hộ 2.200 dân, phường 12 đi 320 hộ 1.600 dân, phường 13, 14 mỗi phường đi 400 hộ 2.000 dân, phường 15, 17, 18 mỗi phường đi 360 hộ, 1.800 dân, phường 16, 19, 20, 25 mỗi phường đi 400 hộ 2.000 dân, phường 21 đi 420 hộ, 2.100 dân, phường 24 đi 440 hộ, 2.200 dân, phường 22, 23 mỗi phường đi 480 hộ, 2.400 dân.

c. Kế hoạch, biện pháp thực hiện:

1. Từ nay đến giữa năm 1978 phải đạt cho được 2/3 yêu cầu chỉ tiêu thì năm sau mới có thể thực hiện đầy đủ yêu cầu chỉ tiêu. Vừa tiến hành thường xuyên từ nay đến gần hết mùa mưa 1, 2 xã với 5, 7 ngàn dân vừa chuẩn bị, kết hợp đẩy mạnh phong trào tuyên truyền phát động quần chúng và đi vào cải tạo tư sản thương nghiệp và chuyển sang sản xuất 1 bộ phận trung tiểu thương với xây dựng cơ bản 4, 5 xã kinh tế mới, đưa lên thành cao trào và đưa được trong mùa khô 1977-1978 30.000 dân.

2. Tiến hành tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng, đi sâu từng gia đình, từng người, phát động giáo dục ý nghĩa của việc đi xây dựng kinh tế mới, làm cho mọi người đi cũng như ở đều thấy rõ trách nhiệm của mình. Trong các biện pháp, giáo dục và đấu tranh trong nội bộ quần chúng là chủ yếu.

3. Quận xây dựng 2 công trường thủ công để xây dựng cơ bản và vỡ hoang trước khi đưa đồng bào đến vùng kinh tế mới ở 2 khu vực 7 xã kinh tế mới. Lực lượng công trường gồm tự vệ, thanh niên xung phong, lực lượng lao động các gia đình đi vùng kinh tế mới, quận sự hoá, tổ chức thành phân đội, liên đội, binh đoàn lao động, phân chia thành các bộ phận chuyên môn hoá có thủ công và cơ giới, chiếm khoảng 3.200 người, cố gắng xây dựng 2 cơ giới cho 2 khu vực. Các lực lượng này được nhà nước đài thọ. Ban chỉ huy lấy lực lượng quân sự và ban kinh tế mới làm nòng cốt, kết hợp cán bộ các ngành, các đoàn thể.

4. Tổ chức khung quản lý 7 xã kinh tế mới và tiếp tục củng cố bổ sung 6 xã kinh tế mới đã hình thành. Mỗi xã có 25 cán bộ gồm 1 chi bộ, 1 chi đoàn, có cán bộ chính quyền, công an, xã đội, giáo viên, y tế, thương nghiệp. Số cán bộ này được đào tạo huấn luyện và cùng đi với khung công trường để trong công tác thực tế hình thành lần khung, cán bộ quản lý xã ấp kinh tế mới.

5. Tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng đối với công tác này, củng cố bổ sung các ban ở quận và phường cùng với quân sự làm nòng cốt cho ban chỉ đạo phân bổ lao động quận phường. Giữ điểm  chỉ đạo ở khu Hoà Hưng từ phường 17 đến phường 21, lập ban chỉ đạo khu vực Bàn Cờ gồm phường 1 đến phường 10, lập ban chỉ đạo khu vực sông Trương Minh Giảng gồm 7 phường còn lại theo ven sông, kết hợp với nhà đất lập ban chỉ đạo khu vực Hiền Vương gồm 3 phường của Hiền Vương cũ. Khu vực 1 lập 2 khung, khu vực 2 lập 3 khung, khu vực 3 lập 2 khung, khu vực 4 lập 4 khung cán bộ xã kinh tế mới do các phường trong khu vực đóng góp xây dựng. Duy trì ban cán sự của Quận uỷ phụ trách các chi bộ và khung quản lý xã kinh tế mới, có Quận uỷ viên và một số cán bộ do đ/c Thường vụ Quận uỷ làm bí thư ban cán sự, có quan hệ hợp đồng các huyện uỷ địa phương.

6. Thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào hồi hương, giản dân và đi xây dựng vùng kinh tế mới:

Tăng chi phí xây dựng nhà ở, cung cấp lương thực nhu yếu phẩm đến khi địa phương nhân dân đảm đương được, cho phép bán nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp để lấy tiền xây dựng kinh tế mới.

Đối với tư sản trung tiểu thương, tiểu chủ cá thể hoặc tổ hợp muốn đem vốn liếng, phương tiện kỹ thuật góp phần xây dựng vùng kinh tế mới, Nhà nước sẽ giúp đỡ đất đai để sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, xây dựng nhà máy chế biến, làm các nghề thủ công.

Đối với đồng bào thiên chúa, không phân biệt lương giáo, chiếu cố đặc điểm tín ngưỡng, có thể ở theo họ đạo trong từng ấp hoặc liên ấp, khi ổn định có thể xây dựng nhà thờ và rước linh mục đến làm lễ.

Đối với đồng bào người Hoa, không phân biệt dân tộc, chiếu cố đặc điểm dân tộc, có thổ ở chung từng chòm, từng xóm trong các ấp xã kinh tế mới.

7. Theo kế hoạch và biện pháp trên có kế hoạch thời gian thích hợp để hợp đồng khớp khang các mặt công tác và các khâu hoạt động.

Công tác thứ ba:  ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VĂN HOÁ VÀ KHOA HỌC KỸ THUẬT.

Yêu cầu là tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, làm rõ ranh giới giữa lao động và bóc lột, giữa lao động và sống bám, giữa tập thể và cá thể, làm nổi rõ tính hơn hẳn của lối làm ăn tập thể với làm ăn cá thể, làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa thâm nhập vào đời sống chính trị và tinh thần của nhân dân, chống tư tưởng tư sản và tàn dư tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, từng bước quét sạch ảnh hưởng tư tưởng và văn hoá thực dân mới. Cán bộ đảng viên phải là tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa.

Trong công tác văn hoá phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, nhằm phục vụ công nhân, nhân dân lao động, lực lượng vũ trang, đặc biệt là thanh thiếu nhi, đi sát thực tế và kịp thời phản ánh cuộc đấu tranh cải tạo và xây dựng, đưa gương người tốt việc tốt, kết hợp xây dựng với cải tạo, áp dụng phương pháp phê bình và tự phê bình.

Cụ thể đi vào các ngành:

1. Công tác tuyên truyền:

Cùng với thành phố cải tạo 5 hộ in tư sản trong quận.

Quận cải tạo và xây dựng 32 cơ sở in nhỏ đi vào con đường làm ăn tập thể, gia công cho quốc doanh, đặt họ vào mạng lưới in xã hội chủ nghĩa.

Phổ biến sâu rộng trong nhân dân nghị quyết đại hội 4 và Nghị quyết đại hội lần thứ I của thành phố, của quận phường, những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.

Phổ biến sâu rộng báo chí cách mạng trong quần chúng, chú trọng sách báo, chiếu bóng phục vụ thiếu nhi. Đồng thời truy quét về cơ bản sách báo và văn hoá phẩm cũ.

Xây dựng mạng lưới truyền thanh để tuyên truyền phổ biến nhanh chóng và thống nhất trong quận.

Phát triển hệ thống thư viện, tủ sách ở quận và phường.

2. Công tác giáo dục:

Hoàn thành cải tạo nhà trường cũ đồng thời theo yêu cầu cải cách giáo dục từng bước xây dựng nhà trườn gmới xã hội chủ nghĩa. Đưa lao động sản xuất vào các trường cấp 3 và lớp 9 cấp 2 với nhiều mức độ khác nhau để xây dựng trường vừa học vừa lao động sản xuất tiểu thủ công nghiệp.

Hoàn thành xoá mù chữ, chuyển trọng tâm sang bổ túc văn hoá, lập trường bổ túc văn hoá nửa tập trung cho cán bộ đảng viên, phát triển mạnh mẽ phong trào bổ túc văn hoá ở các phường,. mỗi phường tiến đến một trường bổ túc văn hoá lớp 2 đến lớp 9.

Cải tạo hệ thống mẫu giáo cũ, phát triển mạng lưới trường lớp mẫu giáo dân lập có sự bảo trợ và quản lý của Nhà nước, nâng các chất lượng mẫu giáo, củng cố mở rộng các trường lớp cũ và mới cải tạo, mở thêm trường lớp mẫu giáo đáp ứng yêu cầu trong quận.

Hoàn thành việc công lập hoá các trường tư, thực hiện Nhà nước quản lý toàn bộ các trường học và nền giáo dục quốc dân. Nghiêm cấm việc giảng dạy giáo lý trong nhà trường.

Tiếp tục giáo dục cải tạo số giáo viên mới giải phóng, tăng cường đào tạo đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý ngành giáo dục, chú ý giáo viên mẫu giáo, giáo viên khoa học xã hội, nhạc, hoạ, nữ công, thể dục, dạy nghề.

Thực hiện quy chế bảo đảm công đoàn giáo dục đoàn thanh niên và đội thiếu niên tiền phong tham gia có hiệu quả công tác quản lý trường học.

3. Công tác văn hoá văn nghệ:

Phát triển mạnh mẽ và không ngừng nâng cao chất lượng phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng, phản ánh thực tế sinh động phong trào quần chúng cải tạo và xây dựng. Đẩy mạnh công tác văn học nghệ thuật kịp thời phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chính trị, phát triển toàn diện văn học nghệ thuật, phục hồi cà phát huy có chọn lọc vốn cổ dân tộc.

Xây dựng nếp sống mới, văn minh, trật tự, vui tươi, lành mạnh.

Xây dựng công viên, câu lạc bộ, nhà văn hoá quận phường.

Phát triển công tác bảo tồn, bảo tàng, bảo vệ các di tích lịch sử, xây dựng tượng đài kỷ niệm, nhà truyền thống của địa phương, các phòng triển lãm.

4. Công tác y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em:

a. Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch, áp dụng chặt chẽ các qui chế vệ sinh, củng cố, tăng cường chế độ tiêm phòng, phát hiện kịp thời và bao vây dập tắt mọi ổ dịch, khống chế các bệnh nguy hiểm. Tập trung giải quyết các bệnh xã hội như lao, cùi, hoa liễu, tâm thần.

Củng cố và hoàn chỉnh mạng lưới y tế cơ sở phường, xí nghiệp, trường học, cơ quan. Mỗi khu vực 30.000 dân có một phòng khám đa khoa và một nhà hộ sinh. Cải tạo và sử dụng tốt các nhà hộ sinh tư.

Cùng với thành công tư hợp doanh 3 viện bào chế tư, trưng thuể dược phòng tư, sử dụng dược sĩ và nhân viên bán thuốc lành nghề. Đẩy mạnh mạng lưới quốc doanh, đấu tranh chống nạn đầu cơ thuốc, trừng trịbọn làm thuốc giả. Phân phối công bằng và đủ thuốc trị bệnh thông thường cho quần chúng.

Phát động phong trào quần chúng trồng và dùng thuốc nam rộng rãi, khuyến khích nghiên cứu cây thuốc nam, tạo những nguồn dược liệu thay thế thuốc tây. Xây dựng cửa hàng, phòng khám và trị bệnh bằng thuốc nam.

Chuyển 6 bệnh viện và nhà bảo sanh tư, 13 phòng mạch tư sang chế độ quản lý của Nhà nước. Pháttriển hội chữ thập đỏ xuống cơ sở để động viên sự đóng góp của quần chúng vào sự nghiệp y tế xã hội.

b. Nhanh chóng phát triển mạng lưới bảo vệ bà mẹ và trẻ em xuống cơ sở.

Cải tạo tốt các nhà trẻ cũ, củng cố mở rộng phát triển mạng lưới nhà trẻ. Trong 2 năm tới, các xí nghiệp, cơ quan, bệnh viện, cửa hàng có đông lao động nữ ăn ở tập thể nhiều tổ chưc đủ nhà trẻ hoặc nhà trẻ liên cơ quan, mỗi phường có từ 2 đến 3 nhà trẻ hợo qui cách. Gấp rút đào tạo một đội ngũ cô nuôi dạy trẻ đáp ứng kịp yêu cầu, được Nhà nước và nhân dân đãi ngộ thoả đáng.

Đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, giảm tỷ lệ phát triển dân số 0,2% so năm 1976 và giữ tỷ lệ phát triển dân số trong quận 2%. Quản lý thai sản, phòng và chữa các bệnh phụ khoa và các bệnh nghề nghiệp của phụ nữ.

c. Xây dựng 1 phong trào thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa, lành mạnh, rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân nhất là trong thanh thiếu niên ở các trường học, xí nghiệp, cơ quan, đơn vị…. nhằm rèn luyện thân thể có sức khoẻ để lao động và bảo vệ tổ quốc.

Cải tạo nhanh và triệt để các cơ sở thể dục thể thao tư nhân, đẩy lùi và xoá bỏ các thứ tệ nạn trong thể dục thể thao cũ.

Qua cải tạo nhà đất và phân bố lao động, dân cư xây sân banh, sân vận động và các cơ sở thể dục thể thao khác ở quận và ở cơ sở. Đào tạo, bồi dưỡng huấn luyện viên cho cơ sở và vận động viên trẻ cho tất cả các bộ môn.

5. Công tác thương binh xã hội:

Hoàn thành việc xác nhận 128 thương binh, 570 liệt sĩ và gia đình liệt sĩ (nhất là các liệt sĩ). 600 gia đình có công với cách mạng, thi hành đúng chính sách của Nhà nước với các đối tượng trên.

Phát động phong trào quần chúng rộng rãi chăm sóc giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, những gia đình nghèo, trẻ mồ côi, người già neo đơn, người tàn tật, những nạn nhân của chế độ cũ.

Thực hiện tốt chính sách đối với 330 cán bộ, công nhân viên chức về hưu, quân nhân phục vụ viên chuyển ngành, nhất là đối với cán bộ đã góp nhiều công cho cách mạng.

Cùng với y tế, công an và các đoàn thể quần chúng tập trung chữa trị, giáo dục cải tạo, ngăn ngừa các tệ nạn xã hội: ăn xin, trẻ bụi đời, nghiện xì ke, gái lỡ làng.

Số đối tượng chuyên nghiệp cần tập trung cải tạo, số đối tượng nhẹ không nguy hiểm do các đoàn thể làm nồng cốt, giáo dục cải tạo tại chỗ.

6. Công tác khoa học kỹ thuật:

Sử dụng, bồi dưỡng giúp đỡ cán bộ khoa học kỹ thuật mới giải phóng đồng thời chọn con em cán bộ đảng viên đưa đi đào tạo dài hạn.

Phổ biến kến thức khoa học kỹ thuật cho cán bộ giảng viên và nhân dân.

Phát động một phong trào quần chúng rộng rãi phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tiến hành mạnh mẽ vào khao học kỹ thuật nhất là trong thanh niên, công nhân và trí thức.

Công tác thứ tư: CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP, ĐẢM BẢO PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ TẬP THỂ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG

Muốn thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động phải ra sức củng cố hệ thống chuyên chính vô sản, trước hết là bộ máy chính quyền các cấp đủ sức làm nhiệm vụ cải tạo và xây dựng, quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội và giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề:

1. Củng cố và tăng cường bộ máy chính quyền quận phường thật sự là của dân, do dân, vì dân:

Đảng ta là Đảng cầm quyền thông qua bộ máy Nhà nước, cán bộ được tuyển chọn làm công tác chính quyền từ nay về sau phải được nhân dân tín nhiệm bầu lên, không còn chỉ định như trước. Cán bộ chính quyền phải có tinh thần phục vụ nhân dân không điều kiện, nắm vững nhiệm vụ chức trách, đi sâu đi sát cơ sở, có chế độ tiếp xúc và lắng nghe ý kiến của dân, biết tôn trọng và sử dụng đầy đủ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan dân cử, đảm bảo có điều kiện hoạt động thiết thực. Theo định kỳ nghiêm chỉnh tự phê bình và tiếp thu ý kiến phê bình xây dựng của quần chúng. Qua công tác có kiểm tra nội bộ, kịp thời loại ra những phần tổ xấu chen vào chính quyền, sa thải những cán bộ mất phẩm chất, nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị, thông tư số 159 của Thủ tướng Chính phủ. Mặt khác kịp thời khen thưởng, đề bạt, bồi dưỡng những cán bộ nhân viên tốt, tận tuỵ phục vụ nhân dân, gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm.

2. Củng cố và tăng cường khối nội chính đủ sức bảo vệ địa phương, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội đồng thời bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân và luật pháp nhà nước:

Không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, giữ vững ý chí tiến công, củng cố quốc phòng toàn dân, ra sức bảo vệ an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, kiên quyết đập tan mọi âm mưu hoạt động của các bọn gián điệp, bọn phản động ngóc đầu dậy, sự phản khán của giai cấp bóc lột, ra sức ngăn chặn các tội phạm khác, làm cho tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội được ổn định vững chắc.

a. Quân sự:

Nhiệm vụ quân đội trong tình hình mới là vừa bảo vệ Tổ quốc vừa tham gia xây dựng kinh tế.

Theo yêu cầu trên, xây dựng lực lượng quân sự về chính trị tư tưởng, về chiến kỹ thuật, quân phong quân kỷ, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, xây dựng mạnh lực lượng quân sự địa phương, phát triển theo tỷ lệ 2% dân số. Cụ thể:

Phấn đấu xây dựng 10 địa phương quân đủ, mỗi phường đủ 1 B tự vệ nồng cốt, khu vực tổ đảng 1 B tự vệ rộng rãi (ô cảnh sát khu vực có A, tổ dân phố có tổ tự vệ). Chú ý tự vệ cơ quan, xí nghiệp, bệnh viện, trường học, công trường… nơi có chi bộ xây dựng 1 A tự vệ. Lấy người tại chỗ, đào tạo đủ cán bộ phường đội, trung đội, tiểu đội tự vệ. Đưa lần tự vệ nồng cốt tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp.

Thực hiện tốt nghĩa vụ quân sự, công tác hậu cần và các mặt công tác phục viên, chuyển ngành, thay quân, quản lý tốt lực lượng dự bị, thi hành các chính sách thương binh liệt sĩ.

Trong 2 năm tới, lực lượng quân sự địa phương làm nồng cốt các công trường xây dựng vùng kinh tế mới và có khung cán bộ xã đội cho mỗi xã kinh tế mới do Quận phụ trách.

b. Công an:

Để thực hiện nhiệm vụ trên, xây dựng lực lượng công an vừa là công cụ bạo lực vừa là lực lượng chính trị sắc bén đồng thời phải giáo dục lực lượng công an hết sức tôn trọng sinh mạng, tài sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân laođ ộng.

Phấn đấu trong 2 năm 1977-1978, loại trừ mọi vụ bạo động - loại vũ trang và biến động chính trị phản cách mạng; đẩy lùi một bước quan trọng và hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội khác, Các vụ hình sự năm 1977 giảm 30% giảm đến mức thấp nhất các vụ trọng án, 30% phường và tổ dân phố có phong trào vì an ninh Tổ quốc khá, 50% phường và tổ dân phố có phong trào trung bình. Hết năm 1978, giảm tội phạm hình sự 70% (đến cuối năm 1980 giảm 80 đến 85%), 70% phường và tổ dân phố có phong trào vì an ninh tổ quốc khá, 30% trung bình, loại trừ phong trào kém. Quản lý nội bộ, đến năm 1978 có 50% cơ quan trọng Quận khá, bảo đảm nội bộ tốt, cuối năm 1980 đại bộ phận cơ quan nằm trong quận trong sạch nội bộ.

c. Các ngành kiểm sát, toà án, thanh tra, pháp chế:

Củng cố và tăng cường các cơ quan trên để nhanh chóng phát huy sức mạnh và hiệu lực pháp chế xã hội chủ nghĩa, có đủ khả năng giám sát việc thi hành pháp luật, giải quyết xét xử kịp thời những vụ vi phạm pháp luật, các quyền tự do dân chủ và quyền lợi của xã hội, của nhân dân.

Hết sức coi trọng tổ chức và công tác thanh tra nhân dân, tư pháp nhân dân.

3. Củng cố và tăng cường các khối công nghiệp, tài mậu, văn xã để quản lý kinh tế, quản lý xã hội, bảo đảm công cuộc cải tạo và xây dựng thắng lợi.

Để thực hiện yêu cầu trên, quan trọng là xác nhận và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, tổ chức lề lối làm việc các phòng ban và các khối trên của uỷ ban trong thời kỳ cải tạo, tình hình chưa ổn định, các cấp cùng làm, các trường, các phòng cùng làm một lúc nhiều chức năng nhiệm vụ mới đi đến ổn định, phân công phân cấp rõ ràng, có kế hoạch và quản lý tập trung thống nhất toàn Thành phố.

Các phòng ban của quận phường đều là phòng ban làm công tác phong trào nhất là các ngành trực tiếp làm công tác cải tạo và xây dựng, phải gắn rất chặt với phong trào cách mạng quần chúng. Do đó các phòng của uỷ ban đều làm 3 chức năng và 4 nhiệm vụ. Về 3 chức năng là làm tham mưu cho cấp uỷ và uỷ ban chỉ đạo ngành chuyên môn, tổ chức công tác và hoạt động cho cơ quan cấp quận, hướng dẫn, tổ chức và hoạt động của ban ở cơ sở. Trong thời kỳ cải tạo, tình hình chưa ổn định phần lớn các phòng của uỷ ban đều làm 4 nhiệm vụ là công tác hành chính, công tác cải tạo, xây dựng và quản lý hệ thống các cơ sở tập thể, nhiều phòng có kinh doanh và sản xuất quốc doanh. Phải lập các bộ phận chuyên trách, khi có điều thì tách ra làm tổ chức riêng.

Phải nhanh chóng củng cố tăng cường các phòng của quận và ban của phường, củng cố, mở rộng, phát triển lực lượng và các cơ sở hoạt động để đáp ứng yêu cầu. Có qui định lề lối làm việc giữa uỷ ban với các khối, các phòng và giữa các phòng trong khối và tất cả các phòng của uỷ ban, hợp đồng xã hội chủ nghĩa chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp trong công cuộc cải tạo và xây dựng.

Công tác thứ năm: PHÁT HUY VAI TRÒ NỒNG CỐT CỦA CÁC ĐOÀN THỂ, ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO HÀNH ĐỘNG CÁCH MẠNG SÔI NỔI, SÂU RỘNG VÀ LIÊN TỤC CỦA CÁC TẦNG LỚP QUẦN CHÚNG

1. Nhiệm vụ, mục tiêu:

Trong giai đoạn cách mạng mới, công tác dân vận mặt trận phải nhằm mục tiêu vận động quần chúng các giới thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Yêu cầu là phải duy trì, bồi dưỡng, phát huy phong trào quần chúng hiện nay, từng bước đưa lên thành cao trào, trung tâm là phong trào lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi việc thực hiện Nghị quyết của Đại hội 4. Nghị quyết đại hội lần thứ I của Đảng bộ Thành phố, Quận và cơ sở.

Muốn tạo được một phong trào cách mạng sâu rộng và liên tục, không có con đường nào khác là phải phát động quần chúng mà nội dung phát động chủ yếu là phát huy cao độ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Cụ thể là đấu tranh xoá bóc lột tư bản chủ nghĩa, đi vào con đường làm ăn tập thể, ai có sức lao động đều phải làm việc và ai cũng có việc làm mới làm chủ thật sự, làm chủ laođ ộng, làm chủ công cụ máy móc vật tư, làm chủ kế hoạch sản xuất, làm chủ thành phẩm bà lưu thông phân phối vì lợi ích của người tiêu dùng và của Nhà nước.

 2. Chỉ tiêu phấn đấu trong 2 năm 1977-1978:

a. Công đoàn tổ chức phong trào thi đua lao động sản xuất tiết kiệm, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước; phát động công nhân tham gia cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiểu thủ công nghiệp; tham gia quản lý xí nghiệp, kiểm tra quá trình sản xuất, sử dụng nguyên vật liệu, phân phối thành phẩm đúng chính sách, chế độ của Nhà nước. Công đoàn cùng Nhà nước chăm lo đời sống của công nhân viên chức, bảo đảm các quyền lợi chính đáng về lao động, học tập, ăn ở, phúc lợi tập thể kể cả công nhân trong xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và tư doanh.

Phấn đấu phát triển hầu hết công nhân các xí nghiệp quốc doanh, cán bộ nhân viên nhà nước vào công đoàn, 2/3 công nhân trong các xí nghiệp công tư hợp doanh, ½ công nhân trong các xí nghiệp tư bản tư doanh, xây dựng công đoàn cơ sở ở các tổ chức cơ sở công nhân.

Gấp rút đào tạo cán bộ công đoàn về mọi mặt, cả cán bộ quận và cơ sở, tăng cường ban chấp hành liên hiệp công đoàn quận làm được nhiệm vụ sắp tới.

b. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đẩy mạnh phong trào thanh niên tiến quân vào lao động sản xuất, khoa học kỹ thuật, cải tạo và xây dựng cuộc sống mới, văn minh, lành mạnh, vui tươi, tiến lên thành cao trào thanh niên xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, thu hút đại bộ phận thanh niên và cả thanh niên chậm tiến.

Phấn đấu tập hợp 80% thanh thiếu niên vào tổ chức, phát triển Đoàn gấp 4 lần, năm 1977 phát triển gấp đôi số đoàn viên hiện có, năm 1978 gấp đôi năm 1977. Nhanh chóng xây dựng chi đoàn ở các tổ chức cơ sở, mạnh dạn đề bạt và đào tạo hàng loạt cán bộ nhất là trong công nhân sản xuất.

Đoàn giáo dục tốt thiếu nhi làm theo 5 điều Bác Hồ dạy, hướng dẫn tốt việc học tập trong trường và sinh hoạt ngoài trường nhất là sinh hoạt đội và câu lạc bộ.

c. Hội Liên hiệp Phụ nữ phát động phong trào phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà, phát huy lực lượng và khả năng của phụ nữ trong mọi hoạt động xã hội, trong quản lý kinh tế, văn hoá, quản lý nhà nước, đẩy mạnh phong trào thi đua laođ ộng sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, vận động một bộ phận tiểu thương chuyển sang sản xuất, phát huy vai trò của phụ nữ trong các tổ chức phân phối. Mặt khác tích cực vận động phong trào sinh đẻ có kế hoạch, nuôi con khoẻ dạy con ngoan, xây dựng gia đình văn hoá mới.

Kiện toàn tổ chức hội các cấp, nâng cao chất lượng cán bộ và hội viên đi đôi với phát triển hội, tập hợp 85% phụ nữ vào các tổ chức do hội làm nồng cốt, nhanh hcóng đào tạo cán bộ trẻ để bổ sung ban chấp hành các cấp và tham gia hoạt động của các ngành.

d. Thành lập mặt trận quận và phường, mở đại hội mặt trận để thành lập uỷ ban chính thức và đi vào hoạt động thiết thực, động viên mọi tầng lớp nhân dân thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị của Quận trong 2 năm tới.

Trên cơ sở các đoàn thể cách mạng đoàn kết các tầng lớp tôn giáo, dân tộc, thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí thức, các tôn giáo, các dân tộc nhất là đối với người Hoa, người Khmer.

3. Kế hoạch, biện pháp thực hiện:

a. Đánh giá quần chúng cho đúng:

Quan trọng là đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đi sâu phân tích các giai cấp trong xã hội mới đánh giá đúng quần chúng, mới giải quyết đúng đắn các phức tạp trong xã hội do hậu quả của chiến tranh xâm lược và chế độ thực dân cũ và mới để lại ở các vùng tạm bị chiếm nhất là Thành phố Hồ Chí Minh.

Đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tư sản trở thành đối tượng của cách mạng. Hiện nay chỉ còn tư sản vừa và nhỏ, ở quận 3 họ chiếm không đầy 1/100 số hộ. Họ đã từng đi với ta trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chống đế quốc và tay sai nên ta đấu tranh xoá bỏ bóc lột bằng cải tạo, sử dụng những nhân tố tích cực còn lại vào công cuộc cải tạo và xây dựng và ta tiếp tục cải tạo con người có ích cho xã hội.

Bọn lưu manh chuyên nghiệp là đối tượng xã hội của cách mạng, không thể xem là nhân dân laođ ộng, phải trừng trị bọn phạm tội ác và cưỡng bức lao động, cải tạo lâu dài mới có thể trở thành con người lương thiện.

Tiểu tư sản lớp giữa và lớp trên nhất là trung thương, tiểu thương, tiểu chủ trên và tiểu chủ về cơ sở kinh tế và quan hệ sản xuất gần với tư sản, trong quận 3 số này chiếm gần 20% số hộ. Trên con đường cải tạo tiểu thương, chuyển đại bộ phận tiểu thương sang sản xuất, đưa cá thể đi vào làm ăn tập thể, họ có mâu thuẫn nhất định với ta, có thể họ bị tư sản và những bọn xấu lợi dụng nhưng họ vẫn là nhân dân lao động, vẫn là lực lượng cách mạng, vẫn được tổ chức vào các đoàn thể cách mạng nên ta phải vừa giáo dục vừa đấu tranh thuyết phục họ để cải tạo họ đi lên chủ nghĩa xã hội và cuối cùng giải phóng tư hữu cho họ.

Giai cấp công nhân trở nên giai cấp cầm quyền, số lượng và chất lượng không ngừng tăng lên, tham gia ngày càng đông đảo các xí nghiệp và cơ quan Nhà nước, phải phấn đấu tiến lên với vai trò giai cấp tiên phong lãnh đạo cách mạng. Tuy nhiên, còn một bộ phận giai cấp bị tư sản và tiểu tư sản trên bóc lột, được giải phóng cuối cùng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Một bộ phận khác bị thất nghiệp trước đây, còn làm những nghề lao động khác để sống, ta phải đưa anh em trở về giai cấp của mình. Nghị quyết đại hội đại biểu lần thứ I của đảng bộ Thành phố nêu trước mắt cần tổ chức công đoàn các phường để thu hút các thành phần công nhân, lao động không thuộc diện xí nghiệp, cơ quan, bệnh viện, trường học, cửa hàng là đúng đắn.

Lao động và lớp nghèo thành thị rất gần gũi với giai cấp công nhân, đã cùng giai cấp công nhân làm chủ lực trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, hiện nay một bộ phận đi vào giai cấp công nhân, một bộ phận đi vào làm ăn tập thể ở Thành phố và nông thôn, đi theo giai cấp công nhân lên chủ nghĩa xã hội.

Học sinh, sinh viên, viên chức, giáo chức và một bộ phận trí thức được đào tạo dưới chế độ cũ đang phấn đấu trở thành lao động và trí thức xã hội chủ nghĩa, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

b. Có phương pháp vận động cách mạng đúng:

Cơ bản là phương pháp 5 bước công tác cách mạng của Đảng và vận dụng cho nhuần nhuyễn vào nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ cải tạo và xây dựng, vào các đối tượng quần chúng còn đang rất phức tạp.

Hiện nay ta không phải vận động từng ngừi như thời kỳ Đảng hoạt động bí mật hoặc công tác thành thị và vùng tạm bị chiếm trước đây. Ta có điều kiện tập hợp quần chúng rộng rãi, công khai đi vào các cơ sở hành chính, sản xuất, kinh doanh, công tác để vận động quần chúng và quần chúng đã được tập hợp sẵn. Mặt khác, cần hết sức khắc phục khuyết điểm là chỉ sử dụng một số bước công tác cách mạng là tuyên truyền, tập hợp lực lượng và hướng dẫn quần chúng hành động cách mạng thiếu một số bước khác, làm đợt này xong sau làm lại đợt khác, không theo phương pháp cơ bản và không từng bước nâng lên.

c. Có phương pháp xây dựng thực lực cách mạng đúng:

Sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, muốn cải tạo và xây dựng tốt phải có cao trào quần chúng cho nên phải tập hợp quần chúng vào các tổ chức thích hợp theo trình độ giác ngộ của quần chúng.

Cơ sở để tập hợp quần chúng hiện nay không giới hạn trong hoạt động chính trị và quân sự như trước đây mà phải mở rộng ra tất cả các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, các lĩnh vực hoạt động xã hội, trong toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản.

Vận dụng đầy đủ và kiên trì 5 bước công tác cách mạng mới xây dựng được thực lực của hệ thống chuyên chính vô sản một cách cơ bản, vững chắc và nhanh chóng, không để địch và bọn cơ hội chen vào.

Xác nhận tiêu chuẩn các loại thực lực cách mạng: hội viên là nồng cốt trong quần chúng, muốn trở thành một hội viên trước hết phải là người lao động không bóc lột, có quyền công nhân, có tham gia công tác cách mạng theo các cơ sở tập hợp quần chúng, tán thành điều lệ của hội và có hội viên cũ giới thiệu. Cán bộ quần chúng là những người hội viên xuất sắc nhất có khả năng lãnh đạo một bộ phận hội viên hoặc toàn bộ hội viên trong một tổ chức cơ sở. Cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ ngoài Đảng về chính trị đều là cán bộ quần chúng của Đảng có nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục  chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước khi tiếp xúc với nhân dân. Cán bộ quần chúng của Đảng trong tuổi thanh niên thì giáo dục bồi dưỡng phát triển đoàn viên. Trong quần chúng tôn giáo cán bộ quần chúng và đoàn viên phải nhằm quần chúng cách mạng, tuy còn tin đạo nhưng trung thành với cách mạng, tin theo sự lãnh đạo của Đảng. Phát triển đảng viên trong quần chúng tôn giáo phải nắm vững tiêu chuẩn, lựa chọn kỹ trong số cán bộ quần chúng, đoàn viên tích cực nhất qua các phong trào, giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có được thử thách về lòng trung thành với cách mạng, hoàn toàn tự nguyện không tín ngững. Tổ chức Đảng không kết nạp người ngoan đạo vào Đảng nhưng cũng không ép buộc ai bỏ đạo để vào Đảng.

d. Chú trọng cán bộ quần chúng và có phương pháp đào tạo bồi dưỡng tốt.

Muốn có đảng viên phải có đoàn viên và cán bộ quần chúng tốt. Có như thế mới bảo đảm tiêu chuẩn đảng viên và phát triển được nhiều đảng viên.

Phương pháp cơ bản và thiết thực để đào tạo bồi dưỡng cán bộ quần chúng và đoàn viên là đào tạo tại chỗ, kềm cặp trong công átc hàng ngày, giao công kiểm việc rõ ràng, cho dự các hội nghị sơ kết tổng kết, tự phê bình và phê bình trong các cuộc sinh hoạt lệ… để không ngừng nâng cao giác ngộ cách mạng, trình độ chính trị, năng lực và phương pháp công tác. Từng lúc cho dự tập huấn chuyên đề hoặc đi học chương trình ngắn ngày. Mặt khác tuyển chọn một số có nhiều triển vọng đưa đi đào tạo dài hạn nhất là thành phần công nhân và trẻ.

Đ. Đảng lãnh đạo dân vận mặt trận:

Các cấp uỷ Đảng và chính quyền cần khắc phục tình trạng coi nhẹ công tác dân vận mặt trận, dùng các đoàn thể quần chúng như những công cụ của chính quyền, đồng thời cũng khắc phục khuynh hướng tách rời với chính quyề. Cần nhận rõ mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân lao động làm chủ tập thể. Đoàn thể là một tổ chức rộng rãi của quần chúng; tập hợp quần chúng tiến bộ, phải có vị trí xứng đáng trong hệ thống chuyên chính vô sản, tham gia mọi quản lý xã hội.

Ở quận phân công một uỷ viên Thường vụ Quận uỷ phụ trách, có 1 số cán bộ giúp việc, ở phường phân công một chi uỷ viên chuyên trách phải dành phần lớn thì giờ làm công tác dân vận mặt trận.

Công tác thứ sáu: TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ CẢI TIẾN LỀ LỐI LÀM VIỆC

1. Công tác chính trị tư tưởng:

a. Trong 2 năm tới phải tạo được sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức tư tưởng của cán bộ, đảng viên về tình hình và nhiệm vụ mới được vạch ra trong nghị quyết Đại hội 4, nghị quyết đại hội lần thứ I của Đảng bộ Thành phố và Đảng bộ quận.

Nghị quyết lần này là nghị quyết cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cán bộ đảng viên xung phong gương mẫu, lôi kéo quần chúng quyết tâm thực hiện cho kỳ được những chỉ tiêu của Đại hội Đảng bộ vạch ra.

Trong phổ biến nghị quyết phải giải quyết thật sâu sắc những vấn đề về quan điểm lập trường trong việc đánh giá tình hình đã qua và nhận thức những nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp công tác sắp tới của Đảng bộ. Xây dựng những quan điểm tư tưởng đúng đắn, đấu tranh phê phán mọi tư tưởng và hành động làm trở ngại bước tiến lên của công cuộc cải tạo và xây dựng, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.

b. Nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên, lấy gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Hồ Chủ tịch để giáo dục rèn luyện, làm cho mọi đảng viên thực sự tiêu biểu là con người xã hội chủ nghĩa.

Thường xuyên giáo dục cán bộ đảng viên thấm nhuần phương hướng tư tưởng đã được đại hội 4 vạch ra “phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiểu tư sản mà biểu hiện phổ biến về mặt chính trị là sự giao động hữu khuynh và “tả” khuynh mà hữu khuynh là chủ yếu; về mặt ý thức là chủ nghĩa cá nhân dưới nhiều màu sắc; về mặt phươg pháp là chủ nghĩa chủ quan, một chiều. Phải kiên quyết đấu tranh chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và những tàn dư tư tưởng phong kiến trong cán bộ, đảng viên.

Ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi đến mức thấp nhất thoái hoá về phẩm chất đạo đức trong cán bộ đảng viên. Trong sinh hoạt, hàng tháng, 3 tháng của chi bộ ngoài kiểm điểm công tác lãnh đạo có phần tự phê bình phê bình của đảng viên, cấp uỷ viên. Quận uỷ 6 tháng kiểm điểm công tác 1 lần. Mỗi năm có 1 đợt kiểm điểm tự phê bình của cấp uỷ viên, cán bộ, đảng viên.

Song song với sinh hoạt nội bộ, phát động phong trào quần chúng giám sát, kiểm tra tư cách cán bộ đảng viên, kiểm tra các hoạt động của Nhà nước.

2. Công tác tổ chức:

Ra sức củng cố và kiện toàn hệ thống chuyên chính vô sản ở quận và phường, qua đó mà củng cố xây dựng Đảng.

a. Xây dựng củng cố tổ chức cơ sở Đảng là nhiệm vụ hàng đầu của Quận uỷ.

Củng cố chi bộ phải gắn liền việc củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng, bảo đảm xây dựng ở cơ sở một cơ cấu tổ chức vững mạnh phù hợp tình hình cụ thể của địa phương. Ngoài việc quan tâm chi bộ phường, củng cố chi bộ xí nghiệp, trường học, bệnh viện, cửa hàng, cơ quan, đơn vị. Xác định rõ nhiệm vụ chính trị từng loại chi bộ trong giai đoạn mới, Chi bộ phải có khả năng lãnh đạo toàn diện: Lãnh đạo chính quyền, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, vận động phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, kế hoạch và luật pháp của Nhà nước.

Tăng cường sự chỉ đạo của Quận uỷ đối với cơ sở, trong 2 năm 1977-1978 phấn đấu nâng 2/3 chi bộ khá, 1/3 chi bộ trung bình, không có chi bộ kém. Phân công từng Quận uỷ viên phụ trách từng phường và một số tổ chức cơ sở trọng yếu khác và phức tạp. Nhanh chóng hình thành hạt nhân lãnh đạo ở nơi chưa có cơ sở Đảng. Mở các lớp tập huấn, huấn luyện ngắn ngày bồi dưỡng năng lực lãnh đạo các chi uỷ. Đảng uỷ đặc biệt là bí thư chi bộ. Quan tâm hơn nữa đời sống, chế độ lượng bổng và phụ cấp đối với cán bộ cơ sở, cán bộ đi công tác vùng kinh tế mới, tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở phát huy tinh thần và khả năng công tác.

b. Kiện toàn cấp quận đủ sức lãnh đạo toàn diện nhất là khâu lãnh đạo quản lý kinh tế, đưa phong trào cách mạng của quần chúng ở địa phương tiến lên liên tục. Tranh thủ các ban sở thành phố củng cố phát triển các ban phòng quận, xây dựng củng cố hệ thống ngành ở cơ sở để hình thành đồng bộ bộ máy quận phường và các tổ chức cơ sở khác nhất là bộ máy quản lý kinh tế.

3. Công tác quản lý, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:

a. Trên cơ sở đội ngũ cán bộ hiện có, bố trí lại những trường hợp chưa hợp lý, phát huy tốt khả năng các loại cán bộ đồng thời có qui hoạch kế hoạch đào tạo cán bộ kịp thời đáp ứng yêu cầu trước mắt và sau này. Phân loại cán bộ đảng viên để có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng sát từng loại. Ra sức đào tạo gần 500 đảng viên hiện có phần lớn lên cán bộ cơ sở Đảng. Tuyển chọn một số cán bộ cơ sở, sơ cấp còn trẻ đưa đi đào tạo dài hạn theo kế hoạch của Thành.

b. Lựa chọn những phần tử ưu tú xuất thân thành phần cơ bản nhất là công nhân trực tiếp sản xuất, trưởng thành qua các phong trào quần chúng để đào tạo hàng loạt cán bộ mới, trẻ, nữ, bổ sung đội ngũ cán bộ lđãnh đạo và quản lý của Đảng, chính quyền và đoàn thề đảm bảo cho Quận, cơ sở, cung cấp cho trên và nhằm đảm bảo tính kế thứa trong đội ngũ cán bộ.

Năm 1977 đào tạo 2.000 cán bộ quần chúng, 1.400 đoàn viên, 500 đối tượng phát triển đảng viên. Năm 1978 đào tạo 4.000 cán bộ quần chúng, 2.800 đoàn viên, đào tạo 1.000 đối tượng phát triển Đảng.

Về văn hoá phát động một phong trào học, học tập tại chức, nữa tập trung, bắt buộc cán bộ đảng viên phải học tập hết cấp 2, phấn đấu mỗi năm lên 1 lớp.

c. Thẩm tra sế đảng viên kết nạp từ năm 1974 đến nay theo chỉ thị 235 của Ban Bí thư TW Đảng. Trong 2 năm sắp tới giải quyết xong cơ bản các vấn đề tồn tại về chính trị trong cán bộ trung sơ cấp và cấp uỷ viên cơ sở. Trong năm năm giải quyết xong cơ bản cán bộ cơ sở còn lại và đảng viên. Số đảng viên trải qua tù đày dưới chế độ cũ hoặc đứt liên lạc cần được thẩm tra kết luận rõ, phải được bồi dưỡng giúp đỡ đúng mức.

4. Phát triển đảng viên:

Trên cơ sở phát triển thực lực cách mạng và đào tạo cán bộ quần chúng, đoàn viên, trong 2 năm 1977-1978 phấn đấu phát triển gấp đôi số đảng viên hiện có, năm 1977 trên 300 đảng viên, năm 1978 trên 500 đảng viên.

Hướng phát triển nhằm tất cả các loại tổ chức cơ sở, tiếp tục phát triển ở phường, qua hình thành các tổ hạt nhân Đảng ở xí nghiệp, bệnh viện, trường học, cửa hàng, phát triển đảng viên thành lập chi bộ. Phấn đấu đến cuối năm 1978 các tổ chức cơ sở phần lớn có chi bộ Đảng, số ít còn lại có tổ hạt nhân Đảng, năm 1977 phấn đấu các xí nghiệp quốc doanh, các trường học lớn, bệnh viện và cửa hàng lớn có chi bộ Đảng.

Nâng tỷ lệ đảng viên thành phần công nhân lên 15%, chủ yếu là công nhân trực tiếp sản xuất.

Kiện toàn các ban làm công tác xây dựng Đảng và các bộ phận tổ chức cán bộ của các ngành để giúp Quận uỷ thực hiện tốt các nhiệm vụ trên.

5. Cải tiến lề lối làm việc:

Từ đây đến cuối năm 1977, việc quận đi xuống cơ sở, phường đi vào dân thành nề nếp.

Qui định cụ thể và chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hội nghị, báo cáo, thính thị, học tập, phê bình và tự phê bình…

Giản chính bộ máy hành chính gọn nhẹ, giảm bớt thủ tục giấy tờ để thực hiện tốt chế độ đi xuống cơ sở.

Tóm lại, các nhiệm vụ và mục tiêu trên đây có mối quan hệ hữu cơ với nhau không thể tách rời nhau và các biện pháp trên đây cũng là một thể thống nhất nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ và các mục tiêu trên.

Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, phân bố lại lực lượng lao động, bố trí lại dân cư hợp lý, kết hợp khắc phục các hậu quả của chiến tranh và tệ nạn xã hội là nhằm tạo điều kiện để tổ chức lại sản xuất, lưu thông phân phối, xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sản xuất phát triển, trên cơ sở đó ổn định vững chắc đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội. Ngược lại, thực hiện tốt các nhiệm vụ khôi phục và phát triển sản xuất, đẩy mạnh hoạt động các ngành kinh tế khác, ổn định đời sống nhân dân có tác dụng củng cố và phát huy thắng lợi việc thực hiện các nhiệm vụ trên.

Công tác tư tưởng và văn hoá giữ vai trò rất quan trọng vì “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”.

Công tác xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, các đoàn thể quần chúng, xây dựng và củng cố Đảng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là những điều kiện quyết định trước tiên nhằm tạo ra một phong trào cách mạng của quần chúng từng bước tiến lên thành cao trào, đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc cải tạo và xây dựng. Muốn vậy phải phát huy cho kỳ được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực, khắc phục tệ nạn quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, cán bộ đảng viên phải nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu, đi đầu trong các phong trào hành động cách mạng của quần chúng.

Tổ chức thực hiện nghị quyết trên đây phải nắm lại tình hình cơ bản ở các loại tổ chức cơ sở, phải có sự hướng dẫn cụ thể của cấp trên cho cơ sở, phải phát huy cao hợp đồng xã hội chủ nghĩa giữa quận và phường, giữa các ban phòng cấp quận và các phường mới huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản từng cấp và kết hợp các cấp với nhau, sau đại hội phải tổ chức nhiều cuộc hội nghị chuyên đề về 6 công tác và các vấn đề lớn trong từng công tác.

Nhiệm vụ 2 năm tới của Đảng bộ và nhân dân quận 3 hết sức nặng nề nhưng rất vẻ vang. Con đường đi tới của chúng ta không chỉ có thuận lợi mà còn nhiều khó khăn phức tạp nhưng chúng ta có đủ cơ sở và khả năng vượt qua được mọi khó khăn và giành thắng lợi ngày càng to lớn.

Thông báo